Những thế hệ cầm bút mới bước vào văn đàn vài chục năm nay có thể thậm chí không có ý niệm gì về tờ báo này, hoặc thậm chí đã bị sang tai những lời giải thích nào đó ít nhiều bóp méo hình ảnh thật của nó. Tuần báo “Văn”, được xuất bản tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, từ ngày 10/5/1957, hơn một tháng sau hội nghị thành lập Hội nhà văn Việt Nam; chủ nhiệm báo là Nguyễn Công Hoan (1903-1977), chủ tịch đầu tiên của Hội; thư ký tòa soạn là Nguyên Hồng (1918-1982), ủy viên thường vụ Ban chấp hành Hội.
Có thể nói, tuần báo “Văn” đã hoạt động trong sự phấp phỏng của giới cầm bút khi đó đang sống và viết ở miền Bắc vĩ tuyến 17, là vì từ cuối năm 1956 đến Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai họp ở Hà Nội hồi đầu năm 1957, những gì liên can đến báo “Nhân văn” và các cuốn “Giai phẩm” trong năm 1956 đã bị giới lãnh đạo lên án rất quyết liệt và nặng nề, nhưng từng cá nhân những người cầm bút dính líu đến các hoạt động ấy thì vẫn còn tạm thời chưa bị xử lý, vẫn còn tạm thời được sống và viết giữa những người cầm bút khác. Người ta phấp phỏng về một động thái gì đó giống như giọt nước tràn ly, sẽ gây tai biến, đổ vỡ.
Và rồi điều không mong muốn ấy đã đến. Chỉ 2 tháng sau, trên tạp chí “Học tập” của Trung ương Đảng (tháng 7/1957) đã có bài phê phán tuần báo “Văn”, cho rằng những sáng tác đăng trên tờ tuần báo này không thể hiện được “con người thời đại” (!) và nêu tên phê phán một loạt tác phẩm đã đăng trên 10 số đầu, từ các bút ký như Phở (Nguyễn Tuân), Xiếc khỉ (Quang Dũng), các truyện ngắn Nhật ký người mẹ (Lê Minh), Bóng tối (Nguyễn Châu Viên), Căn nhà hạnh phúc (Nguyễn Hồng Điện), Bích-xu-ra (Thụy An), đến các bài thơ: Gió (Xuân Diệu), Yêu nhau (Lê Đạt), … “Tờ báo “Văn” hầu như xa rời thực tế, xa rời cuộc sống, tách rời những nhiệm vụ trung tâm của cách mạng”! – Những lời phê bình nặng nề và quá đáng này khiến cho cả những nhà văn đang làm việc tại tòa soạn lẫn những cây bút cộng tác với tuần báo “Văn” đều cảm thấy bất bình. Lên tiếng đầu tiên là thư ký tòa soạn Nguyên Hồng: ông không thể chịu đựng nổi kiểu phê bình đao to búa lớn, in đậm tác phong quan liêu, trịch thượng, mà nội dung phê bình lại hoàn toàn bộc lộ một tư duy giáo điều, công thức, sơ lược! Nguyên Hồng và không ít nhà văn khác, đã không hiểu được rằng đấy chỉ là cái bẫy đã gài sẵn. Lập tức tạp chí “Học tập” (tháng 8/1957) đáp lại, tiếp tục quyết đoán rằng tuần báo “Văn” đã “đi trệch đường lối”, và cảnh cáo “thái độ của một số cán bộ đảng viên phụ trách văn nghệ phạm khuyết điểm sai lầm được báo chí Đảng giúp đỡ phát hiện khuyết điểm sai lầm mà không chịu khiêm tốn kiểm điểm và thành tâm sửa chữa, trái lại, lại đả kích và mạt sát báo chí Đảng”! Giới nhà văn đứng sau tuần báo “Văn” cố nhiên không thể giữ được cái đầu lạnh, họ tiếp tục phản ứng, trong đó có tiếng nói của cả những người từng trải như Nguyễn Tuân (khi đó vẫn là một trong 8 phó chủ tịch Hội liên hiệp văn học nghệ thuật VN), lẫn của những cây bút khi đó vừa bước vào nghề như nữ nhà văn Lê Minh; cũng có đôi người như Nguyễn Văn Bổng tán đồng với phía phê phán, nhưng số người đồng tình với thái độ Nguyên Hồng vẫn nhiều hơn, trong số này có cả Nguyễn Tuân, thậm chí cả Nguyễn Đình Thi, khi đó là tổng thư ký Hội liên hiệp văn học nghệ thuật VN.
Sự kiện mà sau đó Bộ chính trị trung ương Đảng gọi là “cuộc tranh luận giữa tạp chí “Học tập” và tuần báo “Văn” (nghị quyết số 30 ngày 06/01/1958 do Nguyễn Duy Trinh ký), rốt cuộc đã bị xử ép một bề: tuần báo “Văn” bị xử thua, bị đóng cửa sau số 37 (ngày 17/01/1958), mặc dù nội dung số Tết 1958 đã được chuẩn bị và đưa tin chi tiết trên một vài tờ báo hàng ngày ở Hà Nội. Vả chăng, việc quy tội cho tuần báo “Văn” cũng chỉ là cái cớ để người ta ra tay trừng phạt những nhà văn nhà báo đã từng liên can ít nhiều đến báo “Nhân văn” và các cuốn “Giai phẩm”, kết cục là có gần một chục người bị án tù với tổng cộng trên 50 năm tù giam và hàng chục năm bị quản chế; vài người bị buộc ra khỏi Ban chấp hành Hội, ba người bị khai trừ hội tịch vĩnh viễn, một số khá đông bị cảnh cáo; tất cả họ đều bị treo bút vài ba năm song trên thực tế thời gian cấm đăng tải bị kéo dài dường như vô hạn nếu không có thời đổi mới (1986-88).
Đến 25/05/1958, cũng tại 51 Trần Hưng Đạo, Hà Nội, báo “Văn học” ra đời với khẩu hiệu “Vì tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội” gắn cùng tên báo. Đây cũng là tờ báo của Hội nhà văn VN, do Nguyễn Đình Thi là thư ký tòa soạn, nhưng ngay từ đầu “Văn học” đã nói rõ nó không phải là sự tiếp tục tuần báo “Văn”; trái lại, chính báo “Văn học” ngay tại số đầu này, đã tuyên bố chối bỏ tờ báo đi trước, hơn thế, còn cao giọng kết án tuần báo“Văn” trước đây “đã bị tư tưởng Nhân văn lũng đoạn”, “đã đăng một số bài lệch lạc, chịu ảnh hưởng những tư tưởng thù địch hoặc đề cao chủ nghĩa cá nhân suy đồi, rơi vào những quan điểm của chủ nghĩa xét lại trong văn nghệ”, “những trang báo“Văn” đã bị hoen ố vì những bài của nhóm “Nhân văn”,… “dùng mọi cách xảo trá để gieo rắc nọc độc phản lại tổ quốc, phản lại nhân dân, chống lại chủ nghĩa xã hội, chống chế độ và chống Đảng”…. Thái độ chối bỏ này, đặt vào thời điểm 1958 ở miền Bắc, cũng là điều dễ hiểu.
Từ đó trở đi, ký ức về tuần báo “Văn” phai mờ dần trong giới cầm bút; tệ hơn thế, mỗi khi được nhắc lại bởi một số quan chức văn nghệ hoặc nhà phê bình, tờ tuần báo đầu lòng kia của Hội nhà văn VN lại hằn lên vì những lời nguyền rủa, xem nó như một vết đen đáng xấu hổ của giới cầm bút trong buổi đầu tập hợp nhau thành một Hội!
Đã hơn nửa thế kỷ trôi qua. Nhiều điều tưởng đã là khuôn thước bất di bất dịch của một thời sáng thế mới, rốt cuộc đã không chịu đựng nổi thử thách của thời gian và sự thật. Những gì mà người ta từng phát ngôn như thể lời tuyên cáo đanh thép đối với các sáng tác thơ, luận, truyện, … trên một tờ tuần báo văn chương hiền lành thuở nào, giờ đây nếu ai có dịp đọc lại, sẽ thấy nó cứng quèo, khô xác và nực cười như lời của những vai hề; các tác giả của những phát ngôn ấy, nếu còn sống, chắc phải lấy làm ngượng, và nếu có lương thức lương tâm, họ sẽ phải ân hận khôn cùng.
Tuy thế, vẫn chưa có sự minh giải chính thức nào xung quanh những thiết án khi xưa đối với tuần báo “Văn”, – cái thực thể chỉ tồn tại trên giấy nhưng gói trong nó những kết quả sáng tạo tinh thần của rất nhiều người viết. Những người chịu trách nhiệm chính của tuần báo “Văn” là Nguyễn Công Hoan và Nguyên Hồng, đều đã được truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (1996). Trong số những người từng đăng bài trên tuần báo đó, khá nhiều người cũng đã được trao giải thưởng Hồ Chí Minh hoặc giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Các cá nhân cầm bút đã được vinh danh. Chỉ có tuần báo “Văn” thuở nào là vẫn chưa được trả lại danh dự.
Đây không phải bài nghiên cứu để có thể đề cập chi tiết. Vượt qua những sự lên án đã tỏ ra là sai trái khi xưa, có thể nói tuần báo “Văn” tuy chỉ tồn tại trong 8 tháng, nhưng cũng đã chuyển tải được một phần đời sống văn nghệ đương thời trên miền Bắc hồi ấy. Đặt trong cái vòng kim cô kiểm soát văn hóa tư tưởng thuở ấy đang siết chặt dần, tuần báo“Văn” chẳng thua kém gì so với các tờ “Văn học”, “Văn nghệ” về sau. Tất nhiên đây là tờ tuần báo của những nhà văn nhà báo ở đầu thời đang bước vào văn chương minh họa nên nó mới chỉ làm tròn bổn phận này ở các bài mục “đánh địch” tức châm biếm, đả kích; còn lại, ở các phương diện khác, những người sáng tác vẫn chưa quên những chuẩn mực văn chương nhân bản thông thường, tuy rằng viết ra được tác phẩm hay bao giờ cũng là việc khó nhất. Trong số những tác phẩm đăng lần đầu ở đây, được nhắc nhở sau này là các tác phẩm như thơ: Hãy đi mãi (Trần Dần), Lời mẹ dặn (Phùng Quán), Bão (Tế Hanh), văn: Đống máy (Minh Hoàng), Ông Năm Chuột (Phan Khôi), Tiếng bạc cuối cùng (Hồ Dzếnh), là truyện dịch Phòng số 6 của Chékhov, là các tiểu luận Nguyễn Tuân về văn Thạch Lam, kịch Vi Huyền Đắc, hoặc, một số tranh trào lộng về tệ quan liêu của Trần Duy, v.v…
Tôi không nói tuần báo “Văn” (1957-1958) là tuyệt vời, tôi thấy chất lượng văn chương và báo chí của nó là thường thường bậc trung; đặt trong lịch sử loại báo chí văn chương ở Việt Nam từ xưa tới nay, nó không thể so sánh được với vai trò của rất nhiều tờ báo khác mà ở đây tạm không nên nhắc tên. Nhân nhớ tới lịch sử 55 năm thành lập Hội nhà văn Việt Nam, tôi chỉ nghĩ đến tuần báo “Văn” (1957-1958) như một cơ quan đầu lòng của riêng Hội này, cái cơ quan chỉ tồn tại được 8 tháng, và tuy đã đóng vai trò tấm gương soi đời sống văn học, đời sống của Hội nhà văn Việt Nam những tháng ngày ấy, nhưng ký ức về nó vẫn là một ký ức bị làm nhục, bị nguyền rủa. Vậy mà với thời gian, những gì in lên diện tích các trang của 37 số báo “Văn” (1957-1958) lại tự chứng tỏ nó đáng được nhớ tới với sự tôn trọng, với sự trân trọng.
Thiết nghĩ, nếu lịch sử Hội nhà văn Việt Nam vẫn được tính từ đầu tháng 4/1957 thì giai đoạn Hội có tuần báo “Văn” (1957-1958) không thể bị loại trừ! Trong dịp kỷ niệm 55 thành lập Hội, thiết nghĩ nên có một vài nghi thức cần thiết để trả lại danh dự cho tờ tuần báo “Văn” (1957-1958). Những người cầm bút đứng trong Hội hôm nay nên biết đến toàn bộ các giai đoạn lịch sử Hội mình từng trải qua.
LẠI NGUYÊN ÂN
No comments:
Post a Comment