Sự việc khởi đầu khi Thổ ty phủ Khai Hóa (Vân Nam, TQ) nhà Thanh chiếm 120 dặm đất thuộc hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ, vua Lê Dụ Tông gửi thư kháng nghị dẫn tới việc hai bên cử người cùng hội khám vùng đất tranh chấp và đàm phán, cuối cùng vua Ung Chính chịu hoàn lại 80 dặm đất. Sử Việt chép:
Trước đây, đất biên giới tại hai châu Vị Xuyên và Thủy Vĩ bị
Thổ ty Khai Hóa nhà Thanh xâm chiếm gồm 120 dặm. Năm Ung Chính thứ 3 [1725] Cao
Kỳ Trác, Tổng đốc Vân Nam nhà Thanh, lại tâu với vua Thanh là cương giới An Nam
có chỗ xâm lấn vào biên cảnh nội địa, xin thi hành việc tra xét rõ ràng. Việc
này triều đình nhà Lê đã đưa thư sang biện bạch; Khổng Dục Tuân, Tổng đốc Quảng
Tây tâu bày đề đạt giúp, được vua nhà Thanh y cho. Triều đình bèn hạ lệnh cho
Hồ Phi Tích và Vũ Công Tể hội đồng với viên quan phái ủy của nhà Thanh là Phan
Doãn Mẫn đi đến nơi khám xét, hai bên vẫn giằng co nhau không giải quyết được.
Ðến nay có tờ dụ của vua Thanh đưa sang, triều đình bèn sai Ðình Ân đi hội đồng
lập giới mốc ở dưới núi Xưởng Chì.
Ðất nước ta được nhà Thanh trả 80 dặm, còn 40 dặm là chỗ xưởng đồng vẫn còn
chìm đắm vào phủ Khai Hóa.
(Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, , t. 2, nxb
Giáo dục, H. 1998, tr. 456-457)
Phía bên kia, Thanh Thực Lục ghi chép khá chi tiết
các diễn biến liên quan đến việc này kéo dài trong các năm 1725-1728.
Theo những ghi chép này thì năm Ung Chính thứ 3 [1725], Tổng
đốc Vân Quí (Vân Nam-Quý Châu,TQ) kêu Trung Quốc mất đất (mà có lẽ nguyên cớ
chính là nguồn lợi khai mỏ đồng, chì đang phát triển ở vùng này), tự ý dựng
bia lập biên giới mới tại sông Ðỗ Chú (giả) gần thôn Tà Lộ, cách đường biên cũ
120 dặm về phía nam. Việc này đã bị vua ta (Lê Dụ Tông, 1705-1729) phản đối và
Thanh Thế Tông (Ung Chính 1723-1735) không tán thành, hứa với vua ta sẽ trở lại
nguyên trạng:
Ngày Kỷ Sửu tháng 4 năm Ung Chính thứ 3 [2/6/1725]
Trước đó, Tổng đốc Vân Quí Cao Kỳ Trác tâu rằng:
“Phủ Khai Hóa, Vân Nam tiếp giáp với Giao Chỉ [tên TQ gọi nước ta thời đó], có đất cũ của nội địa [tức
TQ] mất vào Giao Chỉ. Nay nhân mở xưởng đồng, qua lời báo của Bố chánh sứ Lý
Vệ Tường, thần ủy quyền cho Tổng binh Khai Hóa tra khám. Nay tra được rằng từ
xưởng Ðô Long nhìn qua dưới núi Duyên Xưởng có 129 [?] lý [dặm]; lại có
ba bốn chục trại tại Nam Lang, Mãnh Khang, Nam Ðinh đều bị Giao Chỉ chiếm. Lại
tra “Vân Nam Thông Chí” chép phía nam phủ Khai Hóa 240 lý đến sông Ðỗ Chú của
Giao Chỉ làm ranh giới, nay Giao Chỉ gọi chỗ này là An Biên Hà. Sau đến đời
cuối triều Minh, nhân đất này rộng và xa, chúng bèn đem đồn trấn thủ dời vào
nội địa, rồi chỉ cái khe nhỏ dưới núi Duyên Xưởng cưỡng đặt tên là sông Ðỗ Chú,
nên đã mất 120 lý. Triều ta thời Khang Hy thứ 22, 6 trại, thôn Tà Lộ dưới khe
nhỏ của núi Duyên Xưởng cũng sáp nhập vào Giao Chỉ; có thể thấy lấy tấn [trấn]
Mã Bá làm biên giới, so sánh với thời cuối Minh đã mất 40 lý. Nếu xét về biên
giới cũ, đáng mang 240 lý thu hồi [sic, ???]. Thần thấy trong văn thư
giao dịch cùng Quốc vương An Nam, thì hai xưởng Ðô Long, Nam Ðan đều nằm trong
đó; Giao Chỉ dựa vào mối lợi lớn, bèn tìm cách kháng cự, đem những lời sai trái
để phân trần, lấy đó mà tâu lên cặn kẽ.”
Nhận được chiếu chỉ rằng:
“Xem tờ tâu, biết được tình hình biên giới với Giao Chỉ từ
xưa và gần đây. Trẫm nghĩ đến đạo nhu viễn[1], luận về việc chia cương thổ cùng
hòa mục với lân bang, thì hòa mục với lân bang hay hơn; so sánh việc sợ uy và
nhớ đức, thì nhớ đức đáng ở trên. Cứ bảo rằng hai xứ Ðô Long và Nam Ðan từ đời
cuối Minh, An Nam đã có, như vậy việc xâm chiếm không phải từ triều ta. Kể từ
triều ta đến nay, An Nam mấy đời cung thuận, thật đáng khen, đáng tưởng lệ việc
này; há lại vì việc tranh dành thước tấc đất đã mất vào thời cuối Minh ư? Ðất
này quả có lợi ích ư! Há thiên triều lại cùng nước nhỏ tranh lợi? Hoặc không
lợi ư! thì tranh chấp để làm gì? Trong lòng Trẫm chỉ muốn đại công, chí chính;
coi dân trong nước, ngoài nước đều là con đỏ. Vả lại hai nước đất tiếp giáp,
liền biên giới; rất dễ sinh sự gây hấn, càng nên khéo thu xếp để quyến luyến
nhau; không chỉ yên dân nước họ, mà cũng chính là để yên dân ta vậy; vậy hãy
lấy khe nhỏ làm biên giới, nào có thương tổn gì! Tham lợi, kiêu hãnh lập công,
không thể là mẫu mực dạy đời. Hãy hiểu Trẫm ý, châm chước thi hành.”
Lúc này, Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào [Dụ Tông] tấu xưng:
“Châu Vị Xuyên nước thần vốn tiếp giáp với phủ Khai Hóa tỉnh
Vân Nam, dùng sông Ðỗ Chú làm biên giới; phía tây sông thuộc phủ Khai Hóa, phía
đông sông thuộc xã Tụ Long châu Vị Xuyên. Hốt nhiên nhận được tờ tư của Tổng
đốc Vân Quí gửi cho nước thần rằng: ‘ Sáu trại tại xã Tụ Long, thôn Tà Lộ thuộc
phủ Khai Hóa là đất nội địa; trước đây bị Thổ mục Ðô Long xâm chiếm, đến nay đã 40 năm, cần phối hợp để lập
lại biên giới.’ Thần đã có văn phúc đáp đầy đủ; rồi Tổng trấn Khai Hóa đến núi
Yên Mã tại thôn Tà Lộ, cách sông Ðỗ Chú 120 lý lập bia biên giới, cùng thiết
lập phòng ốc, sai quân phòng thủ. Thần trình bày nguyên do sự tình, kính cẩn
tâu đầy đủ.”
Nhận được chiếu chỉ như sau:
“Ðiều này trước khi Vương chưa tâu, thì lúc Tổng Ðốc Vân Quí
Cao Kỳ Trác sai người khám biên giới, đã từng tâu lên. Trẫm nghĩ An Nam vào các
đời đều cung thuận, Vương kính cẩn nối chức đáng khen. Vả lại đất này đã bỏ đi
từ thời triều Minh, dân An Nam cư trú tại đó đã lâu, đất đã ở yên lại phải dời
đi, không khỏi lâm vào cảnh khổ lưu ly. Trẫm trong lòng nghĩ đến nhu viễn, coi
người trong nước và ngoài nước như nhau, nên thực không nỡ. Ðã phê cho triệt
hồi nhân viên tại thôn Tà Lộ, hãy bàn nghị riêng chỗ khác làm biên giới, nhắm
thỏa đáng. Ước lượng thời gian này lời phê đã đến, sẽ có sự liệu lý riêng.
Vương giữ chức vụ, coi dân của ngươi, nên bình tĩnh để đợi.
(Thế Tông Thực lục, q. 31, tr. 28-31)
Việc thực thi kéo dài tới hai năm, biên giới mới được lập
tại Xưởng Chì. Vậy là tân Tổng đốc Vân Quí Ngạc Nhĩ Thái mới chỉ hoàn lại 80
dặm đất, còn 40 dặm chưa trả nên vẫn bị vua Lê phản đối. Ung Chính dụ cho Nội
các, đồng tình với thuộc hạ, tỏ ý coi khinh Vua An Nam không biết điều:
Ngày Nhâm Tý tháng 4 năm Ung Chính thứ 5 [15/6/1727]
Dụ nội các:
Về việc định biên giới An Nam, trẫm đã gia ơn, hãy bàn riêng
mà lập giới tuyến. Quốc vương nước này không biết cảm ơn, lại còn tâu lên nữa,
và yêu cầu 2 tỉnh Quảng Ðông, Vân Nam đề đạt lên. Y ngu muội vô tri, Trẫm đáng
ban sắc dụ để tiếp tục mở mang cho biết. Mới đây Ngạc Nhĩ Thái tấu xưng, đã gửi
văn thư cho An Nam. Nếu như khi văn thư đến, viên Quốc vương tuân phụng thi
hành, thì không cần ban thêm nữa. Nhất thiết mọi việc nên làm, Ngạc Nhĩ Thái
hãy thi hành ổn thỏa.
(Thế Tông Thực Lục, q. 56, tr. 26-27)
Vua Lê tiếp tục gửi biểu văn, lời lẽ mềm dẻo nhưng cương
quyết; Ung Chính giọng cứng rắn nhưng rồi nhượng bộ, trả lại đủ 40 dặm đất dưới
danh nghĩa… món thưởng cho vua ta! (vị trí gần trấn Mã Bạch hiện nay):
Ngày Kỷ Mão tháng giêng năm Ung Chính thứ 6 [8/3/1728]
Trước tiên, vào tháng 4 năm Ung Chính thứ 3, nguyên Tổng đốc
Vân Quý Cao Kỳ Trác điều tra và tâu về biên giới tại nước An Nam, so với biên
giới cũ, lấn vào đất nội địa 120 dặm cần phải sửa đổi lại, lập biên giới tại
sông Ðỗ Chú. Rồi Quốc vương An Nam tâu đầy đủ đòi xin; Thiên tử sai tân Tổng
đốc Ngạc Nhĩ Thái làm cuộc thanh tra mới, lập biên giới cách con sông nhỏ dưới
núi Duyên Xưởng 40 lý; Quốc vương An Nam kịch liệt trình tố. Vào ngày 4 tháng 4
năm Ung Chính thứ 5, Thiên tử ban một đạo sắc, dụ Quốc vương An Nam rằng:
“ Trẫm ra lệnh các quan địa phương thanh lý cương giới; cứ
viên cựu Tổng đốc Vân Quí Cao Kỳ Trác tuân chỉ, khảo tường tận chí thư biết
rằng phủ Khai Hóa cùng châu Vị Xuyên giáp giới đáng tại làng Phùng Xuân cạnh
sông Ðỗ Chú, phủ Khai Hóa, nên tại các xứ tại thôn Tà Lộ, thiết lập tấn sở[2], để
nghiêm túc biên cảnh. Rồi nhân Quốc vương đưa tấu biểu đến, tình từ khẩn thiết,
Trẫm vốn có lòng hoài viễn [3], miễn
cưỡng chấp nhận lời xin, ra lệnh viên Ðốc triệt hồi tấn sở nhân viên, rồi bàn
lại việc lập biên giới mới, đó là điều đặc ân của Trẫm. Tiếp đến viên tân Tổng
đốc Ngạc Nhĩ Thái tấu xưng những lời như sau‘Tra xét hình thế sông núi dưới
chân núi Duyên Xưởng, trong ngoài rõ ràng. Vả lại dựa vào chí thư, căn cứ sổ
lương thực, tra xét chỗ đặt các tấn sở cũ, xét nghiệm cách ăn mặc của dân
chúng, thực vùng đất này thuộc nội địa. Nên lập biên giới tại đây, thật là hết
sức nhân nghĩa.’
“ Trẫm chấp thuận lời tâu, ban dụ cho Quốc vương tuân phụng
thi hành. Tính liệu rằng khi Vương nhận được dụ, sẽ hân hoan cổ vũ, đội ơn cảm
đức Trẫm ban đất yên ỗn dân, hăng hái nhận mệnh. Nhưng viên Quốc vương lại tiếp
tục tố cáo biện bạch, thật Vương với lòng chấp mê, tham vọng không cùng, quên
tấm lòng cung thuận của tiên nhân, phụ ơn trạch nhu viễn của Trẫm. Cao Kỳ Trác,
Ngạc Nhĩ Thái đều là bầy tôi trấn tĩnh công bình, không phải là bọn lắm chuyện
tâng công; nên các quan sở tại cũng không dám quanh co tư tình. Trẫm thống trị
hoàn vũ,các nước đến thần phục đất nào cũng là đất của ta, nào phải kể đến vùng
đất nhỏ nhoi 40 dặm! Nhưng phân cương định giới, là việc đầu tiên của chính
quyền, dù nơi gần kinh kỳ hoặc chốn hoang dã cũng đồng nhất thể. Trước mắt các
nước phiên xa xôi như Mông Cổ, nhận được chỉ dụ của Trẫm, không có ai mà không
tranh tiên ứng chực; huống nước các ngươi vốn xưng là lễ nghĩa lại một mình
trái với đức hóa ư!
Vương không nên hiềm việc trước đây xâm phạm đất của triều
đình, rồi đâm ra nghi sợ nên tiếp tục trình bày biện bạch, đó là lầm lỡ của
tiền nhân, không phải là sự sai lầm của Vương. Vương chỉ nên tuân theo lời dụ
của Trẫm, Trẫm không thâm cứu về dĩ vãng, mà lại còn gia ơn trong tương lai.
Nếu lời tâu bày sắp tới, lại mất lòng cung thuận trước kia, thì Trẫm cũng không
còn thi hành chính sách chiếu cố người phương xa nữa. Lòng Trẫm đối với người
phương xa, chí thành chí thiết; ân cần hiểu dụ. Hãy suy nghĩ đi! Suy nghĩ đi!”
Lại vào ngày 26 tháng 9, mệnh Phó đô ngự sử Hàng Dịch Lộc,
Nội các học sĩ Nhiệm Lan Chi đến An Nam tuyên dụ. Lúc bọn Hàng Dịch Lộc chưa
đến An Nam, Quốc vương An Nam tiếp nhận được đạo dụ ngày 4 tháng 5, tỏ lòng cảm
ơn và hối hận sai lầm qua biểu văn. Tổng đốc Vân Quí Ngạc Nhĩ Thái đem tâu
trình; biểu văn như sau:
“ Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào kính cẩn tâu: Vào
ngày mồng 2 tháng 12, thần nhận được sắc dụ, đốt hương duyệt đọc, mừng sợ giao
tập. Trộm nghĩ châu Vị Xuyên nước thần cùng phủ Khai Hóa, Vân Nam tiếp giáp;
nguyên dùng sông Ðỗ Chú, tức con sông nhỏ tại tấn Mã Bá làm ranh giới. Các viên
châu mục tại biên giới đời đời giữ đất, thần chưa từng thấy việc xâm chiếm đất
của nội địa. Vả lại chưa nhận được chiếu thư, nên đem mọi việc ra trình tâu. Rồi
nhận được sắc dụ, lệnh triệt hồi nhân viên tại thôn Tà Lộ, sẽ bàn riêng để lập
biên giới; ngưỡng mong lòng từ chiếu cố, hân hạnh không cùng. Nay lại phụng sắc
dụ, định tại con sông nhỏ dưới núi Duyên Xưởng lập biên giới; dụ thần đừng dựa
vào ơn ưu đãi, ôm tham vọng không cùng, để rồi can vào quốc điển; thần chịu uy
trời trong gang tấc. Trước mắt núi Duyên Xưởng đã được Tri phủ Quảng Nam lập
cửa quan ải, xây phòng ốc, làm bia biên giới. Các viên châu mục biên giới nước
thần, tuân sự nghiêm sức của thần, yên lặng không có lời nói. Nước thần mấy đời
dốc lòng thành, theo sự hướng hóa của Thánh triều, được ơn nhu viễn của Thánh
Tổ Nhân hoàng đế hơn 60 năm nay; nay nhận mệnh lớn của Hoàng đế bệ hạ, như mặt
trời mới mọc, khắp trời biển chỗ nào cũng là đất của Ðế vương, riêng 40 dặm
đất, thần đâu dám sinh lòng oán vọng. Nay được nghe lời hiểu dụ tha thiết chân
thành, thần đội ơn Thánh triều, hân hoan trong lòng, xin nguyện vạn phương chầu
mệnh, Thánh thọ vô cùng, Thánh triều ngàn vạn năm thái bình, nước thần ngàn vạn
năm phụng cống. Cẩn tâu! “
Ðược chỉ dụ ban như sau:
“Xem lời tâu của Vương, cảm ơn và hối lỗi, lời ý cung kính;
khiến Trẫm đặc cách ban ơn lớn, lệnh Tổng đốc Vân Nam lấy 40 dặm đất, thưởng
cho An Nam.”
Vẫn ban sắc dụ, đưa đến Vân Nam, rồi ra lệnh Hàng Dịch Lộc,
Nhiệm Lan Chi đến An Nam tuyên đọc Thánh dụ. Sắc dụ như sau:
“Trước đây Trẫm lệnh các quan coi đất lập rõ ràng cương
giới, chỉ thi hành trong nội địa, chưa ra lệnh thanh tra đến đất An Nam. Viên
Tổng đốc Cao Kỳ Trác với chức vụ được phong, khảo rõ chí thư cùng phỏng vấn dư
luận, biết rằng chỗ phân giới giữa phủ Khai Hóa và An Nam đáng tại xã Phùng
Xuân cạnh sông Ðỗ Chú; do đó một mặt thiết lập tấn sở phòng ốc, một mặt tâu
lên. Rồi nhân Quốc vương trình tâu, Trẫm đặc giáng chỉ dụ lệnh viên Tổng đốc
nghị bàn cách khác về việc thiết lập biên giới. Lại lo rằng Cao Kỳ Trác chấp
nhất ý kiến riêng, nên ra lệnh tiếp cho viên tân Tổng đốc Ngạc Nhĩ Thái lấy
công tâm mà biện lý. Ngạc Nhĩ Thái thể theo bụng thương yêu người xa xôi của
Trẫm, định giới tại con sông nhỏ dưới núi Duyên Xưởng, một mặt thiết lập tấn sở
phòng ốc, một mặt tâu lên; so sánh với giới tuyến cũ [ do Cao Kỳ Trác lập] giảm xuống 80 lý, thực là tận nhân
tận nghĩa. Sự việc do các quan Ðại thần kinh lý biên cương, theo chức phận mà
thi hành.
Trẫm thống ngự hoàn vũ, phàm các nước thần phục, đều lệ vào
bản tịch; An Nam là nước được phiên phong, thước đất nào mà không phải của ta,
hà tất phải so đo đến 40 dặm đất nhỏ nhoi. Nếu viên Quốc vương chí tình khẩn
cầu, Trẫm có thể ban cho, nào có khó khăn gì! Chỉ vì 2 lần các viên Tổng đốc
định biên giới, viên Quốc vương khích thiết tâu xin, lời lẽ quá sức oán than,
trình bày lắm chuyện, hết sức thiếu cung kính. Viên Quốc vương đã không giữ
được đạo thờ người trên, Trẫm cũng không theo cách ban ơn, đó là điều thông
thường xử thế trong thiên hạ, cách thức giao tiếp trên dưới, sự việc do Vương
gây lấy, nào phải tấm lòng Trẫm sơ hốt!
Mới đây Ngạc Nhĩ Thái đem tờ tâu của Quốc vương vào tháng 12
năm trước dâng lên, biết Quốc vương rất cảm khích sâu xa ơn của triều đình, tự
hối trước đây chấp mê sai lầm, hăng hái xin tuân mệnh, lời và ý cung kính. Trẫm
xem xong, rất vui lòng. Vương đã biết tận lễ, thì Trẫm có thể gia ân. Huống 40
dặm đất này, nếu thuộc Vân Nam là đất nội địa, tại An Nam là đất ngoại phiên
của Trẫm, không có gì đáng phân biệt; nay đem đất này giao cho viên Quốc vương
giữ đời đời. Lại sai bọn Ðại thần đến nước ngươi, tuyên dụ ý Trẫm. Trẫm nghĩ đã
ban ơn huệ cho phiên vương, cũng đáng nhìn xuống sự thuận tiện của dân, Nếu dân
chúng cư trú trong đất này, tình nguyện dời vào nội địa, lệnh cho Tổng đốc Ngạc
Nhĩ Thái ước lượng liệu lý, cùng dụ cho viên Quốc vương hay biết.
(Thế Tông Thực Lục q. 65, tr. 12-17)
Sau khi tuyên bố trả lại đất, vua Ung Chính ban dụ cho Tổng
đốc Vân Quí lệnh thu xếp ổn thỏa; định cư những người Trung Quốc muốn rời khỏi
phần đất đã trả cho An Nam:
Ngày Tân Tỵ tháng Giêng năm Ung Chính thứ 6 [10/3/1728]
Dụ Tổng đốc Vân Quý Ngạc Nhĩ Thái:
“ Xem tấu chương Quốc vương An Nam trần tạ, cảm ơn hối lỗi,
nhiệt tình bái mệnh, tình từ hết sức cung thuận. Viên Quốc vương biết xử tận
lễ, Trẫm cũng có thể gia ơn. Nay đem 40 dặm đất, thưởng cho viên Quốc vương như
cũ. Ðặc cách ban một đạo sắc dụ, vẫn sai Hàng Dịch Lộc, Nhiệm Lan Chi đi đến
nước này, tuyên dụ Trẫm ý. Nhưng nghĩ rằng Trẫm đã gia ơn cho ngoại phiên, cũng
đáng cúi xuống chiều theo sự thuận tiện của dân. Số cư dân trong vòng 40 lý,
nếu có người tình nguyện dời vào nội địa, hãy lưu tâm giúp đỡ an sáp. Trước mắt
tỉnh Vân Nam đang có việc khai khẩn đất đai, tức lệnh cho bọn họ nhận ruộng cày
cấy, nhắm sao cho thích hợp. Nếu có những kẻ tình nguyện sống tại đất ngoài,
nơi An Nam quản hạt, cũng chấp nhận ý đó.
(Thế Tông Thực Lục q. 65, tr. 18-19)
Tiếp đến, hai Sứ thần Hàng Dịch Lộc, Nhiệm Lan Chi dâng sớ
tường trình chuyến đi đến An Nam, mô tả cảnh dân chúng tại đây hoan nghênh việc
trả đất:
Ngày Mậu Tý tháng 10 năm Ung Chính thứ 6 [12/11/1728]
Phó đô ngự sử Hàng Dịch Lộc, Nội các học sĩ Nhiệm Lan Chi
phụng sứ đến An Nam, dâng sớ tâu:
“ Bọn thần vào ngày 11 tháng 3 năm nay tại tỉnh thành Vân
Nam, nhận được dụ của Thiên tử đem đất tại Duyên Xưởng cấp cho Quốc vương An
Nam; lại ban một đạo sắc dụ, mệnh bọn thần mang đến tuyên đọc. Bọn thần vào
ngày 21 tháng 3 khởi hành từ tỉnh Vân Nam theo đường qua Quảng Tây, đến tháng 5
đến trấn Nam Quan. Bọn Bồi thần An Nam Phạm Khiêm Ích 6 người khấu đầu tiếp
đón. Bọn thần đốc suất hộ tòng 1 viên quan văn Ðồng tri, 2 viên quan võ Thủ bị,
khởi hành trong ngày. Ra khỏi cửa quan, thấy dân chúng An Nam vỗ tay hoan hô,
tiếng vang cả núi rừng. Vào ngày mồng 8 tháng 6 đến công quán doanh Ðiêu Giao,
Quốc vương sai Bồi thần nghênh đón.
Ngày hôm sau phát hành nghi thức tuyên đọc chỉ dụ, viên Quốc
vương xin chiếu theo lễ kính trời của nước này, hành lễ 5 bái, 3 lần khấu đầu.
Bọn thần gửi thư trách vấn, bảo rằng định chế của Thiên triều khắp bốn biển đều
phải tuân theo, không được sửa đổi, hãy dựa vào thịnh điển này; bọn y đều sợ
thẹn tuân mệnh. Ngày 16, bọn thần qua sông Phú Lương [Hồng Hà], đến cửa Trường An của nước này; Quốc vương Lê
Duy Ðào quỳ đón sắc dụ, các tùy tòng Ðại thần kính cẩn đảnh lễ. Thần bưng sắc
dụ, do cửa giữa đi vào, đặt trên điện; viên Quốc vương cùng văn võ Bồi thần
hành lễ 3 lần quỳ, 9 khấu đầu. Sau khi nghe tuyên đọc xong, bèn tạ ơn. Bọn thần
lại hiểu thị rằng Hoàng thượng coi trong [nước] ngoài [nước]như nhau, nên trước
đây không nỡ có ý dùng binh, ân đức dồi dào, từ xưa đến nay chưa hề có như vậy.
Từ nay trở về sau đáng tăng thêm lòng trung thuận, răn sức bọn lại mục giữ biên
giới, không được sinh sự, để rước lấy họa. Quốc vương nghe qua,lấy tay đặt lên
trán ba bốn lần, thề đời đời con cháu, vĩnh viễn giữ tiết bề tôi. Lại đưa tiễn
đến cửa Trường An, trình bày lòng quyến luyến, đưa lễ vật tống tặng; bọn thần
ngưỡng theo đức anh minh của Bệ hạ, thi hành chính sách nhu viễn với nước
phương xa, nên từ chối không nhận. Vào ngày 22 khởi hành, đến ngày 29 vào trấn
Nam Quan; Các viên Bồi thần tùy tùng là bọn Ngô Ðình Thạc 4 tên, hành lễ giống
như nghi thức có sẵn trước, dâng một đạo biểu chương tạ ơn của Quốc vương, một
tờ thân văn cho bộ Lễ, cầu xin thần lúc trở về chuyển tâu.
Bọn thần nghĩ rằng An Nam là nơi hoang tịch cõi ngoài, được
liệt vào ngoại phiên từ lâu; Hoàng thượng nghĩ rằng nước này đời đời cung
thuận, không nỡ vì lý do một mảnh đất, mà mang quân đi chinh thảo; nên khi
chúng đem lòng thành cảm ơn hối lỗi, bèn theo ân điển ban thưởng đất rộng rãi,
đây là một ơn lớn, kế sách chiêu phủ đã đạt đến nơi vậy. Bọn thần chứng kiến
dân nước ngoài nhiệt liệt hoan nghênh, thấy được uy trời rộng lớn; bèn cứ sự
thực tâu lên, xin được đưa việc này đến sử quán, để ghi lại cho vạn thế về sau
truyền tụng.”
[Thiên tử] chấp thuận. Quốc vương An Nam Lê Duy Ðào dâng
biểu tạ ơn được ban 40 dặm tại Duyên Xưởng, hãy đưa xuống cho các bộ hay biết.
(Thế Tông Thực Lục, q. 74, tr. 11-13)
Về phía Việt Nam, Khâm ÐịnhViệt sử
Thông giám Cương mục chép đầu đuôi việc nhà Thanh hoàn trả 40 dặm đất, lại
còn thêm chi tiết rằng khi phái đoàn nước ta đến nhận đất và lập giới mốc thì
viên Thổ ty Khai Hóa muốn ăn chặn đất, nên chỉ bậy một chỗ khác, nói là sông Ðỗ
Chú. Quan Tế tửu Nguyễn Công Thái biết là gian trá, bèn xông pha lặn lội lam
chướng, qua các xưởng bạc, xưởng đồng, nhận đúng chỗ sông Ðỗ Chú, bèn dựng bia
nơi giáp giới. Ðề cao việc làm của Tế tửu Nguyễn Công Thái, vua Tự Ðức có lời
ngự phê như sau “Ðạo làm bầy tôi phải như thế”:
“ Trước đây, nước ta cùng nhà Thanh lập mốc biên giới hai
bên ở núi Diên Xưởng, còn núi Tụ Long của nước ta vẫn bị mất về nhà Thanh, thổ
ti nhà Thanh đặt quan ải để đánh thuế. Đất ở biên giới nước ta bị mất 40 dặm,
triều đình đã nhiều lần làm văn thư tâu bày biện bạch việc này, vua nhà Thanh
hạ sắc văn bảo quan địa phương bàn luận riêng về việc lập mốc biên giới, một
mặt hạ lệnh cho Ngạc Nhĩ Thái, tổng đốc Vân Quý (Vân Nam, Quý Châu), khám xét lại. Nhĩ Thái lại nghe theo
lời viên quan phái ủy của nhà Thanh là Phan Doãn Mẫn, rồi hắn tâu với vua nhà
Thanh là nước ta xâm chiếm đất của phủ Khai Hóa, không chịu giao trả, vua nhà
Thanh hạ sắc văn dụ bảo nước ta phải theo lời trả lại. Nhĩ Thái làm tờ tư cho
chạy trạm đến địa đầu biên giới Tuyên Quang, nhưng Hoàng Văn Phác (có sách
chép: Văn Lâu), thổ mục giữ quan ải, dùng lời lẽ kháng cự, không chịu tiếp
nhận tờ tư, kéo dài đến 5, 6 ngày. Nhĩ Thái ngờ nước ta có mưu kế gì khác
chăng, hắn lập tức tư sang tỉnh Quảng Tây chia địa điểm phòng bị nơi biên giới.
Một mặt hắn lại đem việc này tâu về triều đình nhà Thanh và xin điều động binh
mã ba tỉnh để phòng bị biên giới, nhưng vua nhà Thanh không y cho. Liền đó, vua
nhà Thanh sai bọn Hàng Dịch Lộc tả Ðô ngự sử, và Nhậm Lan Chi nội các Học sĩ,
đi thẳng sang nước ta tuyên bố chiếu chỉ để hiểu dụ, nhân đấy xem xét sự động
tĩnh. Khi bọn Dịch Lộc ra đi chưa đến nước ta, thì ngay lúc ấy, quốc thư nước
ta đưa sang nhà Thanh từ trước đã đến Yên Kinh, trong quốc thư giải bày
"lòng thành thờ nước lớn, sợ mệnh trời", vua nhà Thanh xem quốc thư,
rất lấy làm vui lòng và khen ngợi, lập tức sai viết sắc văn khác, lại giao cho
bọn Dịch Lộc đưa sang nước ta tuyên bố dụ bảo, trong sắc văn nói về việc tra ra
đất xưởng đồng 40 dặm, nay giao trả lại.
Lúc ấy, biên giới phương bắc cảnh giới nghiêm ngặt, nên bên
nước ta trong kinh ngoài trấn có ý nghi ngờ sợ hãi, nhưng [chúa] Trịnh Cương quyết đoán, cho rằng, có lý nào không
hấn khích gì mà lại sinh sự được, bèn nghiêm sức cho quan lại giữ biên giới,
không được hành động càn rỡ.
Về nghi lễ tiếp nhận sắc văn của vua nhà Thanh, Dịch Lộc lại
yêu cầu cử hành nghi lễ ba lần quỳ chín lần vái, triều đình cũng miễn cưỡng
nghe theo.
Sau đó, sai tả thị lang bộ Binh Nguyễn Huy Nhuận và tế tửu
Nguyễn Công Thái đi lên Tuyên Quang nhận đất và lập giới mốc. Thổ ti phủ
Khai Hóa muốn ăn chặn lấy các sách ở Bảo Sơn, nên chỉ láo chỗ khác là sông Đỗ
Chú. Công Thái biết là gian trá, liền xông pha lặn lội những nơi lam chướng
hiểm trở, đi trải qua các xưởng bạc, xưởng đồng, nhận ra đúng chỗ sông Đỗ Chú,
bèn dựng bia ở nơi giáp giới.Từ đấy việc cương giới hai bên mới được ấn định.”
(Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, t.2, tr.
466-467)
Bia đá được dựng lên tại hai bờ sông Ðỗ Chú. Bia nước ta đặt
tại bờ nam, nội dung đơn thuần ghi lại việc đánh dấu biên giới quốc gia. Bia
nhà Thanh đặt tại bờ Bắc thì khác, nội dung khinh miệt láng giềng (gọi nước
ta bằng tên cũ thời nội thuộc: Giao Chỉ) và chứa chất mầm mống để tạo tranh
chấp trong tương lai
Bia bờ nam viết: ”Giới mốc châu Vị Xuyên, trấn Tuyên
Quang, nước An Nam, lấy sông Ðỗ Chú làm căn cứ. Ngày 18 tháng 9 năm Ung Chính
thứ 6 [1728]. Chúng ta là Nguyễn Huy Nhuận Tả thị lang bộ Binh, và Nguyễn Công
Thái Tế tửu Quốc tử giám, được triều đình ủy sai, vâng theo chỉ dụ, lập bia đá
này.”
Bia bờ bắc nội dung như sau: “Khai Dương
[4] ở xa tận một góc trời, tiếp giáp đất đai Giao Chỉ. Tra trong sách vở
ghi chép lại, thì giới mốc chỗ đất này phải ở vào sông Ðỗ Chú cách phủ trị Khai
Hóa 240 dặm về phía nam. Chỉ vì về sau giới mốc lẫn lộn, viên quan do triều
đình phái ủy khám xét tâu xin lập giới mốc tại núi Diên Xưởng. Hoàng thượng ta
(vua Ung Chính) ân uy rộng khắp phương xa, nghĩ Giao Chỉ đời đời giữ đạo cung
kính thuận theo, cả ban cho dụ chỉ, lại đem 40 dặm đất tra xét ra được, để trả
lại cho.
“Bọn Sĩ Côn chúng tôi, tuân theo tờ hịch của bộ viện quan
Tổng đốc Vân Quí ủy thác, nên ngày mồng 7 tháng 9, chúng tôi hội đồng với bọn
Nguyễn Huy Nhuận, viên quan phái ủy của nước Giao Chỉ, cộng đồng bàn định, lấy
con sông nhỏ ở phía nam vịnh [trấn]
Mã Bạch làm giới mốc, chỗ này tức chỗ mà trong tờ tâu của Quốc vương gọi là
sông Ðỗ Chú đấy.
Vậy chúng tôi tuân theo dụ chỉ, lập nhà bia giới mốc ở phía
bắc sông. từ đây biên cương bền vững lâu dài, ức muôn năm được đội ơn không bao
giờ mai một.
Ngày 18, tháng 9, năm Ung Chính thứ 6.
Chúng tôi là Ngô Sĩ Côn giữ chức Tri phủ Khai Hóa và Vương
Võ Ðảng giữ chức Du kích trung doanh trấn Khai Hóa, kính dựng bia này.”
(Khâm định Việt Sử Thông giám Cương mục, t.2, tr.
469-470)
Từ đó, sông Đỗ Chú là biên giới quốc gia trong suốt hơn 150
năm sau và đường biên giới này chỉ bị thay đổi sau khi Pháp cai trị nước ta.
Hòa ước Thiên Tân ký kết năm 1885 nhằm kết thúc cuộc chiến tranh Pháp-Thanh
tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam; qua tiến trình thi hành hoà ước này, Pháp đã
nhượng nhiều phần đất của Việt Nam hòng tìm kiếm những ưu đãi về thương mại của
Trung Hoa. Lần này, Trung Quốc lại tiếp tục chơi trò sông Đỗ Chú giả để lấn
đất. Và lần này, Thực dân Pháp đã nhân nhượng, kết quả là Việt Nam mất một vùng
đất giàu quặng mỏ (đồng, kẽm…) diện tích vào khoảng 700km2. Đó là mỏ đồng Tụ
Long, nay thuộc các trấn Ðô Long, Kim Xưởng, huyện Mã Quan, châu Văn Sơn, tỉnh
Vân Nam, Trung Quốc.
Qua Bản-đồ Tổng Tụ-Long của Trung tá Bonifacy (trong
tác phẩm Le Canton de Tu-Long et la frontière sino-tonkinoise) dưới đây,
nêu lên một số sự kiện quan trọng như sau:
- Ðường biên giới Việt Trung, thỏa thuận giữa nhà Thanh và
nhà Lê năm 1728 (Frontière de 1728) ; nằm trên sông Ðỗ Chú thật (Ðỗ-Chú (vrai)]
và cột mốc biên giới của 2 nước Việt Trung vào năm 1728 (Stèles de 1728).
- Ðường giới tuyến năm 1897 (Délimitation de 1897) giáp với
các huyện Xin Mần, Hoàng Su Phì ngày nay.
- Vùng đất bị mất sau hòa ước Thiên Tân, nằm giữa 2 đường giới tuyến nêu trên, tính từ tây sang đông gồm các xã Tụ Nghĩa, Tụ Mỹ, Tụ Hoa, Tụ Long, Tụ
Thanh, Phấn Vũ, Bình Di.
- Sông Ðỗ Chú giả (Faux Ðỗ-Chú) tức sông Cháy, nằm gần giới
tuyến năm 1897.
Để độc giả có thể hình dung được phần nào vùng đất lịch sử
đó, chúng tôi trích dẫn bản đồ huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam, [5] Trung Quốc hiện
nay với các chú thích kèm theo.
Chú thích bản đồ:
[1]. Huyện lỵ Mã Quan(马关县/Maguan), Trung Quốc.
[2]. Trấn Mã Bạch/Bá (马白镇/Mabaizhen), cạnh sông Ðỗ Chú, Trung Quốc.
[3]. Trấn Ðô Long (都龙镇/Dulongzhen, tên Việt: Tụ Long), Trung
Quốc
[4]. Huyện Hoàng Su Phì, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
[5]. Huyện Xin Mần, tỉnh Hà Giang, Việt Nam.
[6]. Huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang, Việt nam.
[7]. Sông Bàn Long (Trung Quốc), tức sông Lô (Việt Nam).
Tháng 11.2011
[1] Nhu viễn: mềm dẻo với nước xa xôi.
[2] Tấn sở: đồn lính canh gác tại biên giới.
[3] Hoài Viễn: thương yêu người xa xôi
[4] Khai dương: tức phía nam phủ Khai Hóa. Tại đây chữ dương
có nghĩa là phương nam.
[5] Vân Nam Tỉnh Ðịa Ðồ Sách, Bắc Kinh: Tinh Cầu Ðịa
Ðồ Xuất Bản Xã, 2010, trang 162-163.
HỒ BẠCH
THẢO
Cùng viết Nguyễn Bá Dũng
Bản đồ trong bài gọi là « bản đồ tổng Tụ Long của Lieutenant-Colonel Bonifacy » thực ra là không phải.
ReplyDeleteBản đồ của Trung Tá Bonifacy nguyên bản tiếng Pháp, không có chua tiếng Việt, đăng trong Revue Indochine 1924. Bản đồ trong bài lấy (mà không dẫn nguồn) từ tập « Sử-liệu về biên-giới ta và Tàu từ đời nhà Lý cho tới đầu thời Pháp-thuộc » của các sử gia Hà Mai Phương và Chu Thu Hằng.
Tên sông « Đỗ Chú » viết trong bài không đúng. Thực ra là Đổ Chú, chữ Đổ dấu hỏi, từ chữ đổ bác (cờ bạc). Chú là lời thề. Đổ chú có nghĩa tiếng Việt là « tự thề ».
Lưu ý tác giả sửa lại.