Việc nghiên cứu khoa
học cũng sòng phẳng, sự minh bạch trong học thuật sẽ tạo ra sự minh bạch trong
khoa học và bớt đi những kẻ muốn tiến thân theo cái lối “dậu đổ bìm leo”.
Có lẽ chưa bao giờ,
hiện tượng đạo văn, đạo nhạc, đạo tranh, đạo bản dịch, đạo công trình nghiên
cứu lại phổ biến như những năm gần đây. Dư luận xã hội và báo chí sau một thời
gian dài dành sự quan tâm sâu sắc đến hiện tượng này, nhưng rồi cũng lại xem đó
là "chuyện thường ngày" nên cũng ít khi bị sốc trước các vụ việc mới
bị dư luận phanh phui.
Bởi khi dư luận báo
chí chìm xuống, kẻ đạo văn chỉ xấu mặt trong một thời gian ngắn, thì lại đâu
vào đấy. Các công trình vẫn đặt trên những giá sách thư viện, chức danh địa vị
của những người làm việc xấu đó vẫn oai phong lừng lẫy. Và theo đó kẻ sau vẫn
tiếp tục đạo của kẻ trước, thầy đạo của trò, đồng nghiệp đạo của đồng nghiệp...
Đạo văn để làm gì?
Đi tìm căn nguyên của
đạo văn người ta cho rằng những người phải "đạo" tác phẩm công trình
của người khác thường là những kẻ bất tài, trình độ yếu kém nhưng lại muốn nổi
tiếng, muốn thăng chức, thăng học hàm học vị, hoặc đơn giản chỉ vì muốn kiếm
tiền một cách nhanh chóng.
Mấy năm gần đây, không
ít các vụ đạo văn lừng lẫy đã được đưa ra ánh sáng dư luận. Riêng cuốn sách Bàn
phím và Cây búa của Nguyễn Hòa (NXB Văn học, 2007) đã chỉ ra được 6 trường
hợp đạo văn, đạo công trình nghiên cứu để làm giáo trình, chuyên khảo.
Những thợ đạo được chỉ
mặt, nêu tên văn ở đây toàn các đấng bậc danh giá trong làng chữ nghĩa. Nào là
PGS.TS. TNT (đạo của GS Trần Quốc Vượng), TS. HXL (đạo của TS Trần Hữu Sơn),
TS. TND (đạo của PGS.TS Vũ Tuấn Anh), PGS.TS NCB (đạo của GS.TSKH Tô Ngọc
Thanh), nhà văn VNT (đạo của PGS.TS Trần Ngọc Vương), TS. CTTT và Thạc sĩ TTA
(đạo của PGS.TS Trần Ngọc Thêm). Rồi GS. TS PL đạo của GS Trương Lập Văn (Trung
Quốc)...
Hồi đầu năm nay, các
báo Đất Việt, Pháp luật Việt Nam đăng tải các bài về việc bà Phan Thư
Hiền (Phó Giám đốc Sở VH-TT & Du lịch Hà Tĩnh) đạo của TS Nguyễn Xuân Diện.
Và gần đây nhất, trên Tiền Phong cuối tuần số 42 và 43 là công trình của
Trịnh Khắc Mạnh (PGS. TS, viện trưởng Viện Hán nôm) - một cuốn sách đã từng
được giải thưởng Sách hay năm 2007, nhưng phải sau 2 năm trao giải mới
phát hiện ra là có nguồn gốc bất minh.
Có thể nói các vụ đạo
văn ngày càng tinh vi. Mặc dầu người bị đạo biết mười mươi là người ta đạo của
mình, nhưng cũng khó khăn lắm mới đưa ra dư luận. Có người có chứng cứ hẳn hoi,
nhưng lại ngại va chạm nên cũng chẳng đưa ra công luận, rồi đành ngấm ngầm cam
chịu bực tức. Bởi học thuật ở Việt Nam từ xưa đến nay vốn không sòng phẳng, và
bên cạnh đó hành lang pháp lý cho những vụ việc như thế này cũng không chặt
chẽ.
Ví dụ, vừa qua, để
chứng minh ông Trịnh Khắc Mạnh đạo công trình nghiên cứu của mình, PGS. TS Ngô
Đức Thọ đã phải đưa ra những chỗ sai trong tác phẩm của mình, từ đó cho người
đọc thấy ông Mạnh đã chép rất trung thành công trình của Ngô Đức Thọ như thế
nào. Hay ở vụ bà Phan Thư Hiền đạo 20 trang khảo cứu quan trọng của TS. Nguyễn Xuân
Diện, thì có khôn ngoan hơn là sửa văn phong ở đôi chỗ. Nhưng vì là những người
chả có nghiên cứu gì cho tử tế nên đã bộc lộ ra những cái sai rất ngây ngô kiểu
"thò đuôi cáo".
Hồi kết của đạo văn là
gì?
Đối với người viết,
tác phẩm văn học, khảo cứu, biên khảo chính là một phần cuộc đời họ. Đó là công
phu nghiền ngẫm học thuật mà để có được nó, họ đã phải học hành, trau dồi, rèn
luyện qua biết bao nhiêu cấp học của biết bao nhiêu trường lớp, thụ giáo biết
bao nhiêu ông thầy. Để có được những tư liệu và vốn liếng hiểu biết, họ đã
không tiếc tiền của đi thực tế, tiếp cận các nhân vật và sự kiện, mua sách báo
và tư liệu. Những công trình khoa học là kết tinh của tâm huyết, nỗ lực của cả
đời học thuật. Vì vậy, những đứa con tinh thần là những tác phẩm của họ chính
là một phần cuộc đời của họ. Vậy mà, nhiều người đã đang tâm ăn cắp, xào xáo,
chế biến bằng những thao tác từ đơn giản đến tinh vi để hòng có được tiền bạc,
danh vọng từ mồ hôi công sức của người khác.
Tiếc rằng cái công
sức, mồ hôi nước mắt của những kẻ thực học, sau khi bị đạo, lại chỉ được kết
thúc bằng một câu xin lỗi, hay thu xếp dàn hòa hai bên.
Bà Đoàn Thị Lam Luyến,
Giám đốc Trung tâm Quyền tác giả Văn học Việt Nam, cho rằng nếu câu chuyện
"đạo văn" chỉ cần giải quyết bằng một lời xin lỗi thì tính răn đe còn
quá nhẹ. Và bà nhận định rằng một phần lý do thực trạng đạo văn diễn ra
hàng ngày trên khắp các lĩnh vực "là do chúng ta chưa có chế tài xử lý
nghiêm hơn".
Rốt cuộc sách đạo văn
vẫn để trên giá, lưu trong các thư viện, bán ngoài quầy, dạy trong các trường
đại học và các cơ sở đào tạo sau đại học trên khắp cả nước... mà các cơ quan có
trách nhiệm không hề có động thái gì. Người bị hại không được bảo vệ, còn kẻ
hại người thì vẫn ung dung như chẳng có chuyện gì. Có thể nói đây là một mối nguy
hại lớn cho nền học thuật nước nhà bởi khi dư luận báo chí qua đi, những thế hệ
sau lại hồn nhiên trích dẫn những cuốn sách đạo văn đó, mà không biết đó chỉ là
công trình, tác phẩm giả, được tạo những kẻ lười biếng tạo nên. Điều này dẫn
đến một nguy hại khác không kém phần quan trọng là sự tụt hậu của nền học
thuật, ảnh hưởng đến học phong và nền văn hóa nước nhà. Thậm chí chúng còn làm
hỏng cả một thế hệ, làm mất uy tín của khoa học nước nhà trước bạn bè quốc tế
khi những vụ việc như vậy được phanh phui phát hiện.
Cho đến nay, trường
hợp đầu tiên và duy nhất chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước
(HĐCDGSNN) đã chính thức ký quyết định tước bỏ chức danh phó giáo sư đối với ông Trịnh Xuân Dũng,
Hiệu trưởng Trường Cao đẳng du lịch Hà Nội, vì đã không trung thực (lấy công
trình của người làm của mình), vi phạm tiêu chuẩn đạo đức của nhà giáo".
Và đây là lần đầu tiên ở nước ta có một PGS nhà giáo bị tước học hàm.
Phát biểu với báo chí
ngay sau khi tước bỏ chức danh PGS của ông Trịnh Xuân Dũng, Giáo sư Phạm Minh
Hạc, Chủ tịch Hội đồng chức danh giáo sư Nhà nước đã khẳng định: "Đây là
lần đầu tiên HĐCDGSNN tước bỏ danh hiệu phó giáo sư đối với một nhà giáo. Việc
làm này là cần thiết bởi không thể để một con sâu tồn tại trong hàng ngũ các
giáo sư chân chính. Việc làm này của HĐCDGSNN đã rất được các nhà khoa học
trong cả nước vô cùng hoan nghênh".
Có vẻ như những công
trình đạo văn đã góp phần đưa các TS thành PGS, các PGS thành viện trưởng,
thành những nhà quản lý. Bằng chứng là sau khi bị phát hiện đạo văn, những quan
chức, đang làm công tác giảng dạy, quản lý văn hóa, khoa học ở các trường đại
học, viện nghiên cứu, sở VH-TT&DL đều đang tại vị, thậm chí một số vị vẫn
thăng tiến trên quan lộ.
Và, những cuốn sách bị
phát hiện đạo văn, hiện cũng chưa có cuốn nào có lệnh thu hồi. Cũng chưa có
giải thưởng nào đã trao cho nó, bị thu hồi. Chúng vẫn được gửi đến các thư viện
từ trung ương đến địa phương, thư viện các đại học và viện nghiên cứu và vẫn
được các thư viện nước ngoài đặt mua. Những cuốn sách đó vẫn được dùng làm giáo
trình giảng dạy ở đại học, và cả sau đại học; vẫn được các thế hệ học viên học
cao học, học nghiên cứu sinh trích dẫn, sử dụng trong học tập, nghiên cứu.
Những tác phẩm đạo
văn, đương nhiên là không có phát hiện gì mới về mặt học thuật (tư liệu không
mới, kiến giải không mới, kết quả không mới, đề xuất không mới), mà chỉ là xào
xáo lại các cái cũ (những kiến thức đã công bố, đã được nhà nước trả tiền, đã
được nhuận bút, đã đem lại vinh dự cho người phát hiện lần đầu) vậy mà vẫn được
in ra, vấn được trả nhuận bút, vẫn đem lại bổng lộc và chức vị cho người xào
xáo. Điều này hết sức bất công, không những làm lãng phí tiền của của nhà nước
và nhân dân, mà hành vi dối trá này còn vi phạm đạo đức xã hội, đạo đức khoa
học và kìm hãm và trì trệ sự phát triển của học thuật.
Nếu chúng ta không tìm
được ra ngay biện pháp xử lý với vấn nạn này, thì không thể có một nền học
thuật lành mạnh, minh bạch và phát triển; và càng ngày càng làm cho học thuật
suy thoái. Một số người còn đề nghị phải xem xét tội đạo văn như một thứ tội
phạm kinh tế nữa, vì cho rằng việc đạo văn không chỉ làm phương hại đến sự tôn
nghiêm của học thuật và nghệ thuật, ảnh hưởng đến trình độ dân trí mà nghiêm
trọng hơn là ảnh hưởng đến kinh tế đất nước vì đã dùng tiền đóng thuế của dân
để trả cho những những sản phẩm không có tính sáng tạo của những kẻ lười biếng.
Trong khi đó vấn đề
này đối với nước ngoài, được họ làm một cách hết sức triệt để. Sách bị phát
hiện đạo văn bị thu hồi, hủy, giải thưởng đã được trao cũng bị tước, thậm chí
những công trình đó nếu liên quan đến việc người đạo văn dùng nó để xin các
chức danh học hàm học vị, thì cũng sẽ bị tước. Điều này tạo lập nên ý thức của
các thế hệ nghiên cứu. Họ càng trung thực bao nhiêu trong các công trình của
mình thì càng được đánh giá cao bấy nhiêu. Do vậy, việc nghiên cứu khoa học
cũng sòng phẳng, những phát kiến mới được đánh giá cao, mặc dầu những phát kiến
này không đi xa thế hệ trước là bao, nhưng sự minh bạch trong học thuật này sẽ
tạo ra sự minh bạch trong khoa học và bớt đi những kẻ muốn tiến thân theo cái
lối "dậu đổ bìm leo".
PHƯƠNG KHÁNH
VNN
____________________
|
________________
No comments:
Post a Comment