Rõ ràng đây không phải phê bình vì sự tiến lên của nền
thơ, mà do thù hận gì đó nghiêm trọng lắm, mới dàn trận đánh quyết liệt như
thế. Nhóm người này gồm Nguyễn Hoài Nhơn, Lê Anh Phong, những người làm thơ hội
viên Hội văn nghệ tỉnh. Trước đó, ngày 15 tháng 10, tại Đại hội Chi hội Nhà văn
Việt Nam tại Quảng Bình, Nguyễn Hoài Nhơn đã phô tô hàng trăm bản bài viết nói
trên (đã in trên mạng “Văn nghệ và cuộc sống” của “Trung tâm phát triển
Văn học Nghệ Thuật” do nhà thơ Đỗ Hoàng phụ trách), mang đến phát tán tại Đại
hội.
Chưa hết, ngày 19 tháng 10, Lê Anh Phong, nhà báo sắp
nghỉ hưu, lợi dung cơ quan cũ, trong lúc Giám đốc Đài PT-TH Quảng Bình đi công
tác vắng, không thông qua trưởng phòng, đã vào phòng thu âm, trực tiếp đọc bài
viết rất dung tục trên của Nguyễn Hoài Nhơn trên sóng phát thanh của tỉnh. Sau
đó lại in ra đĩa đi mở nghe khắp nhiều nơi trong tỉnh. Trong những cuộc “đấu tố
thơ” đó, họ đồng thời phê phán cả báo Nghệ Thuật Mới, phụ trương tháng của
báo Người Hà Nội, Hội LHVHNT Hà Nội do nhà thơ Bùi Việt Mỹ làm Tổng biên
tập và Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Quyến tổ chức thực hiện, vì báo này đã dám in
một lúc hai trang thơ và hai trang bài viết về thơ Hoàng Vũ Thuật. Chắc họ
không biết báo này trả nhuận bút rất cao, mỗi bài thơ và lý luận phê bình đều
vượt ngưỡng nhuận bút mà thông lệ đã trả!
Ở các hội thảo thơ như Hội thảo Thơ Việt
Nam hiện đại và Nguyễn Quang Thiều do Viện Văn học tổ chức, toàn những GS, TS,
nhà văn có tiếng, nghĩa là những người am tường lý luận văn học. Còn cuộc “hận
thơ” này cả hai người tổ chức đều không mấy bạn đọc biết tiếng. Thế mà Nguyễn
Hoài Nhơn và Lê Anh Phong đã kéo nhau lên Lệ Thủy, Mỹ Đức, về Quảng Ninh, Đồng
Hới, ra Bố Trạch, Ba Đồn, Cao Mại (Quảng Trạch)… nghĩa là khắp các địa phương ở
Quảng Bình, đến đâu cũng đọc bài viết, và vung tay chém gió, phán lung tung về
các bài thơ cách tân của Hoàng Vũ Thuật “Chính ông cùng các đồ đệ của ông
đang dương cao ngọn cờ thơ vô lối như một gã rồ mà không biết mình đang chà đạp
lên những giá trị đích thực của thi ca.”. Họ phê phán bài thơ “Con chồn người”
của Hoàng Vũ Thuật bằng sự mở đầu mỉa mai, tục tỉu xung quanh vần “ồn”.
Tất cả những trò bức bối như đánh
trận đó buộc người chứng kiến phải đặt câu hỏi: Phê bình hay
là ác cảm, tị hiềm, thù hận? Có phải đó là để bảo vệ “nền thơ truyền
thống” hay là tự đề cao mình, hạ bệ một nhà thơ mà nhiều nhà phê bình và bạn
đọc quý trọng? Làm phê bình theo cách “mở mặt trận” dồn dập như thế liệu có
“chặn đứng” được lối thơ cách tân đang ngày càng thịnh hành ở Việt Nam mà
báo Nghệ Thuật Mới đang cổ võ (trong đó Hoàng Vũ Thuật là một) không?
Làm sao để ngăn ngừa việc phát tán tài liệu, nói xấu một nhà văn đàng
hoàng một cách tự do ở các địa phương Quảng Bình như thế? Thơ đương đại ai
không thích thì không đọc, thì tìm đọc loại thơ khác. Không đồng tình thì viết
bài phân tích nhã nhặn trên báo là được rồi, sao lại nổi khùng đi khắp nhân
gian xỉ vả người ta thậm tệ như thế ?.v.v..Thậm vô lý. Nghe mà rầu cả người.
Rất nhiều bạn đọc, bạn viết ở các địa phương trên đã điện cho tôi bày tỏ sự
phản đối và những bức xúc của họ. Tôi chỉ giải bày với họ rằng, đó là những
biểu hiện của lối “phê bình” chợ búa, kém văn hóa nên tránh xa. Nhưng tôi lại
nghĩ mình nên nói đôi điều với các anh Nguyễn Hoài Nhơn và Lê Anh Phong và
những người đang đứng sau lưng kích động, hay hùa theo hai anh, rằng: Văn
chương nghệ thuật là môi trường sáng tạo vô cùng nghiệt ngã, nó dài đằng đẵng
suốt đời người, phải cẩn trọng khi đốt lên ngọn lửa tị hiềm.
Về thơ truyền thống và thơ đương đại. Từ gần hai chục năm
nay trên văn đàn Việt xuất hiện một hiện tượng thơ mới, khác hẳn với thơ
chống Mỹ hay thơ Việt trước đó, xin gọi là thơ đương đại. Cùng với trường
phái thơ siêu thực, tượng trưng, tân hình thức nhập khẩu vào nước ta từ những
năm 60 của thế kỷ XX . Đó là một lối tư duy khác, cấu trúc khác và điệu phức
khác.
Thơ đương đại là loại thơ hiện đại, loại thơ pha siêu
thực, không vần, ý tứ ẩn kín, khoảng nghĩa giữa các câu thơ, chữ thơ rất rộng,
nhiều chất chứa, nên nhiều người đọc khó hiểu. Có người cho đó là thơ thơ Tây
dịch ra tiếng ta. Người ta gọi chung một chữ là “thơ khó”. Những nhà thơ Nguyễn
Quang Thiều, Đỗ Doãn Phương, Nguyễn Bình Phương, Văn Cầm Hải, Đinh Thị Như
Thúy, Đỗ Hữu Dũng, Trương Đăng Dung, Lưu Mêlan, Nguyệt Phạm..v.v..là những nhà
“thơ khó” như vậy. Một số nhà thơ U70 rồi, nhưng cũng đã tiếp nhận được lối thơ
mới đó như Vũ Duy Thông, Hoàng Vũ Thuật…
Thơ của họ làm nhiều bạn trẻ thích đọc. Nhiều nhà phê
bình nghiêm túc cũng cho rằng “thơ ấy là thơ mà hiện thực cuộc sống được chắt
lọc qua một lăng kính hoàn toàn mới, tạo ra những thi ảnh mới mà trước đó không
có…”. Nhưng nhiều nhà thơ và bạn đọc lại cho rằng, đó là loại thơ phản lại thơ
truyền thống, không thể chấp nhận được. Thậm chí đã có những người phản bác
loại thơ mới này vô cùng quyết liệt như nhà văn Nguyễn Hiếu, nhà thơ Đỗ Hoàng,
Trần Mạnh Hảo…. Nhà thơ Đỗ Hoàng gọi lối thơ đó là “thơ vô lối”. Anh đã làm
hàng trăm bài thơ “dịch thơ Việt ra thơ Việt” đăng lên blog của mình, ngụ ý mỉa
mai, khuyên các nhà thơ hãy trở về với thi ca truyền thống, nguồn cội. Những
bài viết của nhà thơ Trần Mạnh Hảo, Đỗ Hoàng, cả lối “dịch thơ Việt ra thơ
Việt” là đáng trọng, vì họ bảo vệ lối thơ truyền thống, xét về mặt thừa kế, đã
thấm vào máu thịt bạn yêu thơ Việt suốt từ năm 1933- 1945 đến nay?
Viết đến đây tôi bỗng nhớ đến cuộc tranh luận
về “thơ mới / thơ cũ” từ đầu những năm 30 của thế kỷ trước. Nó không khác
gì những cuộc tranh luận mới – cũ bây giờ. Thơ Việt lúc đó chỉ có lục bát, song
thất lục bát, các bài phú, hát ca trù và thơ theo thể Đường luật . Còn Phong
trào thơ Mới bắt nguồn từ thơ Pháp nhập vào ta.
Đại diện đấu tranh cho Phong trào thơ Mới có Phan Khôi,
Lưu Trọng Lư, Thế Lữ, Nguyễn Thị Kiêm, Việt Sinh…Họ cho rằng: “Thơ mới phải
được tự do, phải phá bỏ những niêm luật gò bó, chật chịa và khuôn sáo của Đường
thi…”. Đại diện cho phái thơ cũ cũng có những tên tuổi lớn như: Tản Đà Nguyễn
Khắc Hiếu, Chất Hằng Dương Tự Quán, Văn Bằng, Tùng Lâm Lê Cương Phụng… Họ ra
sức phản đối và công kích Thơ Mới. Rằng Thơ Mới chỉ là những tản văn “lủng củng
lủng ca”, là “cho máy chạy thụt lùi”, “lập dị”, “chẳng có gì mới”… Chất Hằng
Dương Tự Quán cho rằng :” Cái hình thức thơ chẳng phải đổi mới. Việc các nhà
thơ nên làm ngay bây giờ là cứ theo cái hình thức thơ cổ và diễn những tư tưởng
mới”.
Cuộc tranh luận “thơ mới – thơ cũ” đầu thế kỷ XX diễn
ra rất quyết liệt. Quyết liệt hơn cuộc tranh luận mới – cũ thế kỷ XXI này
nhiều. Họ tranh luận sôi nổi, nhưng là tranh luận trên báo, trong các cuộc hội
thảo, với ngôn ngữ của trí thức văn hóa cao, từ tốn, hiểu biết, chứ không như
hai bạn Nhơn, Phong đi khắp nơi, dè bỉu, nguyền rủa thơ mới như đã nói ở trên
cả.
Cuộc tranh luận Thơ Mới/ Thơ Cũ đầu
thế kỷ XX kéo dài cho đến khi tượng đài phê bình thơ Thi
nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân ra đời, khẳng định sự chiến thắng
hoàn toàn của phong trào Thơ Mới. Có nghĩa rằng, thơ Tây đã được các nhà thơ
Việt Nam “Việt hóa” để trở thành thơ truyền thống hôm nay. Thơ mới rồi sẽ cũ,
nên nhà thơ Trần Dần, cây đại thụ thơ Việt Nam hiện đại đã có lúc tuyên bố
“chôn thơ Tiền chiến” (tức là chôn thơ Mới). Tiếc rằng do tai nạn nghề nghiệp
nên ý nguyện của ông không nhen thành “phong trào”. Nhưng sáng tác của ông thì
mẫu mực về sự đổi mới thơ Việt.
Rồi thơ đương đại cách tân sẽ đến lúc cũng trở thành
“thơ truyền thống”, thành thơ cũ, khi một trường phái thơ khác ra đời và được
bạn đọc chấp nhận. Đó là quy luật của nhận thức. Có điều lạ mà rất đáng mừng là
thơ đương đại ( thơ cách tân) và những bài phê bình về “trường phái” thơ đó mấy
năm nay phần lớn lại được in trên báo chí do nhà nước quản lý, kể cả
báo Văn Nghệ. Còn những bài viết hay ý kiến phản đối thơ đương đại đa phần
chỉ in trên trang web, hay blog cá nhân , hay đọc chui trên sóng phát thanh của
nhà nước, đi phát tán kiểu tờ rơi như trên. Chứng tỏ các cơ quan quản lý văn
hóa văn nghệ đất nước rất tôn trọng sự tìm tòi đổi mới thơ.
Tôi là một nhà thơ không hoàn toàn
cũ mà cũng không mới hẳn. Nhưng tôi không phản đối tất cả
những cách tân về thơ. Tôi thích những bài thơ làm tôi xúc động, dù là loại thơ
gì. Tôi đọc và thích rất nhiều giọng thơ in trên Nghệ Thuật Mới. Tôi nghĩ
rằng có cách tân thơ Việt mới tiến về phía trước. Tìm những cách biểu hiện mới,
dưới một lăng kính mới, để thơ ta đa diện, đa chiều hơn là một tất yếu. Mình
không làm được thì vỗ tay cổ vũ người ta làm, sao lại dè bỉu, cản trở thậm chí
thù hận? Rồi cũng có khi, có lúc trường phái “thơ khó” đó chiếm lĩnh hoàn toàn
thi đàn Việt, vì nhà văn bao giờ cũng là người đi tiên phong trong đổi mới xã
hội, đổi mới thể chế, đổi mới văn chương, để con người ngày càng được là người
hơn.
Với ý nghĩ đó, tôi hoàn toàn ủng hộ nội dung báoNghệ
Thuật Mới do Nguyễn Quang Thiều chủ trương. Thực tế 9 số NTM vừa qua, tờ
báo này đã có chỗ đứng của mình trong lòng bạn đọc. Nhà văn Nhất Lâm 75 tuổi,
viết văn xuôi ở Huế số nào cũng mua NTM, đọc và khen : “Đúng là nghệ thuật mới.
Truyện ngắn, văn xuôi hay. Chỉ riêng những ý kiến của Lê Kiên Thành về cha mình
Lê Duẩn là rất mới và đáng đọc”. Tôi thăm dò ý kiến thì thấy, rất nhiều người
đọc thích Nghệ thuật Mới. Tờ Nghệ Thuật Mới đang dần trở thành tờ báo
chính thống riêng của các nhà cách tân nghệ thuật Việt Nam. Tất nhiên , trên
Nghệ Thuật Mới không chỉ in “thơ khó” mà in các bài thơ, chùm thơ hay viết theo
các giọng điệu khác của tác tác giả nổi tiếng như Thanh Thảo, Chế Lan Viên,
Trần Nhuận Minh, Vũ Quần Phương, Ý Nhi….chứ không chỉ riêng một giọng thơ
cách tân như Hoàng Vũ Thuật va nhiều người khác…Đó là thái độ trân trọng cái
hay, cái đẹp của thơ ca, kể cả thơ ca truyền thống. Không phải cứ ủng hộ cái
mới là đập phá cái cũ.
Tháng nào tôi cũng ra sạp báo mua một số và đọc không
sót một bài nào. Nên, khi tôi nghe nói các anh Nguyễn Hoài Nhơn, Lê Anh Phong
phê phánNghệ Thuật Mới, gọi đây là “tờ báo do một nhóm người tổ chức ra để
làm hại văn chương Việt” thì tôi vô cùng ngạc nhiên. Không biết câu nói đó
chính xác đến mức nào. Phát ngôn như thế chứng tỏ họ chưa đọc Nghệ Thuật
Mới. Hay là do họ ác cảm, tẩy chay loại “thơ khó” thường hay in trên báo này,
nên nhận định cực đoan như thế. Một số tác giả (trong đó có Hoàng Vũ Thuật) có
số được chọn in một lúc vài ba trang, 3 bài viết phê bình và 14 bài thơ của tác
giả đó, làm họ khó chịu chăng? Đọc văn chương người khác với một lối nhìn thiếu
cởi mở như thế, không nhận ra cái hay, cái đẹp là phải rồi.
Vì mấy nhà thơ Quảng Bình nói trên tổ
chức dàn trận “đánh” thơ Hoàng Vũ Thuật, nên tôi phải nói đôi điều về thơ của
nhà thơ Hoàng Vũ Thuật. Hoàng Vũ Thuật là người mô phạm, lặng lẽ cần mẫn lao
động thơ hơn 40 năm nay. Anh đặc biệt say thơ mới. Từ năm 2000, Hoàng Vũ Thuật
bắt đầu đổi mới thơ quyết liệt với các tập thơ quan trọng: Đám mây lơ
lửng (2000); Tháp nghiêng (2003); Ngôi nhà cỏ (2010),
Màu (2010). Nhà phê bình thơ Thái Doãn Hiểu cảm nhận về thơ anh: “Hoàng Vũ
Thuật với những câu thơ đẹp như nỗi buồn”: Nhưng sợi dây vẫn chờ lơ lửng /
quanh cổ nhà thơ / thít dần thít dần/ chầm chậm// tiếng kèn vỡ vụn / máu trào
sau nụ hôn (Viết dưới tượng Exnhin). Thơ Hoàng Vũ Thuật buồn, rất buồn,
nhưng như nhà thơ Vũ Quần Phương, thì “nỗi buồn đến độ sẽ tạo nên những cảm xúc
trong trẻo, làm trong lại hồn người” (Lời tụa tập thơ Cỏ Mùa Thu, HVT). Trong
lời phát biểu tại Đại hội Chi hội NVNH tạị Quảng Bình ngày 15-10-2012, nhà văn
Tô Nhuận Vỹ cho rằng: “Hoàng Vũ Thuật là một trong những nhà thơ hàng đầu của
Việt Nam hiện nay”. Nhà phê bình Nguyễn Đức Tùng (Canada) thì viết :“Thơ đương
đại của Hoàng Vũ Thuật “đầy những cảm thức lịch sử”. Anh có nhiều câu thơ tuyệt
tác:
nằm dưới kia
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van
một trung thực một đớn hèn một điên loạn
một ông vua một hoàng hậu một người hầu
một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
một lệnh truyền một trống giục một lời van
một trung thực một đớn hèn một điên loạn
(Nguyễn Đức Tùng Thơ đến từ đâu, NXB Lao động, 2009)
Cũng Nguyễn Đức Tùng sau khi dẫn câu thơ: Một ngọn lửa một đêm tối
một chiều tà / một vận hạn một thức thời một nguyền rủa đã thốt lên: “Tu
từ dày đặc mà vẫn là một trong những câu thơ hay nhất của thơ ca Việt Nam đương
đại. Trên vai chúng, tôi rất vui mừng nhận ra gương mặt thơ của Hoàng Vũ Thuật
tài hoa lộng lẫy” (Thơ đến từ đâu, tr. 447). Những nhận xét đó là rất khách
quan, qua văn bản thơ, chứ lúc đó nhà phê bình Nguyễn Đức Tùng cách nửa vòng
trái đất, chưa hề biết mặt mũi nhà thơ Hoàng Vũ Thuật vuông tròn như thế nào.
Tôi là người chứng kiến điều đó.
Hay bài thơ sau đây, viết tặng một người bạn ở Hội An,
trong số 14 bài thơ của Hoàng Vũ Thuật in ở Nghệ Thuật Mới
số 8, cũng là bài thơ rất hay . Mời bạn đọc tự cảm nhận toàn văn :
đêm và những ngọn đèn dầu
Gửi H
những ngọn đèn dầu đom đóm nhỏ xíu
dọc bờ sông Hoài
đủ soi nửa gương mặt mất ngủ
nửa kia
thao thức đợi ngày
dọc bờ sông Hoài
đủ soi nửa gương mặt mất ngủ
nửa kia
thao thức đợi ngày
que hương điểm chút sáng sau cùng
dật dờ
đôi bóng
cúi đầu dưới vòm cong chùa Cầu
dật dờ
đôi bóng
cúi đầu dưới vòm cong chùa Cầu
nước nhiều quá vừa bơi vừa thở
chân gập
rồi lại duỗi
trong thẳm sâu anh đọc hết đường đi ngôn từ
và những ghi chú bên lề
rồi lại duỗi
trong thẳm sâu anh đọc hết đường đi ngôn từ
và những ghi chú bên lề
sẽ có một ngày ta quay về nơi đó thắp ngọn dầu khuya
sen giấc hồ
thấm tận đáy ruột
thấm tận đáy ruột
Hội An, 5/12/2011
Hội Nhà văn Việt Nam đã ghi nhận sự dấn thân trong đổi mới
thơ của Hoàng Vũ Thuật bằng tặng thưởng cho tập thơ Tháp
nghiêng. Thật xứng đáng!
Về bài thơ Con chồn người mà Nguyễn Hoài
Nhơn trong bài viết “ĐỌC BÀI THƠ “CON CHỒN NGƯỜI” -ÁC Ý CỦA NGƯỜI THƠ,
HAY CON CHỒN ÁC ?” mang đi đọc khắp nơi, cho rằng: “Ta có thể coi đây là
thứ thơ – phản thơ thì đúng hơn. Xác chữ thì nhiều mà hồn thơ thì mục ruỗng,
khô tong”. Thật ra, bài thơ Con chồn người đã in VNQĐ tháng 7 năm 2012 cùng hai
bài khác nữa. Đây là một tuyên ngôn sống, ý thức công dân của người viết đối
với thứ người lươn lẹo như chồn đang nảy nòi nhan nhản hiện nay: chưa bao
giờ thấy mi làm người/ biết xấu hổ/ biết ăn năn và biết/
kẻ lừa… Bài thơ không có gì là khó hiểu, “ác ý” cả.
Nhà thơ Đỗ Hoàng đã “dịch thơ Hoàng Vũ Thuật sang tiếng
Việt” nhiều bài, bài “Con chồn người” cũng được Nguyễn Hoài Nhơn dịch ra thơ
lục bát truyền thống. Người “dịch” đã hiểu thơ đương đại của Hoàng Vũ Thuật để
dịch ra thơ truyền thống, sao lại bảo thơ ấy không ai hiểu?
Chúng tôi (tôi, Hoàng Vũ Thuật, Hải Kỳ, Mai Văn
Hoan…) cùng quê, cùng một lứa bên trời lận đận với thơ. Rất thân nhau
trong cuộc sống, nhưng thơ viết ra thì mỗi người một khác. Chúng tôi hoàn
toàn trân trọng, cổ vũ những thành công mà bạn mình tạo được.
Nếu làm thơ mà giống nhau thì cả Hội nhà văn Việt Nam
gần 900 hội viên thơ chỉ cần một người làm thơ là đủ. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm
trong một cuộc sinh hoạt thơ ở Huế hơn 20 năm trước đã cho rằng :” Thơ là
phải mới. Chúng ta cứ nệ theo vần luật thì chẳng khác gì viết lời cho một làn
điệu dân ca đã có sẵn”.
Với suy nghĩ như thế, thơ Nguyễn Khoa Điềm ngày càng
mới, ngày càng sâu sắc. Đó là điều tôi muốn gửi đến hai người làm thơ ở Quảng
Bình, anh Nhơn và anh Phong, mong các anh hãy sống đẹp, viết ra cái của mình
cho hay để mọi người tán thưởng, không nên mất thời gian và tâm sức vào sự “căm
hận” vô lối loại thơ đương đại của nhà thơ Hoàng Vũ Thuật và những người khác.
Huế, 10/2012
NGÔ MINH
No comments:
Post a Comment