“Olga Berggoltz của tôi”, cuốn sách của nhà thơ, dịch giả Thụy Anh về cuộc đời
nữ thi sĩ Nga nhận được số phiếu tuyệt đối để nhận giải thưởng Văn học dịch của
Hội Nhà văn Hà Nội. Thụy Anh mang đến cho bạn đọc VN một cảm nhận khác,gần gũi,
nữ tính và đời thường hơn,về Berggoltz.
Nhà thơ, dịch giả Thụy Anh |
- Vừa được trao giải văn
học dịch, vừa là tân hội viên của Hội Nhà văn Hà Nội, chị có thể chia sẻ một
chút cảm xúc?
- Tôi cảm thấy vui mừng,
tự hào và cảm động vì lao động của mình được những người có chuyên môn thấu hiểu
và thừa nhận bên cạnh sự cổ vũ và đón nhận của bạn đọc. Sự hồ hởi và chút tự
tin có được nhờ sự kiện này khiến tôi mong muốn dấn thân vào con đường dịch
thuật nghiêm túc và chuyên nghiệp hơn.
- Chị quan tâm đến Olga
Berggoltz từ khi nào?
- Tôi quan tâm đến Olga
Berggoltz từ khi lần đầu có trong tay bài thơ “Mùa lá rụng” qua bản dịch của
nhà thơ Bằng Việt. Năm đó tôi vẫn là sinh viên, còn rất trẻ. Mối quan tâm ban
đầu chỉ là sự thích thú, cảm giác lãng mạn bâng khuâng khi đọc bài thơ. Sau đó
nó biến thành sự tò mò, muốn tìm hiểu sâu hơn về tác giả và muốn được tiếp cận
với nguyên tác. Rồi tò mò biến thành say mê, theo năm tháng. Năm tháng cho tôi
thêm tuổi tác, và tuổi tác, trải nghiệm lại cho tôi thêm cơ duyên để gần gũi
hơn với những gì mà Olga Berggoltz đã trải qua, đằng sau câu chữ.
- Và khi nào thì chị nhen nhóm ý định sẽ làm một cuốn sách hệ thống về sự nghiệp thơ ca của bà?
- Tôi bắt đầu nghĩ đến
điều ấy vào khoảng năm 2008 sau khi nhận được phản hồi từ rất nhiều bạn đọc qua
trang web thivien - nơi tôi gửi những bản dịch của mình lên lưu trữ. Tôi thấy
Olga được nhiều người yêu mến, nhiều người biết tiếng Nga dịch bà, nhưng cũng
thấy không phải tất cả những người yêu thích Olga đều hiểu hết những sâu xa nằm
đằng sau những bài thơ, hoặc giữa những dòng thơ. Những điều mà, nếu biết, thì
bạn đọc sẽ đọc thơ với sự rung động khác hơn rất nhiều. Ngoài ra, tôi cảm thấy,
hình ảnh một Olga nhạy cảm, tinh tế, yêu thương nồng nàn vẫn choán trọn vẹn
trái tim độc giả Việt Nam mà hình ảnh một Olga rắn rỏi, kiêu hãnh, sẵn sàng hy
sinh vì Tổ quốc, sẵn sàng thực hiện nghĩa vụ công dân, thực hiện nghĩa vụ của
một con người của thời đại … thì vẫn còn mờ nhạt trong suy nghĩ của họ. Đây là
điều thôi thúc tôi muốn chia sẻ những gì tôi được biết về bà qua những trang
nhật ký, ghi chép, hồi ký của bạn thơ… mà tôi tìm đọc trong vòng gần chục năm,
muốn đem đến cho bạn đọc một Olga khác hơn, và có thể sẽ đẹp hơn vì những khác
lạ ấy.
- Vậy chị đã xây dựng
chân dung Olga thế nào?
- Muốn xây dựng được
chân dung bà phần nào trọn vẹn, tôi hiểu rằng phải bắt đầu từ một câu chuyện
kể, và những sáng tác được hệ thống lại, minh họa cho câu chuyện ấy. Nhưng từ
khi có ý định đến khi thực hiện, hóa ra lại mất đến vài năm! Ở đây, tôi không
thể không nhắc đến những người thầy của tôi - dịch giả Vũ Thế Khôi, dịch giả
Thúy Toàn, và nhóm bạn thân thiết - họ cổ vũ tôi, hỗ trợ tôi, mỗi người một
cách, kể cả bằng cách góp công sức lao động, những nhận xét phản biện bản thảo,
và cả… tiền bạc nữa. Và trên hết, một tình yêu nồng nhiệt dành cho nữ sĩ người
Nga đã khiến họ góp sức mà không cần đáp trả. Biết ơn họ, tôi chỉ có thể cố
gắng hoàn thiện những bản dịch trong khả năng cao nhất của mình.
- Khi tiếp cận với
những tư liệu về Olga Berggoltz, điều gì khiến chị cảm phục nhất từ cuộc đời
“cây ngải đắng của nền thi ca Xô Viết”?
- Đúng như từ “cây ngải
đắng”, điều tôi cảm phục nhất là, Olga, như một cây ngải đắng, thân thì đắng mà
vẫn tỏa hương. Điều này rất gần gũi với một ý thơ của nhà thơ Phạm Tiến Duật về
“cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng…”. Bà từng viết: “Tôi mải mê hít căng
mùi hương sâu lắng / ngải đắng đây, đắng ngắt tình đời / Nỗi đau của loài người
giản đơn vô hạn / đã trở thành niềm cay cực riêng tôi”. Đoạn thơ này tôi
lấy làm đề tựa trên bìa sách. Đó là điều mà tôi khâm phục bà - mang nỗi đau
riêng và cảm nhận riêng về thời cuộc, để viết về cuộc đời xung quanh, về tình
yêu, về Tổ quốc, để nâng đỡ con người, để trao gửi niềm hy vọng sống - hơn thế,
nỗi đau của đám đông đã trở thành “niềm cay cực” cá nhân của riêng Olga. Người
như vậy, sống không chỉ vì mình mà, vô hình trung, mang trong mình sứ mệnh sống
và viết vì nỗi đau và niềm hân hoan chung của dân tộc.
- Trong việc dịch văn
học, nhất là dịch thơ, để hướng tới một bản dịch hoàn hảo là vô cùng khó, đâu
là lý do để chị bằng lòng với cuốn sách của mình?
- Tôi không thể và không
dám nói, 70 bài thơ trong cuốn sách này là những bản dịch hoàn hảo. Những sai
sót và chưa thỏa đáng là không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, có một số bản dịch
tôi tương đối thấy hài lòng và tâm đắc bởi khi dịch, tôi đã thực sự hòa nhập
được với không khí bài thơ, tần số cảm xúc của tác giả mà tôi “bắt” được, sự
rung động đặc biệt khiến sau đó, đọc lại, tự mình cảm thấy… xúc động. Tôi đặc
biệt chú trọng mảng thơ công dân của Olga Berggoltz và những bài thơ bà viết
cho những đứa con. Đây có lẽ là những khía cạnh mới trong thi ca của Olga mà
chưa nhiều bạn đọc được tiếp cận.
- Có điều gì chị muốn
mà chưa làm được khi thực hiện cuốn sách?
- Phần tiểu luận viết về
Olga, tôi chưa được hài lòng vì tôi đã viết rất dàn trải, miên man, chạy theo
cảm xúc. Lẽ ra, tôi có thể tìm một cách viết nào đó cô đọng hơn. Mặc dù, tôi có
cảm giác là nhiều người đọc lại thích sự dàn trải lan man ấy, để được đắm chìm
cùng cuộc sống của nàng Olga mà họ yêu thương, nhưng nhìn ở góc độ chuyên môn,
tôi nghĩ, phần biên khảo cần dụng công hơn nữa. Ở đây, tôi mới đạt được một câu
chuyện, cho dù là một câu chuyện có cảm xúc. Tôi muốn đưa vào đây thêm khoảng
20 bài thơ nữa nhưng có những bản dịch tôi chưa ưng ý, vì thế tôi đành dừng lại
ở con số 70.
- Nếu chỉ nói một câu
về Olga Berggoltz chị sẽ nói gì?
- Tôi sẽ xin được đọc
một câu thơ của bà để nói về bà: “Em chẳng bao giờ nương nhẹ trái tim em/
trong khúc hát, trong buồn đau, trong đắm say hay tình bạn” - một nữ
sĩ tài hoa, kiêu hãnh, và trong bất kỳ trường hợp nào cũng sống chân thành,
quyết liệt, trung thực đến cùng với cảm xúc của mình.
- Gần 20 năm sống
trên đất nước Nga, điều gì khiến chị không thể không nhớ mỗi khi nhắc đến đất
nước này?
- Gần 20 năm là cả tuổi
trẻ của tôi trôi qua trên đất nước này rồi, có gì mà không khiến tôi nhớ nhung
quay quắt chứ! Tất cả! Thiên nhiên, con người, những thói quen, những món ăn,
những nỗi vất vả đã trải qua trên đất bạn, thậm chí cả những gì khó gọi thành
tên, như hơi đất có mùi cỏ lá xông lên mỗi độ hè về, cái cảm giác vừa cô đơn
vừa thích thú khi một mình đi lang thang trong công viên mùa tuyết, rồi cái nôn
nao nhộn nhạo trong ngực khi nhìn thấy những bông hoa đầu tiên xuyên tuyết lộ
ra sau một mùa đông dài, cả cái mùi đặc trưng của nhà ăn sinh viên và cái mùi
gỗ thông âm ẩm cũ kỹ của căn phòng ký túc xá mà tôi đã ở nhiều năm… Khi nhắc
đến nước Nga, tất cả luôn ập về, đơn giản là nhớ mà không thể nói, cái gì khiến
tôi nhớ nhiều hơn. Chắc đó cũng là cảm xúc chung của những người sống lâu năm ở
một miền đất, dù là miền đất không phải quê hương mình.
- Nếu quay trở lại
Nga bây giờ, việc đầu tiên chị sẽ làm là…?
- Tôi không biết nữa,
tôi không thể tưởng tượng ra cảnh ấy. Hẳn tôi sẽ không biết làm việc gì đầu
tiên khi trở về miền ký ức của mình. Có thể tôi sẽ tìm đến ngay những người bạn
thân yêu của tôi đang sống ở đó, để được ngồi cùng họ bên chén trà bốc khói
trong gian bếp ấm cúng, thấy lòng yên ổn, như chúng tôi chưa từng xa cách. Và
tôi sẽ đến thăm những bạn nhỏ người Việt sinh ra ở Nga, con cái của những người
bạn tôi, xem họ học tiếng Việt thế nào, có cần hỗ trợ gì không, vì tôi có tham
gia hoạt động cả mảng giáo dục nữa. Tôi sẽ về nhà cũ, trường cũ, cố gắng tìm
đến những nơi tôi vẫn nhìn thấy trong mơ, nhưng, cũng không biết nữa, vì sợ
rằng tôi sẽ không chịu được cảm xúc nhớ tiếc - cảnh đó mà người đã khác, mình
cũng không còn như xưa…
- Bạn bè đồng nghiệp
đã giục nhiều lần nhưng vẫn chưa thấy chị làm đơn vào Hội Nhà văn Việt Nam, chị
thấy mình chưa xứng đáng hay còn ngần ngại điều gì?
- Tôi luôn ngại ngần khi
nghĩ đến chuyện viết đơn vào Hội, kể cả Hội nhà văn Việt Nam hay Hội nhà văn Hà
Nội bởi như từng nói trên kia, tôi muốn đạt được một sự chuyên nghiệp trong
công việc của mình, thì khi ấy, việc vào Hội mới có ý nghĩa vì đây là Hội nghề
nghiệp cơ mà. Hơn nữa, tôi cũng biết, có đến cả nghìn lá đơn đang chờ đợi được
phê duyệt, con số ấy khiến tôi ngại, ngại… xếp hàng! Song, dù chưa xin vào Hội
thì tôi vẫn làm việc, vẫn tham gia hết lòng những hoạt động do Hội, đặc biệt là
Ban Nhà văn trẻ phát động, tổ chức. Nhưng tôi cũng đã vượt qua được ngần ngại
để làm đơn vào Hội nhà văn Hà Nội, và thấy vui vui vì được chấp nhận. Dù gì thì
tôi cũng là người viết ở Hà Nội, gắn bó với Thủ đô mà.
- Ngoài dịch chị còn
làm thơ và viết văn xuôi, sau Giải thưởng này chị có nghĩ sẽ đầu tư thời gian
nhiều hơn cho mảng dịch thuật?
- Chính việc được giải
thưởng lại khiến tôi… hoang mang vì để trở thành một dịch giả chuyên nghiệp,
tôi còn thiếu, hổng khá nhiều. Nếu tôi lựa chọn dịch thuật như một hoạt động
nghề nghiệp, tôi phải học và phải hết mình hơn nữa với nó, và phải cân nhắc khi
đối diện với nhiều niềm say mê khác trông cuộc đời. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng
đây là một thứ áp lực tích cực khiến tôi đầu tư hơn thời gian và tâm huyết cho
mảng dịch thuật, điều mà tôi đã và đang bị phân tán rất nhiều trong thời gian
qua và thực sự, đôi lúc, tôi cảm thấy bối rối. Với thơ tôi vẫn rất hào hứng
cũng như cảm thấy có nhiều duyên nợ. Với truyện ngắn, từng cũng có nhiều mơ
ước, nhưng hiện giờ, tôi bắt đầu thử viết cho trẻ em. Chẳng có gì nói hay được,
tôi sẽ lắng nghe mình để cố gắng chọn được một con đường của riêng mình.
Nguyễn Xuân Thủy thực hiện
Nguồn: Evăn
No comments:
Post a Comment