Vào thập kỷ 60 – 70 của thế kỷ 20, Phạm Công Thiện là một hiện tượng dị thường trong hoạt động văn học nghệ thuật và triết học ở miền Nam nước Việt. Nhiều người, trong đó có nhà thơ Nguyễn Vỹ đã công nhận Phạm Công Thiện là thần đồng. Sinh ngày 1 tháng 6 năm 1941 tại Mỹ Tho, 15 tuổi đầu, Phạm Công Thiện đã thông thạo nhiều ngoại ngữ: Pháp, Anh, Nhật, Hoa, Tây Ban Nha, tiếng Latinh và cả tiếng Phạn. Từ năm 13 đến năm 16 tuổi, Phạm Công Thiện đã có những bài viết về văn học, triết học đăng trên tạp chí Bách Khoa – một tờ báo lớn có uy tín trong giới trí thức ở miền Nam. Ngoài hai mươi tuổi đã viết trên 20 cuốn sách về ngôn ngữ học, văn học, triết học. Phạm Công Thiện còn soạn sách Anh ngữ Tinh âm. Tính đến năm 2000, Phạm Công Thiện đã viết và xuất bản ở trong nước và nước ngoài 30 tác phẩm. Giới trẻ ở miền Nam say mê tác phẩm của Phạm Công Thiện và xem ông như thần tượng của mình. Các tác phẩm của Phạm Công Thiện như: Ý thức mới trong văn nghệ và triết học (1965), Im lặng phố thẳm (1967), Hố thẳm của tư tưởng (1967), Ý thức bùng vỡ (1970), Nguyễn Du, đại thi hào dân tộc (1996)... Có sức cuốn hút người đọc một cách kỳ lạ. Phần đông thanh niên miền Nam xem những tác phẩm của Phạm Công Thiện là sách gối đầu giường của mình.
Phạm Công Thiện là một thiên tài. Về
học hành, ông không tốt nghiệp một trường đại học nào. Thậm chí, mảnh bằng tú
tài cũng không có. Nhưng, với tài năng và tác phẩm của mình, Phạm Công Thiện
được mời dạy ở một số trường đại học trong và nước ngoài. Từ năm 1966 đến 1970,
Phạm Công Thiện giảng dạy và làm khoa trưởng khoa Văn học và Nhân văn của đại
học Vạn Hạnh (Sài Gòn). Phạm Công Thiện là một trong những người sáng lập và điều
hành tạp chí "Tư tưởng" của
đại học Vạn Hạnh. Năm 1970, làm giáo sư triết học phương Tây của trường đại học
Toulouse (Pháp). Năm 1983, làm giáo sư Phật giáo viện College of Buddhist
Students ở Hoa Kỳ. Từ đó đến nay Phạm Công Thiện lúc thì sống ở Hoa Kỳ, lúc thì
sống ở Úc, tiếp tục viết sách. Phần lớn tác phẩm của ông là nghiên cứu về Phật
giáo.
Cuộc đời Phạm Công Thiện có những dị
thường hơn người. Từ một tín đồ Thiên Chúa giáo, đến năm 1964, ông trở thành
thầy chùa với pháp danh Nguyên Tánh. Năm 1970, sống tại Pháp, Phạm Công Thiện
cởi bỏ áo cà sa, lấy vợ- một người theo đạo Cơ Đốc.
Trong tác phẩm của mình, Phạm Công
Thiện đã phủ nhận và lên án các triết gia và các học thuyết từ thời cổ đại đến
hiện đại. Có lúc, Phạm Công Thiện còn nặng lời phủ nhận cả Đức Phật Thích Ca và
Đức Chúa Giêsu. Cuộc sống Phạm Công Thiện đầy những mâu thuẫn. Phải chăng cuộc
đời của thiên tài Phạm Công Thiện gặp nhiều bi kịch: Bi kịch chiến tranh của
đất nước, bi kịch của gia đình, bi kịch của bản thân. Từ đó, bùng vỡ ý thức phản
kháng thể hiện trên tác phẩm của mình. Nhiều người gọi Phạm Công Thiện là triết
gia. Nhưng Phạm Công Thiện chưa bao giờ nhận mình là một triết gia cả. Phạm
Công Thiện thường tự nhận mình là nhà thơ. Năm 1966, tập thơ "Ngày sinh của rắn" của Phạm Công Thiện
phát hành đầu tiên tại Pháp. Đến năm 1967 được tái bản và phát hành tại Việt
Nam. Năm 1988 được tái bản lần nữa và phát hành tại Hoa Kỳ. Đến năm 2000, Phạm
Công Thiện cho ra đời tập thơ thứ hai với tựa đề "Trên tất cả đỉnh cao là im lặng" tại Hoa Kỳ, đến năm 2009 được
tái bản và phát hành rộng rãi tại Việt Nam.
Phạm Công Thiện quan niệm: "Thơ
ca bí nhiệm như một tôn giáo. Thơ ca làm cho chúng ta luôn mơ mộng và suy
tư". Trong thơ, Phạm Công Thiện không còn vẻ phản kháng, ngông
nghênh như trong các tác phẩm biên luận, phê bình, triết học hay tùy bút. Thơ
Phạm Công Thiện mới lạ, mỗi bài là một nét riêng, chuyên chở ý tưởng, cảm xúc,
tràn ngập những cung bậc tình cảm đầy tha thiết, đưa người đọc vào những khám
phá mới, bắt gặp những sắc màu mông mênh hư ảo:
"mười
năm qua gió thổi đồi tây
tôi
long đong theo bóng chim gầy
một sớm em về ru giấc ngủ
bông trời bay trắng cả rừng cây
gió thổi đồi tây hay đồi đông
hiu hắt quê hương bến cỏ hồng
trong mơ em vẫn còn bên cửa
tôi đứng trên đồi mây trổ bông
gió thổi đồi thu qua đồi thông
mưa hạ ly hương nước ngược dòng
tôi đau trong tiếng gà xơ xác
một sớm bông hồng nở cửa đông".
(Trích trong
tập thơ "Ngày sinh của rắn")
Thơ Phạm
Công Thiện còn chứa đựng triết thuyết của Đức Phật. Một tiếng chim hót ngang
trời bi thương, chứa đựng lẽ vô thường của vạn vật:
Hồi chuông chùa vọng luân hồi
Chim Chiền Chiện hót ngang trời đau
thương
Trùng dương nằm đợi vô thường
Đồi cao bạt gió hai đường âm u"
Phạm Công
Thiện có những bài thơ rất ngắn nhưng chứa đựng cả không gian và thời gian:
"Mưa chiều thứ Bảy tôi về muộn
Cây khế đồi cao trổ hết bông"
(Trích trong
tập thơ "Ngày sinh của rắn")
Chính bài
thơ chỉ có hai câu thơ này đã tạo cảm xúc cho nhà văn Võ Hồng viết truyện ngắn
"Hoa khế lưng đồi" được
nhiều người đọc yêu thích.
Trong tập
thơ "Ngày sinh của rắng",
Phạm Công Thiện viết những bài thơ với ngôn từ kỳ lạ, khác thường. Vừa gần gũi,
vừa xa lạ với cuộc sống đời thường, mang vẻ dung tục lại đầy bí hiểm:
"tôi chấp chới
đắng giọng
giữa tháng ngày mơ mộng
nốt ruồi của hương
hay nốt ruồi của rigvéda
tôi mửa máu đen
trên nửa đêm Paris
tôi giao cấu mặt trời sinh ra mặt
trăng
tôi thủ dâm thượng đế sinh ra loài
người
cho quế hương nằm ở nhà thương điên
của trí nhớ
mặt trời có thai!
Mặt trời có thai!
Sinh cho tôi một đứa con trai mù
mắt"
Năm 1980,
Phạm Công Thiện cho ra đời bài thơ "Trường
giang Mỹ Tho" với lời thơ mới mẻ, ý thơ sâu sắc. Bài thơ gần với hơi
thở của một trường ca. Đây là bài thơ đẹp của Phạm Công Thiện. Nhiều nhà nghiên
cứu phê bình đã xếp bài thơ "Trường
giang Mỹ Tho" vào những bài thơ hay nhất của nền thi ca Việt Nam hiện
đại:
"...Thôi
nôi con trường giang mọi rợ
tôi
mọi mãi mỗi trường an
con
diều hâu chạy bắt con chim
con
chim lòn qua kẽ núi
lọt
ra gió Hải Nam thổi hiu hắt về Trường Sơn
nước
Trường Giang mẹ ru chim ngủ
con
lớn khôn rồi bỏ mẹ bay xa
Cha
con già Trường Sơn con ơi
trường
giang đi chảy mãi nửa đời
trường
sơn già ngồi đứng hứng mưa
mưa
đi từ dưới chân đỏ bồ câu thượng thủy Tây Hồ
con
lớn khôn rồi quên đất quên sông
con
sông nào Cửu Long chảy từ thượng tứ
Mỹ
Tho buồn thây chết trôi sông
Súng
nổ bên cầu quay
Mẹ
bồng con đóng cửa
Lính
Tây dương đang say rượu giao thừa
Bông
cúc vàng đầy sân ướt máu
Ba
con già con trẻ đi xa
Súng
nổ trên mái lầu
Nhà
cháy bên hông
Mấy
dì con chơi tứ sắc
Con
còn nhỏ quá con ơi
..."
(Trích bài thơ "Trường giang Mỹ Tho")
Viết về tình yêu, Phạm Công Thiện
viết với một tâm hồn chân thật, đầy cảm xúc, âm điệu nhẹ nhàng gợi cho chúng ta
một nỗi niềm cô đơn, xa vắng:
"cô
đơn về trắng sương rừng
anh
nghe tiếng hát hoang đường nửa đêm
khuya
buồn tủi nhục môi em
mưa
run lặng lẽ trên thềm bơ vơ
tiếng
em vàng xuống đôi bờ
hoang
vu anh đứng đợi chờ chim kêu
tay
gầy ôm chặt tình yêu
anh
về phố gục những chiều hư vô
đời
đi trên những nấm mồ
đau
thương em hát cơ hồ khăn tang
phố
chiều tôi bước lang thang
như
con sông nhỏ mơ màng biển xanh
nửa
đêm khói đốt đời anh
yêu
em câm lặng như cành thu đông
đời
em như một dòng sông
đôi
bờ anh đứng giữa lòng hoa niên
mưa
chiều nước chảy triền miên
một
con chim dại lạc miền hoang lương
về
đâu thương những con đường
lê
thê phố cũ nghe buồn hè xưa"
(Bài thơ "Ca sĩ")
Qua thơ, Phạm Công Thiện như "một
con chim lạ lạc miền hoang lương". Con chim kỳ lạ ấy từ biển lớn
đã bay qua những cánh đồng mênh mông bát ngát của miền châu thổ Cửu Long giang,
bay qua những đỉnh núi cao lộng gió giữa trời, hát lên những khúc ca kinh động
cả đất trời ngân vọng mãi đến ngàn sau ./.
LÊ NGỌC TRÁC
Tài liệu tham khảo & trích dẫn:
- Ngày sinh của rắn (Thơ Phạm Công Thiện)
-
Trường giang Mỹ Tho (Thơ Phạm Công Thiện)
- Ông Phạm Công Thiện (Nguyễn Văn Trung – 2007)
- Nghĩ về nhà thơ Phạm Công Thiện (Phan Tấn Hải)
- Khi thi ca thành tôn giáo: Phạm
Công Thiện (Nguyễn Mạnh Trinh)
- Những nhà thơ hôm nay (Nguyễn Đình Tuyến)
_______________________
_______________________
No comments:
Post a Comment