Luận văn Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở
Miệng từ góc nhìn văn hóa, luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan
với người hướng dẫn là PGS.TS. Nguyễn Thị Bình, tại Đại học Sư phạm Hà Nội năm
2010 đáng lẽ đã rơi vào chìm khuất bởi nó thực sự không có giá trị khoa học.
Nhưng sau đó lại xuất hiện loạt bài được tác giả luận văn thác triển và đăng tải trên website “damau.org” dưới cái tên Những tiếng nói ngầm đã thu hút một số nhà phê bình khác lần tìm đến bản luận văn này, phản bác những diễn đạt mơ hồ và hàm ý văn hóa - chính trị trong đó, như loạt bài phê phán của Nguyễn Văn Lưu trên Văn Nghệ TP. Hồ Chí Minh, 30/5 – 20/6/2013 và các bài viết trên một số tờ báo khác. Nhiều người đã nhận ra ngoài các mơ hồ, sai lạc về mặt khoa học, nó còn ẩn chứa nhiều hàm ý khác về chính trị - xã hội không thể bỏ qua.
Luận văn này đưa vào phần
trình thuật bối cảnh của nó những mô tả khá cẩu thả, sơ sài và sai lệch về Hội
Nhà văn Việt Nam, báo Văn Nghệ cũng như nền văn học nước nhà nói chung. Những
trình thuật kiểu đó trong bản luận văn luôn luôn có xu hướng mở rộng ôm đồm, mơ
hồ, bao gồm nhiều trình bày khái niệm và cụm từ tương đương khái niệm như “một
quốc gia hậu thuộc địa như Việt Nam”, “hậu đổi mới”, “quyền lực văn hóa”, “sự
độc quyền văn hóa”, “cặp Hà Nội - Sài Gòn” v.v., tất cả đều quy chiếu các thực
tại đa dạng phức tạp của đời sống xã hội đất nước với những hiện trạng - viễn
cảnh và vấn đề lịch sử riêng, mà luận văn không tỏ ra nhận thức được, cũng không
đưa ra nguồn tham chiếu phù hợp, chỉ sao chép sự mô tả giản lược từ đâu đó,
hoặc võ đoán hoặc định kiến, không cân bằng khách quan, cũng không có gì là
phát hiện. Hơn nữa, cái mà luận văn này tự xác định như một “góc nhìn văn hóa”
về đối tượng nghiên cứu của nó lại có những biểu hiện hoang tưởng hiếu đại kỳ
quặc; thí dụ như:
“Cùng với sự nổi tiếng của Mở
Miệng, Nxb Giấy vụn đã trở thành một huyền thoại: Nxb ngoài luồng, huyền thoại
về La Hán Phòng nơi hội tụ các anh em giang hồ, huyền thoại về sự thăm dò của
an ninh, huyền thoại của những kẻ sẵn sàng “đái vào Chúa”… Những huyền thoại
xây dựng hình ảnh Mở Miệng: Lạ, Phá Phách, phá hỏng tiếng Việt, phản kháng về
chính trị, chống đối chính quyền. Họ là kết hợp của Cách Tân và Phản Kháng.”
(tr.57)
Giọng xưng tụng khá nồng
nhiệt dễ dãi này hẳn không phù hợp với giọng điệu khách quan chặt chẽ, chính
xác, được trông đợi ở một văn bản nghiên cứu khoa học, vậy nhưng nó lại đã được
cấp cho cái tư cách đó. Đây là một điểm then chốt của trường hợp này. Bởi nếu
chuỗi bài viết này chỉ đăng tải tự do trên internet chứ không tập hợp thành một
“luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn”, rồi được thông qua và bảo vệ thành công,
thì hẳn mấy ai biết có những ai chú ý. Nhưng nó đã đưa được vào chỗ “trung
tâm”, vào hệ tri thức “chính thống” một bản văn đả phá “trung tâm” và “chính
thống”. Và có lẽ chẳng hài hước chút nào nếu như về sau chính bản luận văn này
sẽ được ai đó kể đến như một trường hợp thành công “huyền thoại” của trào lưu
phản - văn hóa ở Việt Nam, giống như những “thực hành thơ”, “thơ dơ, thơ rác,
thơ nghĩa địa” mà luận văn này chọn làm đối tượng. Những điều như thế khiến
chúng tôi thấy cần phải tham gia bàn thảo...
1 - Góc nhìn cá
nhân, góc nhìn khoa học hay… góc nhìn khác?
Cần phải nói ngay rằng
chúng tôi thất vọng khi đọc một luận văn thạc sĩ kém tinh thần khoa học và năng
lực nghiên cứu, lỏng lẻo tùy tiện về cấu trúc các chương mục đến như bản luận
văn này.
Và cũng phải nói ngay, năng
lực đọc văn chương thể hiện qua các nhận định tràn lan trong luận văn là rất
đáng ngờ; chẳng hạn, ở trang 38:
“Tập truyện ngắn gần
đây của Bảo Ninh với nhan đề “Chuyện xưa, kết đi được chưa?” (NXB Văn học,
2009) có thể đọc như một nỗi bức bối day dứt với chính sự ám ảnh dai dẳng mà
như vô vọng của nỗ lực xóa bỏ quá khứ, xóa bỏ việc định nghĩa lại quá khứ, cái quá
khứ đã thành lực cản khủng khiếp.” (những chữ in đậm trong các trích dẫn luận
văn này kể từ đây đều do chúng tôi nhấn mạnh)
Với cái văn phong rườm rà
cảm tính biểu thị một nhận thức mơ hồ, một nhận định như thế là rất khiên cưỡng
và sai lầm, chỉ chứng tỏ người đọc này không hiểu nổi các tác phẩm này cùng các
ngữ cảnh đặc trưng của nó, và do đó, tính đa nghĩa văn chương và những ý nghĩa
có thể có của các văn bản.
Hoặc nữa, nếu người đọc này
muốn xác lập kiến giải mới mẻ riêng của mình về một tác giả - tác phẩm đã rất
nổi tiếng và được thảo luận nhiều suốt hơn hai mươi năm qua như Bảo Ninh và các
truyện của ông, thì phải trình bày, ít ra là vắn tắt, luận chứng phù hợp với
văn cảnh khoa học của một luận văn nghiên cứu. Hoặc, khi bàn về một hiện tượng
văn học trong quá khứ như nhóm “Nhân văn giai phẩm”, không thể chỉ quy chiếu ở
một góc nhìn, một hệ quan điểm và cần phải có những luận cứ khoa học nghiêm túc
hơn.
Điều bất ngờ bộc lộ ở nhận
định trên, là cái tâm thế của người: những cụm từ do chúng tôi nhấn mạnh (in
nghiêng) trong trích dẫn trên không mô tả được ý nghĩa hay tinh thần các truyện
ngắn của Bảo Ninh trong tập truyện đã dẫn, nhưng lại mô tả được chính tinh thần
của luận văn này, bởi sự lặp lại các diễn đạt trùng ngôn: nỗi bức bối day dứt -
sự ám ảnh dai dẳng vô vọng/ nỗ lực xóa bỏ quá khứ - việc định nghĩa lại
quá khứ. Và lối diễn đạt cảm tính, khoa đại như thế xuất hiện với tần suất cao
trong suốt cả bản luận văn, các chương đoạn về cơ sở lý thuyết của luận
văn cũng biểu cảm như trong mô tả về đối tượng nghiên cứu – mà thực ra, không
đủ cả lý thuyết lẫn mô tả, chỉ lặp lại các diễn đạt cố gắng giải thích lẫn
nhau, cố gắng cho có vẻ tư biện.
Việc luận văn này tự đưa ra
bằng cớ đa số là các chứng cứ chưa xác định, hoặc các trích dẫn lấy từ các
trang mạng cộng với sự đọc sai lạc của nó đối với những truyện ngắn rất giản dị,
minh bạch, rất khó để mà nhầm lẫn, như trong thí dụ vừa dẫn, khiến chúng tôi
phải cho rằng việc đọc của nó với chính đối tượng nghiên cứu của nó cũng là
không đủ độ tin cậy. Và khiếm khuyết của luận văn này trên phương diện ngữ văn
học bộc lộ đồng bộ với cái yếu và thiếu của nó với tư cách một diễn ngôn khoa
học: không khách quan về cách tiếp cận, không minh bạch về thuật ngữ, không
minh định về các khái niệm vận dụng, không khẳng định được lợi ích của nghiên
cứu và đối tượng thụ hưởng.
Tính không khách quan được
nhìn nhận như một tiền đề của luận văn này, và lập tức bộc lộ tính nước đôi mâu
thuẫn sẽ đi suốt văn bản này:
“tính chất khách quan của
nghiên cứu không được đề cao, bởi tôi sẽ thấy mình không có tâm thế để nói/viết
về hiện tượng này, nếu như tôi không can dự phần nào vào đời sống thơ đương đại,
như một kẻ “ở giữa”, cũng là một kẻ “ngoài lề” khi trực tiếp hay gián tiếp lựa
chọn đứng về phía những cái bên lề. Tuy nhiên, tính chất không hoàn toàn khách
quan và sự trải nghiệm này có thể góp thêm vào những diễn giải về một hiện
tượng chưa hoàn tất, nói riêng Mở Miệng và nói chung về dòng văn học ngầm ở
Việt Nam.
Nỗ lực của tôi là nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện, dưới góc nhìn cá nhân đối
với một hiện tượng đáng kể về văn học và văn hóa nói chung trong nhiều năm qua
ở Việt Nam.”
(tr.5)
Có thể thấy ngay cái gọi là
“góc nhìn văn hóa” nêu trong cái tên của luận án trùng khớp với khẳng định góc nhìn
cá nhân; và suốt cả luận án này không có chỗ nào giải thích quan niệm tác giả về
“văn hóa”/ “góc nhìn văn hóa” – điều không hợp lý khi luận văn đã lựa chọn và
khẳng định đối tượng nghiên cứu là một hiện tượng đặc biệt về văn hóa. Thêm
nữa, khẳng định về tham gia vào “sự trải nghiệm này”, “lựa chọn đứng về phía”
đối tượng nghiên cứu, đã cung cấp cho người nghiên cứu một vị trí người - trong
- cuộc, chính là cái kinh nghiệm được cho là “có thể góp thêm vào những diễn
giải” về đối tượng, rồi gọi đó là nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện, mà không
hề làm rõ khoảng cách cho việc quan sát hay sự khác biệt để cho phép hoặc cản
trở việc tái hiện – những yếu tố mà một luận văn cao học phải trình bày về nghiên
cứu của mình.
Dường như tác giả nhầm lẫn
khi chỉ nêu hạn chế là “Sức hấp dẫn của đối tượng… không đem lại sự tự do cho
người nghiên cứu” (tr.5) – điều có thể ngầm hiểu, thông qua các trình bày về sau
của luận văn, là do đối tượng nghiên cứu bị thể chế hiện hành cấm đoán. Nhưng
những hạn chế của nghiên cứu còn xuất hiện từ chính năng lực và phương pháp của
nó, hay từ quan hệ riêng của nó với đối tượng.
Quan điểm góc nhìn cá nhân
này rõ hơn trong nhận định của luận văn về hai luận văn khác cũng đề cập đến Mở
Miệng “nhưng mang tính chất điểm danh và “nói theo” hơn là bộc lộ sự đọc, chia
sẻ.” hay “dè dặt trong việc tiếp cận hay đánh giá.”(tr.7)
Vậy là tính khách quan của
“nghiên cứu” này đi từ chỗ “không được đề cao” đến chỗ “không hoàn toàn”, mập
mờ với việc “can dự phần nào”, chập mạch với “sự trải nghiệm” đó, rồi có vẻ hiện
ra lại với khẳng định “nỗ lực của kẻ quan sát và tái hiện” để nhằm “tái dựng
một hiện thực như - nó - là”(tr.18).
ở đây, nếu vẫn muốn là
“khoa học” thì sẽ không được phép hy sinh tính khách quan dù với lý do nào. Các
diễn đạt mơ hồ về “tính khách quan không được đề cao” lẫn tính khách quan
“không hoàn toàn” chỉ có thể hiểu là không có nổi tính khách quan cần thiết, hay
một ngụy biện lúng túng về tiêu chuẩn khách quan cho góc nhìn cá nhân.
Phá bỏ ngay từ đầu nguyên
tắc và các tiêu chuẩn về tính khách quan của một nghiên cứu, theo chúng tôi, đã
là phá bỏ tư cách nghiên cứu khoa học của luận văn này, để chỉ còn lại sự lúng
túng và nhầm lẫn của “một góc nhìn cá nhân”.
Chúng tôi cho rằng ở đây
chủ yếu là những lúng túng và nhầm lẫn trong việc cố gắng quan sát và lý giải
một đối tượng đặc biệt đang diễn tiến, trước hết bởi sự mơ hồ về năng lực đọc -
hiểu tác phẩm văn học như đã dẫn ở trên, sau là bởi sự mơ hồ trong cách sử dụng
các thuật ngữ từ loại phổ biến đến loại đặc thù trong các diễn đạt của luận văn
này.
2 - Sự hỗn độn, mơ
hồ của những khái niệm
Về tổng thể, luận văn này
có hai giọng điệu, một giọng đậm dấu ấn “góc nhìn cá nhân”, giọng kia khá hỗn
độn do lấy vào từ các nguồn khác nhau mà đôi khi không cước chú về nguồn. Chúng
tôi sẽ chọn ngẫu nhiên một vài thí dụ để thấy cái cách thức chung của sự nhầm
lẫn ở đây, bởi những diễn đạt của “luận văn” đơn điệu giống nhau từ đầu đến
cuối, không hề phân biệt giữa mô tả với phân tích, giữa trần thuật với nhận
định/đánh giá.
Lưu ý rằng suốt cả luận văn
không có chỗ nào minh định quan niệm về những khái niệm như “hệ thống”, “tổng
thể”, “bản chất”, v.v. mà có lẽ tác giả cho là ai cũng hiểu như mình, trong khi
vận dụng một vài (mảnh) lý thuyết phương Tây làm khung cho nghiên cứu, mà với
những lý thuyết ấy thì những khái niệm chung kia phải được quan niệm lại; và
trong khi đối tượng được đề cập có quy mô nhỏ đặc thù, có những liên hệ phức
tạp với “xã hội” và “văn hóa”. Tinh thần khoa học biến mất trong các mối tơ vò
của luận văn, bởi đã bỏ qua nguyên tắc về thứ nguyên phân loại; và bỏ qua tính
tương đối khi cố lập ra những mối quan hệ giữa những thứ sẽ phải biến đổi khi
có liên hệ với nhau.
Đây là một trong những mớ
bòng bong đó:
“Ở đây quan niệm văn hóa
như một tổng thể lại cần được xác định. Mỗi cấu trúc xã hội đều hướng tới sự
duy trì những giá trị tổng thể của hệ thống, trong đó thiết lập những thứ có
thể tạo nên “trung tâm” của nó để làm trục vận động xã hội. (i)
Trung tâm này thường được
nhìn như một bức thành cố định, rắn chắc, khó lay chuyển; và khi nó được thừa
nhận , nó củng cố vị trí và sự rắn chắc của nó bằng việc gạt bỏ và chèn ép những
cách thức tồn tại khác, những Cái Khác (Others) hoặc muốn tồn tại, những cái
khác đó phải ở bên lề, hay phải ngoại vi hóa. (ii)
Có thể hình dung diễn ngôn
văn hóa, trong đó có văn học, như một sân chơi, mà người tham gia phải tuân
theo những luật lệ định sẵn. Những cuộc nổi loạn trong văn học – thường được gắn
kèm với danh từ “cuộc chơi” – thực ra lại là cuộc chơi nhằm phá hủy diễn ngôn
quyền năng này và duy trì một quyền năng khác.(iii)
Do đó, trong cấu trúc tổng
thể này luôn ngầm diễn ra một mối quan hệ xung đột về quyền lực, với nhu cầu
thay thế, chiếm chỗ. Và do đó, cái thường được xem là giá trị (tức cái trung tâm
hiện hữu) không phải cái phổ biến, cái bất biến mà có tính điều kiện, phụ thuộc
vào những bối cảnh về văn hóa, xã hội, chính trị cụ thể, trong đó, một trung
tâm đang tồn tại có thể bị hủy bỏ quyền lực, giải cấu trúc, hay “giải trung
tâm”. (iiii)
… Quá trình giải trung tâm,
quá trình phá vỡ những điều kiện của luật chơi trong sân chơi văn hóa cũng
chính là cái gọi là “bản chất chính trị của văn hóa.” (iiiii) (tr.21)
Đoạn trích trên diễn đạt
một ý đồ lập luận dựa trên quan hệ nhân - quả nhằm dẫn giải căn cứ lý thuyết về
“trung tâm” và “giải trung tâm” thông qua bước “nổi loạn” của “văn học” như
là “Cái Khác”. Nhưng người viết đã tự phá ý đồ đó của mình bởi những bước sai
lầm lúng túng và tham vọng ôm đồm; cũng còn bởi những lỗi diễn đạt trong câu
tiếng Việt – những lỗi diễn đạt trong một trình bày học thuật thường biểu thị
sự hiểu mù mờ của người diễn đạt.
Đoạn văn trên mở đầu bằng ý
xác định lại “văn hóa như một tổng thể”, mà theo trật tự trình bày, có thể thấy
“tổng thể” đó gồm chứa những “cấu trúc xã hội”, “trung tâm”, ‘những cách thức
tồn tại khác” - “những Cái Khác”, “diễn ngôn văn hóa” - “văn học” - “sân chơi”,
“một mối quan hệ xung đột về quyền lực”, “giá trị” - “những giá trị tổng thể”,
“những bối cảnh về văn hóa, xã hội, chính trị cụ thể”, “Quá trình giải trung
tâm”, rốt cục là “bản chất chính trị của văn hóa”.
Hơn nữa, những khái niệm
như “trung tâm ngoại biên” dẫn đến “giải trung tâm”, từ phản biện “đến nổi
loạn”, “phản kháng” từ “thiêng hóa” đến “giải thiêng” hạ bệ thần tượng là những
khái niệm không chỉ mang tính văn hóa mà còn mang tính chính trị - xã hội cao,
khi sử dụng phải hết sức cẩn trọng và có trách nhiệm, không thể buông tuồng tùy
tiện như đã được sử dụng trong luận văn này và cả loạt bài mà tác giả đã triển
khai công bố trên các trang mạng.
3 - Và những lỗi sơ
đẳng của tư duy và diễn đạt
Có thể thấy ngay rằng giữa
những yếu tố vừa liệt kê trên không có được loại quan hệ “như một tổng thể”.
Hẳn người viết cho rằng vì chúng có khả năng chứa đựng hay ngoại suy lẫn nhau,
nên chúng “như một tổng thể”. Nhưng đó là một lỗi logic sơ đẳng: nếu đặt chúng
trong quan hệ chứa đựng lẫn nhau, thì ngay ở đoạn (i), “tổng thể” văn hóa sẽ
phải loại trừ “Mỗi cấu trúc xã hội”, hoặc ngược lại, vì “mỗi cấu trúc” đó đã
phải là “một tổng thể” rồi.
Sẽ thấy rõ hơn cái lỗi đó
khi nhìn vào các lỗi diễn đạt tiếng Việt tối nghĩa:
Câu thứ hai của đoạn (i),
“Mỗi cấu trúc xã hội” làm chủ ngữ cho “sự duy trì”, “thiết lập” “trung tâm” của
nó để làm “trục vận động xã hội”; thế mà ngay sang câu đầu của đoạn (ii), thì cái
“trung tâm” ấy lại phải đóng vai một chủ ngữ giả, chịu điều kiện hóa một cách
bâng quơ là “khi nó được thừa nhận” (thì nó sẽ chèn ép “những Cái Khác”…)
Thật kỳ quặc khi cho rằng
cái “trung tâm” đã làm “trục vận động” của “cấu trúc xã hội” lại phải chờ đến
“khi được thừa nhận” mới “vận động”. Cái gì sẽ đứng ra “thừa nhận” nó? “Mỗi cấu
trúc xã hội” nào khác hay sao?!
Chúng tôi hiểu được ý lập
luận của đoạn này, và tin rằng có nhiều người hiểu điều đó. Song, văn bản, lại
là văn bản mang danh khoa học, luôn có tính pháp lý của trật tự văn bản. Theo đó
thì hai câu dẫn trên đây phải phủ định lẫn nhau. Và toàn thể đoạn luận nói trên
cũng tự giải thể theo cách đó.
Những lỗi lập luận, lỗi
logic cùng với lỗi văn bản tương tự là một đặc điểm xuyên suốt bản luận văn
này, khiến chúng tôi phải nghĩ rằng liệu người viết có ý thức rõ ràng về những
điều mình viết ra hay không, kể cả những phần dường như lấy lại từ cái viết khác
nào đấy.
Sự nhầm lẫn và nhận thức mơ
hồ trong luận văn này còn một khía cạnh cần nói nữa, là mơ hồ về ngay thực tại đời
sống hôm nay đất nước, khi nó bàn đến biện giải về “mỹ học của cái tục” (tr.82)
trong cái đối tượng “nghiên cứu” chủ yếu, là thơ của nhóm Mở Miệng.
Dùng những diễn đạt khái
quát hóa và tuyệt đối hóa một cách vội vã là một dạng khác của lỗi tri thức và
lỗi văn bản ở đây:
“Văn thơ cách mạng đã “ý
thức hệ” toàn bộ ngôn ngữ, thành một hệ ngôn ngữ công thức, hoàn toàn xa rời
đời sống. Cái tục ở đây, liên quan đến những taboo khác là chính trị và tình
dục. Liên quan đến chính trị khi nó văng tục để chửi, để căm uất, liên quan đến
tính dục khi nó gọi tên và miêu tả các bộ phận sinh dục và hành vi tính giao
bằng từ ngữ nguyên thủy của nó. Rõ ràng cần phân biệt cái tục như chất liệu của
đời sống tự nhiên [không phải là chỉ của đô thị, có khác chăng là trong bối
cảnh văn minh đô thị, cái tục được biểu hiện rõ hơn như cấm kỵ, trong khi, ở
các làng quê chẳng hạn, cái tục được phát ngôn tự do hơn] và cái cách ứng xử
với nó. Khác với các tiểu thuyết hiện thực thường được cho là có “quyền” đưa
nguyên đời sống với ảo tưởng tái hiện sự thật chân thực, còn trong thơ, văng
tục bị loại trừ, bị chèn ép.” (tr.88)
Thành thực mà nói, chúng
tôi chưa từng hình dung một cử nhân ngành ngữ văn sẽ viết ra một đoạn văn đầy
lỗi kiến thức sơ đẳng về ngôn ngữ và về đời sống như đoạn trích trên; Người
viết này đã lướt qua những sách vở nào về ngôn ngữ để thấy được một hiện tượng
“ý thức hệ” toàn bộ ngôn ngữ” hay một “hệ ngôn ngữ công thức, hoàn toàn xa rời
đời sống”? Chẳng có thứ “ngôn ngữ” nào xa khỏi “đời sống” được, khi mà chúng
chỉ hiện hữu trong “đời sống”, kể cả các tử ngữ. Có lẽ tác giả luận văn không ý
thức được quy mô nội hàm của các khái niệm lớn như “ngôn ngữ” và “đời sống”,
cũng như mối quan hệ phổ biến giữa hai khái niệm này.
Rồi lại còn “bằng từ ngữ
nguyên thủy của nó”, để “diễn giải” cho “thơ rác, thơ dơ, thơ nghĩa địa”, mà có
lẽ không hề đặt ra câu hỏi kiểu “phản tư liên tục” như chính luận văn này đề
nghị, để tự vấn xem khái niệm về “từ ngữ nguyên thủy” có nghĩa là gì đối với
tiếng Việt mà luận văn đang dùng, hơn nữa là đối với các từ tục tĩu. Liệu những
tiếng thằng - cu - cái - hĩm có phải là “từ ngữ nguyên thủy của nó” hay là
không? Cái người viết đó đang ở đâu - xem gì - đọc gì mà rút ra nhận định ở
làng quê chúng ta ngày nay nói tục “tự do hơn” ở các đô thị? Điều này đơn giản
là thật nực cười.
Và ngành ngữ văn sẽ nói gì
với hai câu cuối của đoạn trích trên, về “tiểu thuyết hiện thực” và về việc thơ
văng tục “bị chèn ép”?
Trong khuôn khổ một bài
báo, chúng tôi không thể thảo luận, dù chỉ ở mức điểm qua, đủ các khiếm khuyết
hay đặc điểm sai lạc, mơ hồ, thích đại ngôn ở luận văn này – với tư cách nó là một
luận văn khoa học ngữ văn, chứ không phải với tư cách chỉ là một văn bản phê
bình - tiểu luận về văn học. Luận văn này đã không thực hiện được nhiệm vụ
nghiên cứu nó tự đặt ra cho nó, bởi nó đã không có tính khách quan khoa học
ngay từ bước đặt vấn đề, bởi nó kém nhận thức về hiện thực xã hội đất nước, bởi
nó lệch lạc về quan niệm thẩm mỹ văn học mà cụ thể và đơn giản nhất là viết cho
ra một văn bản sáng sủa dễ hiểu – một trong những yêu cầu tiêu chuẩn đối với
luận văn khoa học.
Mọi thứ ý đồ học thuật hay
xã hội mà luận văn này tham vọng đạo đạt đều bất thành do các lỗi văn bản và
lỗi tri thức quá nhiều trong đó. Chúng tôi thật sự lấy làm tiếc cho một nỗ lực
thiếu hướng dẫn, một nhận thức chưa đạt tới tầm mức. Nếu luận văn nhắc đi nhắc
lại đề nghị phải “phản tư liên tục” trước các vấn đề và hiện tượng văn hóa - xã
hội, thì đáng tiếc vì sao nó không “phản tư liên tục” với lựa chọn của chính nó.
BAN LÝ LUẬN PHÊ BÌNH BÁO VĂN NGHỆ
Nguồn: Văn nghệ số 28/2013
____________________________
Báo Văn Nghệ số 28 ra ngày 13/7/2013 có các nội dung chính sau đây:
Báo Văn Nghệ số 28 ra ngày 13/7/2013 có các nội dung chính sau đây:
- Vấn đề hôm nay: Một
luận văn mơ hồ và sai lầm của Ban lý luận phê bình.
- Chuyên mục Nhìn
lại 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII:
Bài Văn hóa làng xã và
những chuyển động tất yếu của tác giả Thục
Khanh.
- Sáng tác:
+ Truyện ngắn: Cái nhọt
bọc đã vỡ của tác giả Hội An, Cát hai màu của tác giả Phạm Trường
Thi.
+ Truyện ký Thím tôi
của tác giả Hà Nguyên Huyến.
+ Thơ của các tác giả:
Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn Quang Hưng, Đoàn Văn Mật, Đàm Chu Văn, Nguyễn Thuý
Quỳnh, Phạm Phát, Dương Phượng Toại, Đỗ Trọng Khơi, Lê Hường.
- Bút ký, Phóng sự: Đà
Nẵng Đà Nẵng của tác giả Văn Công Hùng; Ngành đường sắt sao nỡ làm ngơ
của tác giả Kiều Vượng
- Văn học nước ngoài: Đôi
điều về trường phái văn chương hiện đại của tác giả Anh Chi.
- Lý luận phê bình: Văn
học nhìn từ lý thuyết trung tâm - ngoại vi của tác giả Nguyễn Văn Dân.
- Trò chuyện văn chương: Nhà
văn Dương Hướng “Phẩm chất quan trọng nhất là trung thực và nhân ái” của
tác giả Nguyễn Nghiêm.
- Cùng sự tham gia của các
tác giả Trần Hoàng Vi, Trần Đắc Túc, Đào Đức Tuấn, Vũ Bình Lục, Hà Lan, Xuyên
Sơn trong các chuyên mục khác.
Văn nghệ
Từ ngày có toilet paper còn ai nói đến Nhân dân, Văn nghệ....
ReplyDelete