Người làm thơ, khi làm thơ, thường sống trong thế giới của mình ; khi đạt
đến nghệ thuật ngôn từ, thì tạo ra một thế giới riêng, với địa đồ, phong cảnh
riêng, có khi là một lãnh thổ có hiến pháp riêng. Đầu tập thơ Tôi không còn
cô độc, 1956, Thanh Tâm Tuyền đã ngang nhiên công bố quy luật đó – vẫn có
từ ngàn xưa. Yêu một câu thơ đơn giản, chân quê của Nguyễn Bính, dù muốn dù
không cũng phải nhập cư vào thế giới của ông ấy. Từ Thế Mộng [1], 1937-2007, thì không vậy. Anh làm thơ bằng thế giới thường ngày và đời sống,
ngôn ngữ ngày thường.
Thơ Từ Thế Mộng kể chuyện gia đình, cha mẹ, vợ con, bè
bạn, con đường Hải Thượng Lãn Ông, nơi anh ở, bãi biển Thượng Chánh, nơi anh
thường tắm, tại Phan Thiết. Anh thuộc nhiều thơ cổ kim, nhưng khi sáng tác
không tìm hình thức cách tân.
Muốn làm mới
bài thơ, anh lên dòng xuống dòng, rồi vẫn rơi vào lục bát. Dường như anh cũng
không tha thiết với việc lập danh, in ấn, xuất bản tác phẩm, dù làm nhiều bài
thơ từ khoảng 1960. Mãi gần đây, 2002, bạn bè ở nước ngoài mới in và phát hành
thi phẩm Lẽo đẽo một phương quỳ [2].
Không gian thơ
của Từ Thế Mộng là quê nhà lẩn thẩn (tr.64) chung quanh thành phố Phan
Thiết, nơi anh theo cha mẹ từ Thừa Thiên vào sinh sống, và qua đời ngày
13-5-2007.
Phan Thiết
không phải là địa danh nổi tiếng trong văn học. Nhiều người chỉ biết, và tưởng
tượng, qua Lầu Ông Hoàng trong thơ Hàn Mạc Tử. Từ Thế Mộng từ tốn cho biết biểu
tượng của Phan Thiết là cái Satô-đô tên thường gọi để chỉ tháp nước ;
nhưng anh vẫn có thơ hay :
Cây cao lúp xúp
cây mù xanh
Lớp lớp che im
khuất mặt thành
Phan Thiết nhìn
lên, mây cúi xuống
Château d’eau
hồng ngọn đổ chênh vênh
Tôi rời nắng
mới tôi đi xuống
Nghĩa địa bay bay mùi cỏ non
1971, tr. 93
Lời thơ điệu nghệ, nhưng chân thành,
khởi sắc nhờ những địa danh nôm na :
Bát ngát trời xa một núi xa
Sương len từng lớp mỏng như ngà
Tà Dôn một vút xanh sừng sững
Mường Mán cong mình êm ái ru
(…) Mờ xa một dải hồng phe phất
Mũi Né hồng xa mờ chân mây
Bài đã dẫn
Nguyễn Bắc Sơn, bạn thơ và cùng quê
Phan Thiết, có câu :
Đôi khi ta lên núi Tà Dôn uống rượu
Trời đất bao la, ta chỉ một mình
(Ới ông Nguyễn Bắc Sơn ơi, lần này
lên Tà Dôn ông uống dùm Từ Thế Mộng một chén quan san. Mùa xuân muốn tìm ông,
tôi điện thoại nhờ Từ Thế Mộng đạp xe lùng ông khắp Phan Thiết ; hôm nay
đúng ngày đầu thu, muốn tìm ông, phone nhờ ai đây ?
Ngon lành, ông uống thêm chén nữa, gọi là chén
quan hà, để tưởng niệm Y Uyên, Ngã
Đạn tại Tà Dôn ngày 8-1-1969, tại cái đồn Nora gì gì đó nay ai còn nhớ... Tà Dôn ôi Tà Dôn, không ai nhớ mình, thì mình
cam phận nhớ nhau. Biết làm sao đây ? Ngoài đề)
Từ Thế Mộng yêu
biển và Phan Thiết nhiều biển. Nhưng biển đây không phải là phong cảnh bốn
bề bát ngát xa trông, trước lầu Ngưng Bích, mà là bãi tắm Thương Chánh ở
tỉnh nhà :
Bồi hồi Thương Chánh bay mưa
Vì nắng mưa gì anh cũng tắm
Biển ôm ta siết trong lòng
Quẫy mình ta lội một vòng sướng ghê
Chịu khó lắm thì xuống đến biển Ninh
Chữ, buổi trưa, rượu ngà ngà :
Biển xanh
Xanh ngắt lưng trời
Ta tan vào giữa trưa đời
Lặng xanh
1995, tr.12
Và biển tạo ra
nhiều hình ảnh đẹp, câu thơ hay, không phải vì cảnh sóng rủ nhau đi bát ngát
cười trong thơ Huy Cận, mà vì
bóng dáng ai đó đi tắm biển về :
Không phải suối
Không phải sông
Mà ướt đầm mái tóc
Không phải rực vàng
Một màu hoa cúc
Mà đơn sơ áo ướt một đôi vùng
Em tắm biển về biển ướt ở sau lưng
Vàng mấy khoảng cho mặt trời tới đậu
Em đạp xe về
Dáng hiền thục
quá
Đơn giản vậy mà
sao lòng anh lạ
Nghiêng theo em
như thể đóa hoa quỳ
Ôi màu vàng đâu
thể dễ phải đi
Màu vàng không
phai
Mặt trời vẫn
ướt
Nên phương em
lẽo đẽo một phương quỳ
tr.30
Tôi trích toàn
văn bài Một phương quỳ, câu cuối dùng làm tựa đề cho cả tập thơ, có thể
tiêu biểu cho phong cách và tâm hồn Từ Thế Mộng, an phận, vui với cái đơn sơ,
hiền thục, đơn giản, nhưng vô cùng tinh tế. Phải tinh tế lắm mới nhận ra được
ánh mặt trời đậu vào nước biển còn đọng trên lưng áo; rồi phải nhìn theo, nhìn
thật lâu phía sau, mới nhận ra màu vàng không phai/mặt trời vẫn ướt.
Cái nhìn ảo hóa không gian và thời gian. Giây phút không có gì lạ ấy là hạnh
phúc của loài người trong một trần gian không vĩnh viễn.
Nắng là hiện
tượng thiên nhiên. Mặt trời vẫn ướt là lời tình tự của mặt trời gửi về
một đóa hoa quỳ - lạc đường vì một mái tóc.
Thơ Từ Thế Mộng
tằn tiện chút hạnh phúc đời thường, ngày thường đang phôi pha.
*
Với tâm thái an
phận, thì đi đâu cũng vậy thôi. Từ Thế Mộng lẩn quẩn ở quê nhà, đi xa lắm thì
cũng chỉ lên tới ... Đà Lạt
Đà lạt có ta về
Cõng em đi chợ
Tết
tr.71
Thời trẻ, anh cũng phải đi lính, xê
dịch đó đây. Nhưng những con đường đi qua không để dấu vết gì sâu đậm trong thơ
anh; có nhắc đến Cheo Reo, Tuy Hòa, Quy Nhơn, cũng vì nhớ bạn quá cố :
Đạn trổ đường tim đạn đỏ hồng
Tuy Hòa vang dội tiếng xung phong
Còn anh một giấc chiều êm ái
Đã ngủ yên – yên trọn giấc nồng
1966, tr. 55
Thơ Từ Thế Mộng không mang nhiều vết
tro than của lịch sử; thơ kể chuyện đời bình thường của con người bình thường,
không có thành tích gì vẻ vang, cũng không chịu bi kịch gì thảm khốc. Không có
tư tưởng cao xa, tình cảm đặc sắc. Chuyện anh cưới vợ
Hôm nay
Tôi cưới nàng
Trời mưa rất nhiều hôm qua
Mà vụt nắng
tr. 24
Năm 1965 anh
làm bài Chúc thư của người con trai gởi con 18 tháng :
Ngày ba còn ở
Blao
Ba trao cho má
con một phần sức sống
(...) ba lớn
lên từ chiến tranh
thôi cũng để ba
trả về cho chiến tranh
như cây khô trả
về cho đất
Huế, 1965, tr.
59
Năm đó, anh bị
động viên, mới ra trường sĩ quan trừ bị, nghĩ đến vợ con vì e không có ngày về
Máu thịt của ta
ruột rà của vợ
Cũng trả cho
đời, ta chiều thu buồn thiu
Lấy vợ ba năm,
con vừa một tuổi
Cũng trả cho
đời ta biết mang gì theo
Huế, 1965,
tr.47
Anh kể năm đến
1976 mới được con trai đầu lòng, bài thơ mừng vui đượm nhiều chua xót. Anh có
đứa con bị hội chứng down, lên 9 vẫn chưa nói được. Anh gửi tất cả những buồn
vui vào thơ. Có khi là buồn vui nhỏ nhặt :
Sáng nay nổi
lửa kêu con
- Mẹ mày để gói
trà ngon đâu rồi
tr. 38
Anh tiếp thu vũ
trụ, cũng từ thềm nhà :
Trăng đẹp quá
Đẹp đến nỗi
những chiếc lá đều sáng trắng như bạc
Anh treo mùng
ngủ trước hàng hiên
Mùng thao thức
Nghe anh trằn
trọc sáng
tr.92
Chữ độc đáo trong khúc thơ là treo
mùng. Thơ ngắm trăng – nhất là trung thu
– xưa nay không hiếm. Nhưng không thấy ai cẩn thận giăng màn.
Lý Bạch có bài Tĩnh dạ tư nổi tiếng
:
Trăng
rạng sáng đầu giường
Ngỡ
mặt đất lên sương
Ngẩng
đầu nhìn trăng sáng
Cúi
đầu nhớ cố hương
Lý Bạch nói đến giường chõng, mà đâu
có treo mùng.
Chi tiết này, tự nó không to tát gì,
nhưng biểu lộ thi pháp Từ Thế Mộng. Trong đời sống ai cũng phải phân biệt công
việc lớn lao với cử chỉ nhỏ nhặt, nhưng trong thơ, sự việc mang một kích thước
khác : cơn gió heo may ngang tiềm lực với trận bão tố. Nhà thơ có khả năng gieo
Thái Sơn nhẹ tựa hồng mao... Trong thơ anh, việc lớn việc nhỏ, chuyện chung
chuyện riêng ngang tầm. Thậm chí anh chủ tâm nhiều hơn vào những việc riêng tư
và nhỏ bé. Vì vậy, thơ anh vừa dễ, vừa khó đọc. Khó đọc với những độc giả tìm ở
thi ca những điều thâm viễn tân kỳ, trong khi thơ anh dừng lại ở những nét bình
dị, trong sáng.
Đọan đầu, tôi có nói: yêu một câu
thơ dù đơn giản của Nguyễn Bính, cũng phải nhập cư vào lãnh thổ của nhà thơ, ví
dụ câu này :
Viết
cho chị lá thư này,
Giữa
đêm hăm bốn rạng ngày hăm nhăm
Rõ là ngớ ngẩn. Thư viết cho chị,
thì cần gì phải nói “cho chị”. Sau đêm hăm bốn, thì cần gì phải nói hăm nhăm ?
Và bề nào, trên thư cũng đã... đề ngày.
Diễn ngôn không mang lại một thông
tin nào đáng kể, vì vậy nó là một câu thơ, khác với câu nói thường và câu văn
xuôi.
Và là thơ hay. Mà có lẽ chỉ có
Nguyễn Bính mới làm được một câu như thế.
Hoặc câu ca dao này, có lẽ nguyên
gốc là câu hát ru em :
Hai tay cầm bốn tao nôi
Tao mô thẳng thì thôi
Tao mô dùi thì sửa lại cho cân...
(Tao nôi : dây nôi. Dùi : chùng,
trái với thẳng)
Đây lại là thơ ngớ ngẩn, tương đương
với việc treo mùng của Từ Thế Mộng. Nhưng là thơ hay và hiện đại.
Từ Thế Mộng và bạn bè anh là những
con người sinh ra, lớn lên, có người đã ra đi, trong nghịch cảnh. Nghịch cảnh
đã hà khắc với đời họ. Với tác phẩm của
họ, còn hà khắc hơn nữa. Con người đời thường có thể thỏa hiệp, ngậm thẻ qua
sông, sống qua ngày. Con người nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật, con người đã
trưởng thành, tác phẩm đã định hình thì không có cách gì thỏa hiệp. Con người
có thể đầu hàng, và nhiều người đã đầu hàng. Tác phẩm thì vô phương.
Do đó, khi các bạn Trần hoài Thư,
Phạm văn Nhàn đứng ra làm Thư Ấn Quán in lại những tác phẩm Miền Nam Xưa đã
xiêu lạc, và ra những số báo Thư Quán
Bản Thảo, kỳ này tưởng niệm nhà thơ Từ
Thế Mộng vừa quá cố, là tôi hoan nghênh, không chỉ cổ võ suông, mà tận tình góp
sức. Vì nếu các bạn, nay cùng vào tuổi chiều xế bóng, không chịu khó, bỏ công
và bỏ của, bỏ chút tàn hơi, thì chẳng còn ai biết, chẳng còn ai nhớ Từ Thế
Mộng, tác giả Lẽo đẽo một phương quỳ.
Một tác phẩm chơn chất, dễ đọc nhưng
không phải là dễ thưởng thức. Thơ Từ Thế Mộng không ồn ả hay sắc sảo, nhưng đằm
thắm và tinh tế - mà tinh tế là một « đức tính tiêu cực » - vertu
négative, chữ của Camus - mà thời cuộc đã và đang dần dần bôi xóa.
Cuộc đời không dễ dàng gì nhận diện
được một Từ Thế Mộng : đời đòi hỏi cao thâm, anh trả lời tế nhị ; đời
muốn huy hoàng mà thơ anh thanh đạm ; đời vốn ồn vang, thơ anh nhỏ nhẻ.
Nhỏ nhẻ cho đến ngày im tiếng.
Trần gian anh bỏ lại, vẫn chung thủy
một phương quỳ.
Orléans, đầu thu. 21-9-2007.
[1]
Từ Thế Mộng tên thật là Nguyễn đình Tư, sinh 1937 tại làng Phước Yên, Quảng
Điền, tỉnh Thừa Thiên. Năm lên 10 tuổi, theo gia đình vào sống ở Phan Thiết,
cho đến ngày qua đời, ngày 13-5-2007.
[2]
Nxb Thư Ấn Quán, New Jersey, USA, 2002, tái bản 2007, qua
tranhoaithu@verizon.net
ĐẶNG TIẾN
No comments:
Post a Comment