Thú thực, dù có nghe tên, nhưng tôi chưa đọc thơ Đỗ Doãn Phương trước khi anh được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2011. Khi giải thưởng thường niên của Hội được thông báo, cái tên Đỗ Doãn Phương đã được nhắc đến khá nhiều.
Đỗ Doãn Phương đọc thơ tại Văn Miếu |
Hai năm trước, một tờ
báo mạng cho rằng Đỗ Doãn Phương là “người quét sạch” những bụi bậm của thơ trẻ
bằng tập Những ngọn triều nhục cảm. Giờ đây, vẫn với sức mạnh ấy, nhưng đắm sâu
hơn, phổ quát hơn và nhân tính hơn, tập thơ Hoan ca tiếp tục làm người đọc rung
động bởi vẻ tráng lệ của ngôn từ và cái chiều kích hiện đại trong mỗi hình
ảnh(tôi nhấn mạnh-NHQ). Cái tôi
trong Hoan ca không than vãn, không kiêu căng, không viên mãn như thể là thế
giới do mình tạo ra. Cái tôi ấy, mấp mé ở ranh giới giữa đời thực và Cái Tôi
siêu đẳng. Nơi con người, kiên trì sống hết giấc mơ, trí lực của mình, gục ngã
trước giới hạn trần thế cuối cùng, được nâng dậy, và hiệp thông với cái tôi tuyệt
đối của hoàn vũ.
Ở bài viết Lại phải khởi
đầu từ nơi kết thúc,
nhà thơ Đặng Huy Giang hào hứng ca ngợi: Không phải ai cũng có tâm trạng
mang màu sắc thái độ như Đỗ Doãn Phương: Thân thiết đến mức tôi tưởng tôi không
phải từ ai
hết/ Rườm rà đến mức làm tôi chán ngắt. Không phải không có lúc, Đỗ Doãn Phương
(hoặc nhìn thấy) sự bất an, bất yên của đời sống, nhưng chính ngọn đèn trên
khung cửa của tình yêu đã giúp anh đẩy lùi cái chết (có thể là đẩy lùi tất cả)
ra ngoài cửa chính đã đóng chặt…Thơ Đỗ Doãn Phương là thơ hướng nội, hanh
thông, nhất quán về giọng điệu, khiển ý, dựng tứ và có chiều sâu. Đọc Hoan ca,
tôi càng tin thơ chính là sự vượt thoát (theo quan niệm của nhà thơ Mai Văn
Phấn) và cũng chính là chứng ngộ của tâm hồn…
Tôi bắt đầu đọc Đỗ Doãn
Phương, thật chậm rãi và kỹ càng mong nhận ra được cái mới lạ, chiều sâu và sự “vượt thoát”
của thơ anh. Bởi, nếu thơ Đỗ Doãn Phương đạt tới tầm đó thì anh chắc
chắn là một “hiện tượng thi ca” của Đất Việt, một tài năng trẻ đáng nể. Và,
cũng như Đặng Huy Giang, tôi cũng sẽ ngân lên một câu: Lại phải khởi đầu từ nơi kết thúc!
Tuy nhiên, sau khi đọc Phương,
tôi có cảm giác anh như con chim vỗ cánh rầm rập, ầm ã trên mặt đất đầm đẫm
nắng mưa nhân thế nhưng chưa bay lên được. Bầu trời cao xanh còn xa tít, xa vời với
người làm thơ trẻ ấy. Anh vẫn chưa “vượt thoát” được khỏi
không gian thơ chật chội và sự quẩn quanh đến ngột ngạt trong đám ngôn từ ít phát
sáng. Trước khi đi vào chứng minh điều vừa nói, tôi muốn bày tỏ cảm nhận của
mình với bài thơ Ngày cô mất của Đỗ Doãn Phương. Bài thơ đã làm tôi
rưng rưng xúc động bởi cái tình của người viết và những hình ảnh vừa thực vừa
ảo, tâm linh và nhân văn: Cánh đồng bỗng chật người quá cố/ Bởi ký ức của
những người đang sống cùng hồi tưởng/ Những người quá cố đi lại trò chuyện nói
cười/ Khi trò chuyện vô tình họ làm sống lại những người đã sống khác/ Trong
hồi tưởng của họ-không bao giờ chết.
Thơ Đỗ Doãn Phương đề cập
nhiều tới sự sống-chết/ sinh-tử. Vấn đề muôn thuở của nhân loại nên nó không xa
lạ gì với con người và thơ. Phương suy nghĩ về nó qua những giấc mơ, những
sat-na thảng thốt trong dòng đời trôi nổi. Nhưng theo tôi, xin được nói
thật, thơ anh hình như chưa tải được cái “nỗi” ấy một cách tự nhiên và sâu
lắng thông qua những hình tượng đắc địa nên còn nhiều lắm những câu chữ gồng
gánh ý nghĩ khá trần trụi và lộ liễu của tác giả.
Tôi đọc ra cái sự vội vã, khiên
cưỡng của hành trình thơ trong bài “Giác ngộ”: Trong đêm, giữa giấc ngủ
sâu, lóe sáng/ Một ý nghĩ khởi xuất/ Kim đồng hồ chết giấc/ Ta thấy rạng sáng
cả căn nhà/ Rạng sáng toàn thân/ Từ đỉnh tóc tới móng chân trong suốt/ Ta ngồi
dậy trang nghiêm nhìn/ Đứa bé đẹp lạ lùng và người phụ nữ cũng vậy/ Ta điểm lại
các việc như trước chuyến đi cuối cùng/ Và chờ khoảnh khắc/ Sang một con người
khác. Tứ thơ, ngôn ngữ, hình ảnh không có gì mới lạ ấn tượng. Thơ thủ tiêu
tiết tấu, âm điệu thành ra kiểu thơ nói, ngang ngang. Thơ chỉ có ý chứ không
nghe được “điệu
tâm hồn” đâu cả.
Đại trà dạng “thơ” kể lể gần
giống sự sao chép hiện thực:
-Ta lạc trong thành phố này/ Hôm
nay, trèo lên tầng nhà cao, nhìn xuống thành phố/ Nhìn rõ tất cả các con đường,
tòa nhà, nơi ta sống/ Nhìn rõ dòng người đang nuốt dần từng cá thể (Tầng khác)
-Đột ngột hiện ra cây
mận già/ Đột ngột hoa mận trắng nở trắng/ Đột ngột một tấm lưng còng/ Xoay
khuôn mặt già dăn deo lại (Thăm vườn nhà cũ).
-Tôi mơ thấy em hôm qua,
vào khoảng đêm về sáng/ Rúc đầu vào chăn tôi ngủ nán/ Ngoài trời dần sáng bạch/
Người nhà bảo tôi lười quá/ Chỉ em gái lo tôi ốm (Giấc mơ)
-Bất chợt ngắm các cháu
trong gia đình/ Cùng đám trẻ con lâu nhâu hàng xóm/ Chúng đã biết đi, biết nói từ lâu lắm…/
Chúng gọi tôi bằng bác/ bằng chú, bằng anh/ Có đứa ôm cổ bá vai hỏi thăm, có
đứa tròn mắt khóc thét (Lũ nhóc con)
Thơ không cần sự chọn lựa,
sắp xếp, trau chuốt ngôn từ nữa hay sao mà viết “phô” và lủng củng thế này: Khi
nghệ thuật đã bị vật chất sắp đặt/ Mọi người cũng bị xích chân vào vị trí của
mình/ Một trường phái mỹ học mới ra đời/ Cái đẹp được sắp
xếp lại một cách vững chắc/ Điều đó chỉ chứng tỏ nó chưa bao giờ lộ diện/ Nó
bước qua và làm lộn xộn đổ vỡ/ Các căn phòng xếp đặt của chúng ta (Ghi ở triển
lãm sắp đặt)
Bài thơ Sinh được người
ta chọn để trích dẫn khen tụng cũng chẳng có gì đặc biệt về cả thi tứ, thi ảnh,
ngôn từ:
Như mặt đất khô nức nở bởi mưa/ Tôi nức nở trên mặt đất/ Bởi Thiên Nhiên
bủa vây tứ phía/ Và sự lặng ngắt của nó/ Hóa thân thành vạt rừng, đồi. Trong
lặng ngắt, nó tuôn vào tôi như suối/ Và làm tan rã bản thể tôi/ Chỉ còn cảm
thấy tim mình đập trên đá sỏi/ Và thoi thóp trên lớp vỏ cây/ Những cái cây cắm
xuống đất như bị chôn sống/ Trong tĩnh lặng tột cùng/ Thiên Nhiên mở ra vòm tử
cung Bà Mẹ/ Đón tôi trở ngược vào/ Để được phục sinh. Tôi thấy: một dấu phẩy
(,) vô duyên đặt giữa hai từ rừng đồi, những từ khái
niệm không bị hạn chế: bản thể, phục sinh và cái tứ quá lộ.
Tôi hình dung ra “trường”
thơ Đỗ Doãn Phương đang bị bó hẹp quanh quẩn trong một ngôi nhà, một thành phố,
những giấc mơ. Hình như, nó đang thiếu năng lượng nội lực để mở ra những không
gian lớn, thiếu sự từng trải để ngẫm nghĩ sâu hơn về nhân tình
thế thái, thiếu xúc cảm để truyền cho thơ những rung động mạnh mẽ, thiếu sáng
tạo để tạo dựng được những bài thơ độc đáo. Cảm giác đọc thơ
dịch, giông giống một đôi ai đó cứ hiện rõ dần trong tôi khi đọc thơ Đỗ Doãn
Phương.
Theo tôi, Đỗ Doãn Phương
chưa phải là người mở ra một con đường trong thơ hiện đại và thơ anh
chưa đạt tới vẻ tráng lệ của ngôn từ và cái chiều kích hiện đại trong mỗi hình
ảnh như tờ Nghệ thuật mới tụng ca và cũng chưa đến độ vượt
thoát, chứng ngộ của tâm hồn như Đặng Huy Giang nhận xét.
Tôi cũng không xếp được thơ
anh. Đỗ Doãn Phương không có cái dòng mạch cuồng nhiệt mê đắm của Vi Thùy Linh,
không có cái tinh tế kiệm lời của Phan Huyền Thư, không có cái liên tưởng
phong phú của Nguyễn Phan Quế Mai, không có cái ngồ ngộ của Du Nguyên, không có
những vòng đồng tâm trong thơ như Nguyễn Quang Hưng, không có sự bung mở tươi
mới của Lữ Thị Mai…Thơ Đỗ Doãn Phương chất nghĩ nhiều quá, lại khô khan, thiếu
sự khám phá tươi tắn của tuổi trẻ.
Xin nhắc lại, tôi thích bài Ngày
cô mất của Đỗ Doãn Phương. Một bài thơ tình ý quyện vào nhau, tự nhiên,
chân thật, không cao giọng triết luận mà người ta vẫn nhận ra cái đẹp của cuộc
sống, của con người qua mối quan hệ sinh-tử…Chỉ thế thôi. Và, tôi hy vọng anh
sớm quên đi giải thưởng vừa được nhận của Hội Nhà văn Việt Nam để có những
tác phẩm hay.
NGUYỄN HỮU QUÝ
No comments:
Post a Comment