Thơ trong đời sống của người nông dân Việt
Nam
Có
ai đó đã nói không quá rằng trong mỗi chúng ta, bao giờ cũng có một nhà thơ và một người nhà quê "nấp" ở đâu đó, dù ta làm nghề gì.
Người
nông dân Việt Nam đã đọc và làm thơ như thế nào à? Xin thưa: Họ đã đọc và làm
thơ từ khi chưa có chữ viết và còn rất lâu mới có thứ văn chương bác học của
văn tự.
Xin
lấy một ví dụ như thơ sáu/ tám hay còn gọi là thơ lục bát, một thể thơ rất gần
gũi với mọi người dân Việt Nam. Thể loại thơ này có từ bao giờ? Khó mà trả lời
cho chính xác; nhưng không biết trên thế gian này có thể loại thơ nào mà lại
"can thiệp" vào đời sống từ cung đình đến thứ dân, từ nhà quê đến đô
thị, từ đại sự quốc gia đến ngóc ngách dân tình, rừng sâu, xóm vắng như cái
"anh chàng chị chàng" sáu/ tám này không?
Hán
học uyên thâm như Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ,
Cao Bá Quát... đã dựng nghiệp "đế vương" trong văn chương, thi bá,
thi hào, từ thể thơ dân giã (nông dân) này!
Tây
học đến Tây trình độ cũng nể như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Xuân Diệu, Huy
Cận, Chế Lan Viên, Vũ Hoàng Chương... có ai trong họ không mê sáu/ tám?
Và
đặc biệt vai trò sáu/ tám trong âm nhạc dân gian (dân ca). Nó, sáu/ tám, gần như là ca từ (lời ca) duy nhất đầy biến ảo cho
các nhạc sĩ dân gian phổ nhạc (hát lên, đàn lên) thành mấy trăm làn điệu Quan
họ, Cò lả, Trống quân, Ả đào, Xẩm, Ví, Đối, Hò... Và đặc biệt là Chèo cũng đến
mấy trăm làn điệu. Rồi thoắt cái, thành Kịch - sân - đình, sánh ngang với mọi
thể loại Kịch - sân - rồng! Mà lại là Nhạc - vũ - kịch! So với Thơ - trình -
diễn đương đại từ Tây sang Đông bây giờ, Chèo đâu có "lép"! Ôi, giá
Mô-li-e (Molière) được xem Hề chèo, chắc ông phải cười đến xõa tóc, rung
rốn!...
Thơ
nông dân (nhà quê) này có "hiện đại" đến huyền ảo không, hay chỉ thật
thà như đếm? Xin thưa: "Hoa cúc vàng
nở ra hoa cúc tím/ Em lấy chồng rồi trả yếm lại anh/ Hoa cúc vàng nở ra hoa cúc
xanh/ Yếm em, em mặc, yếm gì anh, anh đòi". Hồi ấy (mấy trăm năm rồi
nhỉ), đã làm gì có lai ghép sinh học cho các mầu hoa?
Thế
rồi chàng trai nông dân khi quyết lấy bằng được người mình yêu thì: "Ví bằng mình quyết lấy ta/ Ta về ta bán cả
nhà ta đi/ Bán Tam Đảo, bán Ba Vì/ Bán chùa Thạch Thất Phật đi lầu lầu/ Ta về
ta bán ngựa, trâu/ Bán quả thầu dầu, bán trứng gà ung...". Ấy là bán
cái cụ thể. Thế còn cái trừu tượng (huyền ảo)? Cũng bán!: "Bán ba mươi sáu Thổ công/ Bán ông Hành khiển
(ông giời, tể tướng) vợ chồng Táo quân/ Bán từ giờ Mão, giờ Dần/ Giờ Tý, giờ
Sửu, giờ Thân, giờ Mùi...".
Thế
còn khi đã yêu nhau mà bị cách trở bởi con sông "ngày đàng, gang
nước" thì sao?
Chàng
nhà thơ dân gian, mà tôi chắc là nho sĩ, đọc: "Đôi ta cách một con sông/ Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang".
Đẹp quá! Nhưng hình như cái chất xả thân (hiện thực trận trụi, Sex...) chưa cao
bằng cái cách của cô gái quê: "Ước
gì sông rộng một gang/ Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi!"... Xé yếm
mình ngay!
Ôi,
nếu ông vua siêu thực A.Breton (tác giả "Tuyên ngôn siêu thực" 1924),
hay là cả cái nhóm nhà văn của tạp chí "Cách mạng siêu thực"
1924-1929) mà đọc chơi mấy câu trên, chắc chắn sẽ phải làm một "quả"
du lịch bụi sang Việt Nam (nếu họ còn sống) cho Zui!...
Ai
cũng bảo những Tản Đà, Tố Hữu, Nguyễn Bính, Hữu Thỉnh, Nguyễn Duy... là những
nhà cách tân, hiện đại cho thơ sáu/ tám. Nhất trí. Nhưng cũng không ít khi, tôi
lại cảm thấy như ngược lại! Ấy là trường hợp tuyệt tác "Gối đầu tay"
của Nguyễn Duy viết về người lính giữ nước trong một cuộc chiến quá dài: "Có người ngủ thế thành quen/ Đã nghe sợi tóc
bạc trên tay mình". Sáu/ tám hay và hiện đại đến thế, nhưng ở đây lại
thấy thấp thoáng cái cổ - tay - ca - dao mấy trăm năm trước: "Cổ tay đã trắng lại tròn/ Ai để ai gối đã
mòn một bên".
Ồ,
thì ra hắn (tôi muốn dùng cái đại từ nhà quê này để chỉ Nguyễn Duy) nổi tiếng
là một nhà thơ hiện đại, lại được chính cái nhà anh chị rất xưa là ca dao, hiện
đại hóa cho hắn!...
Lại
còn một chàng nhà thơ kém lứa Nguyễn Duy ngót hai thập tuổi, muốn sáu/ tám hiện
đại vào được nhà quê (nông dân) thì hắn lại phải mượn cái giọng, cái cảnh nhà
quê: "Người đà vào tuổi bốn mươi/
Ngẩn ngơ rơi lá, ngẩn người rơi xuân/ Hồng xác pháo dưới gót chân/ Quay về nhan
sắc có gần không em?" (Mai Linh).
Câu
1, 3 là "mượn", tuy mượn rất nhuần, thì cũng vẫn là mượn! Cũng may,
do tính sòng phẳng, hắn đã kịp trả nợ ngay, bằng hai câu 2, 4 hiện đại khá
oách!
Không có ranh giới giữa thơ cho nông dân với thơ cho các đối
tượng khác
"Làm
thơ cho nông dân" ư? có thể họ không cần, vì thực tế lịch sử văn học luôn
luôn chứng tỏ thời nào cũng có hai dòng Dân gian và Bác học. Vả lại người làm
thơ cũng không nên nghĩ là làm thơ cho nông dân, thị dân, công nhân, trí thức
hay binh lính. Thơ mà thật đời riêng,
thật đời chung (thời đại), thật... tài, thì ai mà chả thích! Ai đây tất nhiên là có cả 80% nông dân!
Xin
hãy viết "Trường huyện" hay như Nguyễn Bính thì ở đấy có cả nông dân,
có cả tướng lĩnh, bác học, doanh gia, chính khách thao thức một đời về một mái
trường xưa.
"Khách xa gặp lúc mùa xuân chín/ Lòng trí
bâng khuâng sực nhớ làng/ Chị ấy năm nay còn gánh thóc/ Dọc bờ sông trắng nắng
chang chang" (Hàn Mặc Tử).
"Em là/ Em gái đồng xanh/ Tóc dài/ Vương hoa
lúa/ Đôi mắt/ Em mang/ Chân trời/ Quê cũ/ Giếng mát/ Cây đa/ Anh khát/ Tình quê
ta/ Trong mắt em/ Thăm thẳm/ Nhạc quê hương/ Say đắm/ Trong lời em/ Từng lời/
Tiếng quê hương/ muôn đời/ Và/ Tiếng em/ Là một..." (Hoa lúa - Hữu Loan)
Tôi
đã thấy ở Paris một ông tiến sĩ, giáo sư Việt kiều tóc bạc, từng cắt cỏ, chăn
trâu, rưng rưng nước mắt khi đọc những câu thơ trên.
"Lũ chúng tôi/ Bọn người tứ xứ/ Gặp nhau hồi
chưa biết chữ/ Quen nhau từ thuở một, hai/ Súng bắn chưa quen/ Quân sự vài bài/
Lòng vẫn cười vui kháng chiến/ Lột sắt đường tầu/ Rèn thêm đao kiếm/... Bao năm
rồi gửi lại quê hương/ Mái lều tranh/ Tiếng mõ đêm trường/ Ít nhiều người vợ
trẻ/ Mòn chân trên cối gạo canh khuya..."
Trong
một buổi nói chuyện thơ ở một làng quê, khi trích dẫn, tôi đã quên đoạn thơ
trên, thì có một lão nông đã đọc theo, nhắc tôi cả tên tác giả Hồng Nguyên
1946...
Yêu
hiện đại như Nguyễn Quang Thiều vẫn có rất nhiều trong cả văn, thơ viết về sư
phụ của hắn là Làng Chùa. Cũng như Trần Đăng Khoa có viết về Mạc-Tư-Khoa,
Paris, thì vẫn là cậu bé ở sông Kinh Thày... Đá ở Hoàng Sa, Trường Sa bỗng hiện
ra như các sư cụ ở chùa làng cậu...
"Ra đường nghe tiếng xưng em/ Đêm về tôi với
ngọn đèn nhìn nhau". Đấy là tâm sự chàng trai cỗi (gần ế vợ) làng Chùa
Nguyễn Quang Thiều. Đèn mà nhìn được thì ắt là đèn dầu. Chứ đèn điện 100w hoặc
cao hơn thì làm sao có cuộc đối diện tâm trạng này! Còn đèn néon dịu hơn, nhưng
rất khó vào đây, dù có một chữ Tây vào đó cho thơ ra dáng... hiện đại, cũng
không được: "Đêm về tôi với tuýp đèn nhìn nhau" thì rất
nguy!
Nông
dân quần nâu chân đất cũng đã từng yêu thơ ta khi ta viết với tình yêu họ, làng
nước chung và thật lòng ta, đời ta.
Nông
dân máy cày Nhật, gặt đập liên hợp, điện mặt trời, Hai lúa trực thăng... càng
dễ yêu ta.
Có
ai đó (hình như Giô-han Bê-sơ, Đức?) đã nói một câu thật chí lý về nhà thơ và
các đối tác: "Cái lớn của một nhà thơ là khả năng tự mình trở thành đối
tượng mà mình biểu hiện".
Rất
cảm ơn một loại báo hiện đại bậc nhất hiện nay là điện - tử - báo mà lại cho
tôi được lạm bàn về những "vấn đề dân cày", nhà quê mình, với THƠ!
Hiền Nguyễn
No comments:
Post a Comment