Trong Khởi Hành số 90, tháng 4 năm 2004, dưới nhan đề “Từ Lĩnh Nam Chích Quái Đến Các Tài Liệu Bị Quân Minh Tịch Thu Đem Về Tàu”, tôi đã viết một bài về việc người Tàu tịch thu sách của ta. Vì bài viết quá ngắn và vì tôi không chỉ rõ các nguồn tài liệu nên sau đó nhiều người thắc mắc.
Trong
số những vị này, có người là độc giả thuần túy, có người là sinh viên cũ của
tôi và cũng có người là học giả có uy tín và rất khả kính. Bác Sĩ Trần Văn Tích
là một trong các học giả uy tín và rất khả kính này. Trần Bác Sĩ đã bỏ công
viết hẳn một bài đăng với nhan đề “Chuyện Người Tàu Lấy Sách Của Ta” trên Khởi
Hành số 92, tháng 6 năm 2004 sau đó và gián tiếp đặt câu hỏi với tôi.
Vốn ngưỡng mộ Bác Sĩ từ lâu nhờ đọc các công trình khảo cứu của ông, đồng thời
lại có dịp gặp ông dù chỉ thoáng qua khi ông tới thăm Quận Cam và Viện Việt học
sau đó nên tôi thấy cần phải viết bài này để được làm quen với ông, đồng thời
giải đáp đôi chút những thắc mắc của các độc giả mà tôi đã nhận được. Gốc gác
của bài viết này là như vậy. Nhưng năm 2004 khác với năm 2012. Năm 2004 hiểm
họa xâm lăng nước ta của người Tàu chưa lộ rõ và chưa thật sự nguy hiểm như
trong năm 2011 và bây giờ là năm 2012. Cập nhật hóa và phổ biến những gì tôi
thấy được cho bạn bè nói riêng và cho tuổi trẻ Việt Nam nói chung là một điều
tôi thấy nên làm mặc dầu tôi vẫn muốn kiếm thêm tài liệu để viết thêm nhiều
nữa.
Phải
nói là chuyện tôi viết bài đăng trên Khởi Hành số 90 kể trên cũng là do
tôi đọc Khởi Hành số 89 y hệt Bác Sĩ Trần Văn Tích viết bài đăng
trên Khởi Hành số 92 vì ông đọc Khởi Hành số 90. Có điều sự thắc
mắc của tôi về chuyện người Tàu tịch thu hết các sách vở của ta đem đốt hết hay
đem về Tàu là có từ lâu. Thắc mắc nhưng đồng thời cũng là một nỗi ấm ức, bực
bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục, đặc biệt là mỗi khi tôi có việc phải tìm hiểu
về hai thời Lý Trần, hai triều đại đã đóng góp rất nhiều cho vinh quang của xứ
sở và của dân tộc mình. Tôi biết nỗi ấm ức, bực bội, đau đớn, xót xa, tủi nhục
của tôi cũng là của chung của cả dân tộc tôi, dù cho là tôi đang làm công
chuyện tìm hiểu và nghiên cứu. Tôi cũng biết tìm hiểu và nghiên cứu là phải có
cái đầu lạnh chừng nào hay chừng ấy, càng lạnh càng tốt, nhất là nghiên cứu về
quá khứ, nhưng dù muốn hay không tôi vẫn là người Việt Nam.
Có
lẽ tôi không theo kịp Trần Quân ở điểm này. Có điều những gì tôi viết ra chỉ là
một gợi ý và gợi ý về những sách vở và tài liệu liên hệ tới nước Đại Việt đương
thời do chính người Đại Việt viết, trong đó có học thuật, tư tưởng, phong tục,
tập quán, sử ký, địa lý và tất nhiên gồm cả văn chương, thi ca..., những gì có
thể giúp cho người thời đó và người sau này tìm hiểu về nước Đại Việt và
dân tộc Đại Việt. Những sách vở, tài liệu này tôi tin là nhiều lắm, nhiều hơn
là những gì ta hiện có, cộng thêm với những gì được liệt kê trong danh sách
những sách đã mất mà các cụ ta sau này còn nhớ được và viết lại trong sử sách
do các cụ viết. Tôi dám tin là như vậy vì đây là cả một kho tàng tổ tiên ta đã
tạo dựng được trong suốt bốn trăm năm thịnh trị nhất của lịch sử dân tộc mình.
Tôi cũng dám tin như vậy vì trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập, sưu tập
thơ của thời Lý-Trần và thời Lê Sơ do Phan Phu Tiên khởi đầu và Chu Xa thực
hiện, Lý Tử Tấn đề tựa. Cả ba đều là người đương thời. Những sụ hiểu biết của
các ông còn rất nóng. Phan Phu Tiên đậu Thái Học Sinh năm 1396 đời Vua Trần
Thuận Tông, Lý Tử Tấn đậu đồng khoa Thái Học Sinh với Nguyễn Trãi, khoa Canh
Thìn (1400) triều Nhà Hồ, còn Chu Xa thì trẻ hơn một chút vì sách được soạn
xong năm 1459 dưới triều Vua Lê Nhân Tông, tiếp nối công trình của Phan Phu
Tiên hoàn thành năm 1433, niên hiệu Thuận Thiên triều Vua Lê Thái Tổ nên những
gì các ông biết về sách vở, thi ca của hai Triều Lý và Trần phong phú đến mực
nào cũng như hành động tịch thu sách của người Việt của Nhà Minh là như thế
nào. Lý Tử Tấn trong bài tựa của Việt Âm Thi Tập cho biết là sau cơn
binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn. Nguyên văn như sau:
“…
Như các vua Triều Trần là Thánh Tông, Nhân Tông, Minh Tông, Nghệ Tông, cùng là
Chu Tiều Ẩn tiên sinh (Chu An), các ông họ Phạm ở Hiệp Thạch (Phạm Sư Mạnh), họ
Lê ở Lương Giang (Lê Quát), Nguyễn Giới Hiên (Nguyễn Trung Ngạn) và anh em ông
Phạm Kính Khê (Phạm Tông Mại, Phạm Ngộ) đdều có tập thơ riêng lưu truyền ở đời.
Về sau, vì binh lửa, số thơ còn lại chỉ được một hai phần nghìn.”
Điều
cần phải để ý là đây mới chỉ là thơ mà thôi.
Sự
thịnh trị này đã được chính Minh Thái Tổ ghi nhận khi ông ban cho sứ thần của
ta bốn chữ Văn Hiến Chi Bang vào năm 1368 và Trần Nguyên Đán (1325 -
1390), cha vợ của Nguyễn Phi Khanh hay ông ngoại của Nguyễn Trãi đã miêu tả qua
câu thơ bất hủ “Triệu tính âu ca lạc thịnh thì” (trăm họ vui ca mừng
thời thịnh trị). Cái gì đã làm cho Đại Việt là một nước văn hiến? cái gì
đã làm cho trăm họ Đại Việt âu ca lạc thịnh thì? Cái gì đã làm cho một
nước nhỏ bằng bàn tay thắng được quân nhà Tống và luôn cả quân Mông Cổ,
điều thượng quốc của người Việt trong nhiều thế kỷ và luôn cả hiện tại, tôi
muốn nói là chính nước khổng lồ Trung Quốc, không làm được? Đó phải là những
câu hỏi mọi người nghiên cứu về thời này phải tìm hiểu để trả lời. Những sách
vở do người Đại Việt đương thời biên soạn hay sáng tác chắc chắn là những nguồn
hiểu biết vô cùng quan trọng về đất nước và con người Đại Việt mà những ai, kể
cả người Tàu đương thời, có nhu cầu tìm hiểu hay chỉ vì vì tò mò, cũng muốn đọc
và lưu giữ. Nếu quả như vậy thì phần nào những sách vở, tài liệu này vẫn chưa
bị mất và vẫn còn nằm đâu đó bên Tàu, dưới hình thức này hay hình thức khác,
nếu kiên trì tìm kiếm và có phương pháp tìm kiếm, người ta vẫn có thể thấy lại
được. Tất nhiên là với tất cả sự dè dặt tối thiểu mà một nhà sưu tầm, khảo cứu
cần phải có.
Ý
được gợi ra nhưng câu trả lời đầu tiên được ghi nhận gần như là không tưởng vì
nếu cứ nhất định căn cứ vào tài liệu của thời đó để lại thì làm gì có chuyện
người Tàu lấy sách của ta đem về Tàu. Minh Thành Tổ trong hai đạo sắc dụ của
ông có hạ lệnh cho tướng lãnh, quân binh của ông đem về Tàu đâu. Câu trả lời
của tôi là căn cứ vào các sách sử của ta. Tôi có thể chưa có dịp đọc hết các
sách vở, tài liệu có thể chứa những chi tiết về chuyện này, nhưng trong Khâm
Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, chính sử của nhà Nguyễn và trước
đó, Lê Quý Đôn (1726 - 1784) trong Lê Triều Thông Sử đã viết rất rõ điều
này.
Trước
hết, trong Lê Triều Thông Sử, phần “Nghệ Văn Chí,” Lê Quý Đôn có viết: ”Đến
đời Nhuận Hồ mất nước, tướng nhà Minh là Trương Phụ lấy hết sách vở cổ kim của
ta gửi theo đường sông về Kim Lăng.” Còn trong KĐVSTGCM, phần Chính
Biên, quyển XXXIII, sau phần nói về việc vua nhà Minh cho in các sách Tứ
Thư, Ngũ Kinh và Tính Lý Đại Toàn và sai Giám Sinh Đường Nghỉa sang nước ta
ban phát cho những người Nho học có chép thêm”Còn các sự tích và sử sách của
nước ta từ đời Trần trở về trước đều tịch thu đưa về Kim Lăng.”
Gần
ta hơn, Trần Quốc Vượng, giáo sư sử học thuộc Viện Đại Học Quốc Gia Hà Nội,
trong tuyển tập nhan đề Văn Hóa Việt Nam, Tìm Tòi và Suy Gẫm cũng
viết ”Cướp được nước ta, trong 20 năm trời bên nền đô hộ hà khắc về
chính trị, vơ vét tham tàn về kinh tế, giặc Minh đã thi hành một chính sách hủy
diệt độc ác về văn hóa, giặc Minh đã quyết tâm đập cho tan nát những cơ cấu văn
hóa dân tộc xây dựng suốt hơn 400 năm, chủ yếu dưới thời Lý - Trần. Vua Minh đã
trực tiếp ra mật lệnh cho bọn tướng xâm lăng khi tiến quân vào nước ta, thấy
bất cứ cuốn sách vở nào, gặp bất cứ tấm bia đá nào đều phải thiêu hủy, đập phá
hết. Tên tướng Trương Phụ lượm lặt hết các sách vở cổ kim của ta, đóng thùng
chở về Kim Lăng. Tháng 7 năm Mậu Tuất (1418 ), nhà Minh còn sai tiến sĩ Hạ Thì
và hành nhân Hạ Thanh sang tìm tòi và thu lượm tất cả những sách chép về lịch
sử và sự tích xưa nay do người Việt viết. Năm 1419, nhà Minh lại cho người đem
sách Khổng giáo, Đạo và Phật giáo của Trung Quốc sang thay thế cho những sách
trước kia chúng lấy đi. Chính sách hủy diệt văn hóa thâm độc đó đã phá hoại gia
tài văn hóa, tinh thần của dân tộc ta không phải là ít. Nếu không, cái gia tài
văn hóa, văn học tư tưởng thời Lý Trần để lại sẽ phong phú biết chừng nào!”
Tất
nhiên các nhà nghiên cứu thận trọng vẫn có thể nói rằng những ghi chú kể trên
đều là bởi những người của nhiều thế kỷ sau này viết nên vẫn chưa đủ thuyết
phục, và ta vẫn cần phải có thêm bằng chứng. Thực sự thì ta không biết Lê Quý
Đôn rồi sau này các nhà san định bộ KĐVSTGCM đã căn cứ vào đâu để ghi
chép như trên. Có thể các vị này đã căn cứ vào Lê Quý Đôn còn Lê Quý Đôn thì
căn cứ vào những gì ông đọc được và nghe được từ những người của thời trước
ông. Chúng ta cần ghi nhớ là Lê Quý Đôn là người chịu khó tìm tòi, học hỏi. Ông
đã đọc rất nhiều và rất rộng và ghi chép rất cẩn thận. Còn Trần Quốc Vượng thì
đã không nêu rõ các nguồn sử liệu ông đã dùng. Nhưng sử gia này cũng là người
làm việc rất tỉ mỉ và có phương pháp nên chắc chắn đã không đưa ra những ghi
nhận về sự kiện kể trên một cách hồ đồ vô căn cứ. Dù sao, một khi nghi vấn đã
được đưa ra, ta vẫn cần phải truy tầm vừa bằng tài liệu nếu có và vừa bằng suy
luận cặn kẽ chừng nào hay chừng nấy.
Trước
hết ta hãy đọc lại những phần chính liên hệ tới vấn đề sách vở của người Việt
trong ba sắc chỉ của Minh Thành Tổ được ghi trong Việt Kiệu Thư, được
dịch và in lại trong Thơ Văn Lý Trần,công trình được thực hiện bởi những
nhà nghiên cứu có uy tín và đáng tin cậy của Việt Nam trong thế kỷ trước, để
thấy lại phần nào chi tiết liên hệ, nhất là sắc chỉ thứ hai, ban hành vào ngày
16 tháng 6 năm 1407, theo đó thì vị hoàng đế này đã nhiều lần bảo các tướng sĩ
của ông ta là phải hủy diệt lập tức những sách vở của người Việt này, nhưng các
tướng lãnh của ông đã không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt.
Còn quân lính thì phần đông không biết chữ...thì khi “đài tải” sẽ bị mất mát
nhiều.
Tại
sao lại “đài tải”? Tại sao lại lo mất mát nhiều?
Đến
sắc chỉ thứ ba ban hành ngày 24 tháng 6 năm 1407, Minh Thành Tổ lại ra lệnh cho
các tướng lãnh của ông phải cấp tốc thu hồi những văn kiện ông ban hành từ
trước: “Nay An-nam đã bình định xong [...] trừ các loại chế dụ ra, còn thì
tất cả các đạo sắc viết tay và các ký sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước,
cùng với sổ ghi chép mà Thành Quốc Công đã lĩnh hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị
mọi chuyện, đều phải đem toàn số kiểm kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi
trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu có một chữ bỏ lại rơi vào tay bọn kia
thì rất bất tiện.” thì người ta thấy sự kiện đã quá rõ rệt là lệnh
của vua Nhà Minh đã không được triệt để thi hành và các sách vở quân Minh
thu được đã không bị đốt bỏ hết.
Một
số khác trên đường đài tải đã bị mất mát rất nhiều. Ngoài ra, ngoài ba
dụ chỉ hiện được người ta biết tới, chắc chắn còn nhiều văn kiện mật khác hoặc
đã được niêm phong gửi lại triều đình Kim Lăng, hoặc đã bị hủy bỏ trong thời
điểm này. Chúng chứa đựng những gì hiện tại chúng ta chưa biết được. Do đó nếu
chúng ta chỉ căn cứ vào sắc chỉ thứ nhất (được nói tới trong Thơ Văn Lý-Trần),
ban hành ngày 21 tháng 8 năm 1406, cho Chu Năng kể trên, mà bảo rằng không hề
có chuyện người Minh đem sách vở của ta về Tàu, tôi e rằng quá vội vã. Chúng ta
chỉ có thể biết rõ hơn chừng nào kiếm ra được những tài liệu mật này. Đây gần
như là một việc mò kim đáy biển. Tuy nhiên còn có những lý do khác khiến ta có
thể viện dẫn được.
Thứ
nhất là tính tò mò của các tướng sĩ nhà Minh, một tính tự nhiên và phổ quát của
con người mà họ không tránh được, đặc biệt ở những người có học khi họ kiếm
được những sách nói về những điều họ đã học, ở đây tôi muốn nói tới các sách về
Tam Giáo đặc biệt là sách của Hồ Quý Ly và của Chu Văn An, chưa kể tới hoàn
cảnh họ phải sống xa nhà. Thứ hai là các nhu cầu quân sự, hành chánh và bình
định. Các tướng sĩ trong ban tham mưu của Chu Năng và sau này của Trương Phụ và
các nhà hành chánh sau này nữa chắc chắn phải thu thập bất cứ tài liệu gì họ
thu thập được, phân tích nghiên cứu chúng một cách tỉ mỉ để hiểu rõ kẻ địch của
họ và của dân bản địa mà họ phải bình định và cai trị. Nghiên cứu rồi sau đó
đem theo mình và giữ lại làm của riêng là một việc làm tự nhiên của họ; còn
triều đình nhà Minh thì ở xa, làm sao có thể theo dõi chặt chẽ được.
Câu
hỏi kế tiếp người ta có thể nêu lên là cho đến những ngày hiện tại đã có tác
phẩm nào của người Việt sau nhiều thế kỷ luân lạc đã được người ta khám phá ra
dưới hình thức này hay hình thức khác chưa? Câu trả lời là có. Đó
là Việt Sử Lược và Thiền Uyển Tập Anh. Hai cuốn sách này xuất
hiện từ thời nhà Trần và đã được người sau chép hay viết lại. Việt Sử Lược
đã bị thất truyền rất lâu, mãi đến thời Càn Long nhà Thanh (1736 - 1795) mới
được đem in, nói là theo bản của tuần phủ Sơn Đông thu nhặt được đem dâng lên
vua với người hiệu đính là Tiền Hi Tộ, người Giang Tô, người đã san định bộ Thủ
Sơn Các Tùng Thư. Việt Sử Lược được lưu trữ ở Thủ Sơn Các Tùng
Thư và ở Khâm Định Tứ Khố Toàn Thư của nhà Thanh và đã được
nhiều nhà xuất bản Trung Quốc ấn hành. Giáo Sư Trần Quốc Vượng đã phiên dịch
sang Việt ngữ, giới thiệu và chú giải. Trong bản dịch này Trần Quốc Vượng có
nói tới Thiền Uyển Tập Anh khi ông bàn về việc các người họ Lý bị đổi
thành họ Trần, nhưng đến Lê Mạnh Thát thì sau khi đối chiếu nội dung của Thiền
Uyển Tập Anh với An Nam Chí Nguyên, nhà học giả Phật giáo uyên thâm
này đã khẳng định là: “Khi quân Minh đánh chiếm được nước ta vào năm 1407,
Thiền Uyển Tập Anh đã bị chúng thu gom và sau này được dùng một phần để viết An
nam chí nguyên.”
Trên
đây là những gì tôi ghi tạm để cấp thời chia sẻ với mọi người, đặc biệt là giới
trẻ khi hiển họa mất nước của dân tộc ta trước những mưu toan vừa công khai vừa
tiệm tiến và vô cùng thâm độc của người Tàu đang diễn ra ở cả ngoài biển đảo
lẫn trên đất liền, ở dọc biên giới với những khu rừng đầu nguồn, trên cao
nguyên cũng như dưới đồng bằng dọc theo bờ biển từ Móng Cái đến Cà Mau, đối với
đất đai cũng như đối với con nguời. Tất cả đã trở thành một một mối ưu tư và
một đề tài vô cùng nóng hổi cho những ai còn lưu tâm tới tiền đồ của tổ quốc và
tương lai của con cháu mình cũng như trách nhiệm của mình đối với tổ
tiên, đồng bào và hàng triệu chiến sĩ ở cả hai bên đã hy sinh trong cuộc chiến
kéo dài ba mươi năm vừa qua nhân danh bảo vệ đất nước . Bài viết, do đó, chắc
chắn còn nhiều thiếu sót và sơ hở. Tôi sẽ xin bổ túc khi có dịp. Riêng về giá
trị văn chương của thi phú của ta thì tôi không dám lạm bàn vì sự hiểu biết và
khả năng của tôi về khía cạnh này không đủ. Nếu tôi có đọc các tác phẩm thuộc
loại này thì chỉ là để tìm hiểu về các thời kỳ hay các nhân vật liên hệ tới
lịch sử.
Tuy
nhiên nếu người Tàu có làm chuyện hủy diệt hay chép lại hay viết lại sách hay
đạo văn của ta khi họ xâm lăng nước ta vào đầu thế kỷ XV thì họ chỉ nhằm triệt
tiêu khả năng tinh thần, lòng tin tưởng và hãnh diện của dân tộc ta để phòng
ngừa hậu họa, không phải chỉ ở thời điểm xâm lăng hay đô hộ mà vĩnh viễn sau
này nữa. Đây là một chính sách vô cùng tàn độc nếu ta dùng tữ ngữ chung của
nhiều người khi nói tới hay viết về giai đoạn lich sử này của dân tộc và của
đất nước ta. Một chính sách không phải chỉ phát xuất từ tham vọng Đại Hán mà
còn có thể được coi như phản ảnh của một mặc cảm, một sự sợ hãi lo âu trước sự
thành công không thể ngờ được của Đại Việt trước sự thất bại của Thiên Triều
Trung Quốc, một chính sách và một hành vi nếu được thực hiện vào thời điểm cuối
thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI hiện tại, quốc gia chủ trương sẽ phải chính thức và
long trọng xin lỗi.
Có
điều người ta cần phải ghi nhớ là người Tàu luôn luôn kiêu căng, tự coi nước
mình là một nước lớn là duy nhất văn minh, chung quanh họ đều là man di mọi rợ,
Việt Nam hay Đại Việt đi chăng nữa cũng chỉ là man, Nam Man, nằm ngoài rìa của
Hoa Hạ, của Trung Hoa thời Dân Quốc, của Trung Quốc thời Cộng Sản hiện
tại...Những chiến thắng của người Việt trong các thời Lý Trần, đặc biệt là
chiến thắng chống quân Mông Cổ trong khi người Tàu thực hiện không nổi là những
gì họ không chấp nhận được. Còn nếu vị Hoàng Đế sáng lập nên Triều Đại Nhà Minh
là Minh Thái Tổ ban cho sứ Đại Việt bốn chữ Văn Hiến Chi Bang,
vô tình ông đã khai tử cả một nền văn hóa riêng của Đại Việt mà đao phủ là hậu
duệ của ông, Minh Thành Tổ. Là người sáng lập nên một triều đại mới, Minh Thái
Tổ có thể có một cái nhìn rộng rãi bao dung nhưng những người kế vị ông coi đó
là một sự xúc phạm đến thiên triều khi chính tình của nhà Minh đã ổn định. Cuối
cùng ta cũng không nên quên là kiêu căng nhưng người Tàu vẫn luôn mở cửa để thu
góp chất xám từ các xứ chung quanh bằng cách đòi hỏi các xứ này phải cống những
người tài giỏi khi các nước này còn độc lập hoặc ruồng bắt những người
này khi các nước họ bị xâm lăng hay đô hộ đem về Trung Quốc.
Điều
này đã xảy ra trong thời quân Minh xâm lăng nước ta khi vua Minh hạ lệnh cho
Trương Phụ và các tướng tá của ông này “tìm tòi dò hỏi những người ẩn dật ở
núi rừng, có tài, có đức, thông suốt năm kinh, văn hay, học rộng, thạo việc, am
hiểu thư toán, nói năng hoạt bát, hiếu đễ, chăm làm ruộng, tướng mạo khôi ngô,
gân sức cứng rắn, cùng những người hiểu biết nghề cầu cúng, làm thuốc, xem bói,
dều đưa sang Kim Lăng, sẽ trao cho quan chức, rồi cho về trấn trị các phủ, châu
huyện”. Lệnh này phải được hiểu là nhằm thâu góp nhân tài của Đại Việt để
phục vụ cho thiên triều ở Trung Quốc hơn là để sau này cho về phục vụ trong
ngành hành chánh ở Đại Việt vì nếu cho họ phục vụ ngay tại Đại Việt, cần gì
phải đưa họ về Kim Lăng, đường xá vừa xa xôi, vừa tốn kém, vừa nguy hiểm. Đưa
về phục vụ ở Đại Việt chỉ là miếng mồi không hơn, không kém, giữ họ lại Trung
Quốc để khai thác mới là chính. Một trường hợp điển hình cho chính sách tom góp
và thu dụng nhân tài của nhà Minh đương thời là trường hợp của Hồ Nguyên Trừng,
con trưởng của Hồ Quý Ly. Bị bắt đưa về Tàu nhưng Nguyên Trừng đã không bị ghép
tội và bị xử cực hình vì ông đã bằng lòng đem tài riêng của mình, tài chế súng
thần cơ, và sự hiểu biết của mình về tình hình Đại Việt ra giúp cho nhà Minh
hay cung cấp cho nhà Minh những chỉ dẫn cần thiết để diệt nhà Hậu Trần, trái
lại, ông đã được trọng dụng, làm quan đến chức á khanh, công bộ tả thị lang và
đã được pháo binh Trung Quốc thời đó kính trọng và sau này tế như là thánh tổ
của họ.
Nói
cách khác, người Tàu luôn luôn có chính sách thu góp mọi thứ ở chung quanh về
làm giàu cho xứ họ. Đối với họ, nước họ phải là nhất, các nước chung quanh
không được phép hơn họ. Do đó cái gì có giá trị họ thu góp hết, trong đó có sự
hiểu biết, có sách vở, có các sản phẩm nghệ thuật, có văn chương, thơ phú...
Thu góp và để nguyên như vậy hay sửa đổi đi nhưng tất cả đều phải trở thành di
sản văn hóa riêng của họ, điều sau này họ tiếp tục làm, người Nhật cũng làm và
người Mỹ, người Anh, người Pháp cũng làm; nhưng ở không thời nào, không người
nào có mưu toan thâm độc và tàn bạo như người Tàu dưới thời nhà Minh xâm lăng
Đại Việt. Hậu quả là từ sau thời Minh thuộc, người Việt không bao giờ có được
những vinh quang đáng nể đối với người ngoài, đáng hãnh diện cho chính mình như
thời trước đó nữa./.
Kỷ
niệm Ngày Giỗ Trận Đống Đa năm Nhâm Thìn 2012
PHẠM CAO DƯƠNG
Tập
san Định Hướng
No comments:
Post a Comment