Một sớm vắng
ùa lên khói bếp
về đây củi lửa ngày xưa...
(Dương
Kiều Minh)
Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống, tên bài thơ
thứ 240, xếp cuối cùng trong tập thơ Thơ Dương Kiều Minh (NXB Hội nhà
văn, 2011)
như tạm khép lại những giấc mơ lạ kỳ và tuyệt đẹp của chính nhà thơ.
Giấc mơ ấy đã nhiều lần đậu xuống, đánh dấu quá trình vận động, cách tân và những
cảm thức lạ lẫm của ông. Chỉ vừa xướng tên các tập thơ của nhà thơ Dương Kiều
Minh, tôi như
nghe rõ tiếng cửa mở vào những không gian mới lạ, tinh khôi: Củi lửa
- Dâng
mẹ - Những thời đại thanh xuân - Ngày xuống núi - Tựa cửa - Tôi ngắm mãi
những ngày thu tận - Khúc chuyển mùa - Thơ Dương Kiều Minh(1)…
Thơ Dương Kiều Minh là một giọng điệu riêng biệt trong dòng chảy thơ
cách tân sau
1975…
***
Củi lửa, tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh
(NXB Tác phẩm mới, 1989) đã cháy và nổ, sức nóng phả lên đời
sống văn học thời điểm này đang khá lạnh lẽo. Đó là tiếng nói biệt lập, run rẩy
với nhiều tầng cảm xúc phức hợp, và, như chiếc đầu máy mới xuất xưởng có công suất
lớn, Củi lửa đủ sức kéo theo những toa tầu chở nặng, và còn nối theo
nhiều toa bất tận...
Tập thơ đầu tay thường đánh dấu điểm mốc quan trọng
trong sự nghiệp sáng tác của những thi tài, hiển lộ hương sắc, và, cả hạn chế
của người viết, mà sau đó, dù nhà thơ ấy có rẽ sang nhiều ngả khác, thì khả
năng sáng tạo thường được tiên báo trong những trang viết đầu đời. Điêu tàn
của Chế Lan Viên, Lửa thiêng của Huy Cận, Thơ thơ của Xuân Diệu; một số
nhà thơ nước ngoài, như Adonis (Syria) với tập thơ Những bài thơ
đầu, 1957; Pablo Neruda (Chile) với tập thơ Hai mươi bài thơ tình và một bài
thơ tuyệt vọng, hoàn thành lúc ông chưa đầy hai mươi tuổi v.v... là những
ví dụ tiêu biểu.
Củi lửa của nhà thơ Dương Kiều Minh là một ví dụ
khác, là cánh cửa rộng, đột mở, đưa bạn đọc vào một ngày
mới ngập tràn ánh sáng, với nhiều ý tưởng bất ngờ, tươi ròng cảm xúc và trong
sáng đến nghẹn thở. Tập thơ được viết bằng thi pháp mới, chắc tay, được chuẩn
bị kỹ lưỡng, đặc biệt hơn, ở đó không có thái độ ngập ngừng, lưỡng lự - như một số tác
giả cùng thế hệ còn ảnh hưởng những quan niệm của thi ca truyền thống - mà
quyết liệt, đầy tự tin…
Không gian thơ của Dương Kiều Minh bao giờ cũng là một không
gian riêng, vì ngay trong nhiều hình ảnh quen thuộc như ô
ban công, chùm mùng tơi, bông cúc, rèm cửa, cô gái mù, tiếng lá, bóng đêm, heo
may, dòng sông, chiếc giày, mầm cây… cũng để lại những vệt vân tay và
hơi thở nóng hổi của một Dương Kiều Minh đầy sáng tạo. Về tập thơ
này, nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều đã chia sẻ sự đồng cảm của mình một cách
chính xác và tinh tế: Khi đọc tập thơ đầu tay của Dương Kiều Minh, tập Củi
lửa, tôi thấy thi đàn Việt Nam lúc ấy xuất hiện một giọng
nói riêng biệt. Giọng nói ấy tách biệt khỏi rất nhiều những giọng nói khác đầy
tính lệ thuộc. Giọng nói ấy vang lên trong sáng và quyến rũ, nhưng đầy
cô đơn. Tập thơ Củi lửa của Dương Kiều Minh đã tạo một dấu
ấn quan trọng, trước tiên là với chính nhà thơ trong hành trình xác lập những
giá trị của lối viết khác. Tôi từng đọc Củi lửa nhiều lần,
trong nhiều tâm trạng khác nhau, và luôn bắt gặp ở đó sự thơ ngây mê đắm của
nhà thơ trước sự khởi sinh, tái tạo của thế giới. Thiên nhiên và con người hiện
lên huyền ảo và trong suốt, còn thi sĩ, đang ngơ ngác trở về thuở bé dại, ngỡ
ngàng nhìn muôn loài muôn vật với tràn trề xúc cảm. Ngỡ vừa qua giấc mơ
hoang dại/ cậu bé tìm lại đồng xu đánh mất ngày xưa/ đáy bể ngâm trong vắt/ ồ một vầng
trăng vừa được vớt lên (Cám dỗ).
Nổi trội trong Củi lửa là sự tinh tế và huyền
nhiệm. Đây cũng chính là vị riêng của thi sĩ. Trong những tập thơ về sau, mạch
thơ Dương Kiều Minh vạm vỡ, bung phá theo nhiều hướng khác nhau, nhưng luôn
giữ được nét tế vi trong kiến tạo hình ảnh và tiết chế cảm xúc ở mức cần thiết.
Đoạn thơ trích từ bài thơ Trong mưa là một minh
họa cho sự mẫn cảm trước thế giới thơ tinh khiết, trong lành: Trong mưa có một ngôi
đền/ và mưa từng ngón buông mềm mái tây/ và mưa từng ngón ngón gày/ len len run
rẩy bàn tay gượng gàng (Trong mưa). Nhà thơ, như một điêu
khắc gia tài hoa tạo hình chính xác từng chi tiết kỳ ảo và sống động: Mặt
trời lung linh khu vườn mẹ/ Bức tường ánh sáng.../ Điều gì dào lên trong những
hạt li ti. (Hy vọng). Và kìa, đó là những ban mai vừa lộng lẫy tái sinh;
kìa những đồng cỏ đầm sương chợt hiển hiện như trong cổ tích: Đâu phải nữa con búp bê
bằng cỏ/ Con đường hoa vối rụng đầy/ Ban mai đổ về xa vắng/ đồng cỏ đầm sương
lóa ướt dưới trời. (Bản giao hưởng đồng quê). Sống và viết, nhà thơ Dương
Kiều Minh chọn cho mình một góc khuất im lặng. Ông quan sát, ghi chép
và chậm rãi kể những câu chuyện đời theo ngôn ngữ của riêng mình: chiếc ô
tô, ngôi nhà, ô cửa hoa loa kèn được đặt trong một khung
cảnh tạo nên hình ảnh phố đêm dịu dàng: Chiếc ô tô màu xanh lá cây/ những
ngôi nhà màu xanh lá cây/ ô cửa chớp bình hoa loa kèn đỏ (Thành phố buổi
đêm).
Bài thơ Củi lửa, chủ điểm của toàn tập, như một chớp
mắt để thức giấc bàng hoàng. Mở ra những hình ảnh gần gũi, ấm nóng như ta vừa
được ôm ấp, được chạm tay vào. Và giữa tầng tầng hình ảnh, lớp lớp câu thơ là
khoảng trống, một đặc sắc trong thi pháp thơ Dương Kiều
Minh: lăng lắc tuổi xuân/ lăng lắc niềm thôn dã/ bếp lửa ngày đông...
Những hình ảnh tuổi xuân, thôn dã, bếp lửa ngày đông đứng cạnh
nhau tưởng
như rời rạc, phân rã, nhưng chúng được kết dính, đan bện lại trong một trường
cảm xúc mạnh mẽ và nhất quán. Bạn đọc sẽ cảm thấy được ánh sáng thanh khiết, ấm
nóng tỏa ra từ chính những khoảng trống đó. Đọc thơ Dương Kiều Minh, ta ngỡ như ai đó
liệng viên sỏi xuống hồ yên tĩnh làm các vòng tròn đồng tâm trên mặt nước cứ
lan đi mãi.
Như hình ảnh Bên những hoàng hôn loang lổ gò đồi/ mùi lá bạch đàn
xộc vào giấc ngủ/ con về yêu mái rạ cuộc đời chính là sự giao thoa giữa
hiện thực đời sống và thế giới kỳ ảo, của giấc mơ này đang mơ về những giấc mơ
khác nữa, xa nữa... Bài thơ có khổ kết độc đáo, rất “Dương Kiều Minh”: Một sớm
vắng/ ùa lên khói bếp/ về đây củi lửa ngày xưa... Hình ảnh sớm vắng
nhói lên như nốt
cao nhất trong một nhạc phẩm không lời, làm
phát sáng, làm âm vang đồng hiện những diễn tiến hình ảnh, rồi chốt lại trong
câu cuối: về đây củi lửa ngày xưa... Bài thơ tuy khép lại nhưng ngay
sau đó lại tạo liên tiếp những âm thanh vang vọng. Đó là trạng thái sâu lắng
của cảm xúc, lôi cuốn người đọc vào thế giới của mặc tưởng trang nghiêm, nuôi
dưỡng trạng thái rộng mở, cao khiết của tâm hồn. Cách viết này còn được triển khai
trong nhiều bài ở những giai đoạn sau, tạo nên nét đặc trưng riêng chỉ có trong
phong cách thơ Dương Kiều Minh. Đó là ban mai trong tiếng ho húng hắng của mẹ: Những
ban mai như thể
đầu tiên/ ào ào đổ/ lấp lánh dòng ánh sáng/ mẹ húng hắng ho…/ mưa bụi dưới thềm.
(Ban mai). Đó là giọt sương treo trên cành trúc, sự đột biến để nâng cảnh
huống thực lên cái cao vời của tâm tưởng: Rượu đây/ Bạn đấy/ Ta nâng cốc chạm
làn gió đầu đông mang bí ẩn khởi lên xao động trong ngần tựa giọt sương treo
trên cành trúc. (Bên cuộc rượu mùa thu). Đó là bức tranh tương phản giữa đổ
nát & thanh xuân đã thổi bùng sinh khí mãnh liệt: ấy
ngọn lửa bùng dậy/ ngọn lửa cất giữ tháng năm xa cách/ ngọn lửa dìu các triều đại
trườn qua đổ nát/ những thời đại thanh xuân. Đó là cách ông quán tưởng trong khoảng
không tĩnh lặng của bài thơ Không ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu.
Ở đó mỗi hình ảnh sự vật đều mở ra một không gian riêng. Cả bài thơ như cánh
cửa lớn mà phía sau đó là vô vàn những cánh cửa nhỏ với đan xen những lối đi.
Hãy cùng lắng nghe nhà thơ Dương Kiều Minh gọi hồn sự vật: số phận giống
câu thơ vừa viết xong, bị xoá/ bản nháp bài thơ gió nhấc lên tựa một lá
bùa. Ở đây ta thấy Dương Kiều Minh như hạt sương trong suốt cứ cố nép, ngấm mãi
vào vạn vật làm cho chúng trở nên mát lành, trong suốt. Và nhân vật trở
nên tỉnh táo trong một biến ảo rất lạ ở khổ kết của bài thơ: Không
ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu/ tôi nằm viên mãn - chiếc lá vàng dưới
hàng song thụ/ Nếu mẹ tôi mà biết/ Liệu mẹ tôi trách cứ các người… (Không
ai gọi tôi trở dậy vào buổi cuối thu). Sự biến ảo này cũng là cách gọi
mời, kích thích sự sáng tạo tiếp theo của người đọc, tùy thuộc vào mặt bằng văn
hóa và trải nghiệm riêng của họ.
***
Sau tập thơ Củi lửa, nhà thơ Dương Kiều Minh
luôn chú tâm khai triển thi pháp đã minh định từ tập thơ đầu
tay. Ở những tập thơ Dâng mẹ, Những thời đại thanh xuân, Ngày
xuống núi, Tựa cửa..., ông vẫn giữ được giọng nói trong trẻo, thơ ngây ban
đầu. Này là
một mùa vàng đầy bàng hoàng, như thể thế giới vừa bắt gặp trong cái nhìn
đầu tiên: Mùa vàng, mùa vàng/ những ký ức không bao giờ lặp lại/ ta còn
nguyên sơ hơi thở tự do (Những thời đại thanh xuân). Còn
nữa, là giai điệu và tiết tấu của đời sống vừa phồn tạp vừa thanh khiết: Bài
Ca Niềm Vui Sống/ ấy tiếng chuông cuối chiều dóng dả/ cơn lốc cuốn theo đám bụi
nô đùa/ hai đứa trẻ dắt nhau chân trời xa tít. (Khúc dâng Mozart).
Những bài thơ về sau, nhà thơ đã dần tiết chế sự trong trẻo, thơ ngây, để thế
vào đó tâm trạng tỉnh táo đầy chiêm nghiệm thế sự: Ồ khát sao/ cơn khát
thuở nhỏ/ cơn khát thuở khai thiên lập địa/ cơn khát ruổi dài theo mộng ước ta
(Những thời đại thanh xuân).
Có thể nói, nhà thơ Dương Kiều Minh phần lớn tiếp thu
có chọn lọc những tinh hoa của thơ ca phương Đông kim cổ, thường mượn thiên
nhiên, cảnh vật để nói về cái hữu hạn, mong manh chìm nổi của kiếp người: Ta
hát về người niềm tưởng nhớ/ Sóng nước phù sa/ Tháng năm ruồng bỏ/ Ta chiếc lá
cơ may trôi dạt lên bờ (Sông Hồng). Ánh sáng của văn hóa, triết học
phương Đông, đặc biệt của thi ca, càng sáng tỏ trong những giai đoạn sau này,
từ tập thơ Tôi ngắm mãi những ngày thu tận đến tập thơ Khúc chuyển
mùa. Tôi ngủ thiếp trong bài thơ Đường/ sương dăng dầy bến bãi/ Vành trăng động
mắt người con gái/ bức rèm buông tòa lâu đài Tàu (Bộc bạch). Ông nặng lòng
vương vấn với những thi liệu quen thuộc của thơ ca phương Đông nhưng biết
mở những chiều kích bất ngờ của liên tưởng và suy niệm trong thi tứ, chữ của
ông bình dị
nhưng có sức ám ảnh, và đôi khi, biểu lộ sự quẩn quanh phức rối của
cảm xúc. Sức vươn của mỗi mạch thơ luôn khoẻ khoắn, nhịp điệu tự nhiên và tự
do. Năm giờ sáng nước chảy tràn trên mái/ tựa hồ số phận ấn định/ thinh
không buông tiếng chuông nhói ngực (Vô đề). Tôi chợt hình dung thấy hình
ảnh một kẻ
sĩ thời hiện đại đang tự vấn bằng giọng trầm, đều đều… cất lên trong quầng
sáng lung linh và thanh sạch. Nhưng có một cảm giác rất lạ khi đọc liên tục nhiều bài
thơ của thi sĩ, tôi lại thèm tiếng quát mắng, thậm chí tiếng cười khôi hài của
ông với đám người đùa nghịch, hỗn xược nào đó…
Khác với tập thơ đầu tay, nhiều hình ảnh dung dị trong
thơ Dương Kiều Minh sau này được nhìn bằng hệ quy chiếu khác. Câu thơ sau làm
ta hình dung Dương Kiều Minh có lúc muốn hiện thân thành nhà
tư tưởng hơn là một thi sỹ: Ôi, mưa đông, mưa đông! Cơn
mưa lướt qua cuối chiều mang theo bao giấc mộng./ Một hạt
mưa ghé sát nói nhẹ: Thân xác này thật ra đã được tạo bằng tư tưởng
(Mưa đông).
Tập thơ Khúc chuyển mùa là ngôi nhà thơ để
Dương Kiều Minh trở về sau những chuyến du hành. Ở đây, ta gặp lại sự trẻ trung
và điềm đạm, sâu sắc và thơ mộng: Lô xô những quãng đời/ Dựng men theo bờ
nước/ Giật mình cơn mơ đêm trước/ Hiện về tuổi trẻ của ai (Chúng tôi gặp
nhau ở bên kia hồ nước). Nhưng lần này, hình ảnh ruộng đồng, thôn dã
tái hiện trong thơ ông mang vẻ đẹp và âm hưởng hoàn toàn khác trước: Đã lâu
rồi không đi qua những cánh đồng sương sớm tươi mùi cỏ xuân những lá
mầm vươn dậy mãnh liệt./ Vọng đến tiếng kèn buổi chiều giữa xuân trỗi dậy
nỗi niềm xa vắng (Tự sự bên mùa). Cánh cửa một mùa
xuân chín
đã mở ra trước mắt nhà thơ Dương Kiều Minh bằng âm điệu và hình ảnh mới,
bền bỉ, với nguồn năng lượng thấm sâu tỏa rộng hơn: Niềm xuân thúc
giục/ Niềm xuân
mách bảo/ Niềm xuân vươn dậy cõi mênh mông tĩnh lặng/ Bóng lớn
cây dã hương cổ thụ vươn cao giữa trời đất trong rạng rỡ ngày mới/ Thổn thức
làn ánh sáng toả lan hơi thở xuân về. (Giao thừa).
Ở khía cạnh khác, thơ văn xuôi là một thế
mạnh của nhà thơ Dương Kiều Minh. Sực nhớ núi đồi là một trong
những bài thơ văn xuôi đầu tiên tiêu biểu, và ở đây, đã hiện lộ nét ung dung,
tự tại, cảm xúc tươi non được kiềm chế lại. Mạch thơ trải rộng, câu thơ
được kéo dãn với góc quan sát rộng, giàu liên tưởng. Tôi chợt nhớ núi đồi
những đêm tĩnh lặng trong trẻo, ngôi sao xanh ánh sáng bị làn hơi ẩm tách ra
thành nhiều sợi tinh khiết.../ Đêm đêm những nàng tiên cánh mỏng bay là là trên
những cánh rừng và dòng sông hắt ánh sáng dìu dịu bờ dốc thoai thoải.
Những hình ảnh trong bài dung dị, song có lúc lại như sao
chép chi tiết của đời sống nhưng vẫn đậm tình cảm riêng biệt của người
viết: Tôi mở ý tưởng thơ mộng chỉ thấy hình ảnh thế giới khô cằn. Mùa đông
đến dài dặc, mùa xuân hiện gương mặt tiều tuỵ căn nhà chen chúc cũ
nát. Có thể, trong bài thơ văn xuôi đầu tiên này, hiệu ứng ngôn ngữ và
hình ảnh chưa cao, một số câu còn lẫn với cách nói của văn xuôi,
khoảng trống trong thơ chưa lớn và chưa tạo được bất ngờ. Bài thơ này, không
thấy in trong tập thơ Thơ Dương Kiều Minh, nhưng
theo tôi, đã đánh dấu sự chuyển biến trong thi pháp thơ Dương Kiều Minh. Tuy
nhiên, đó chỉ là những bước đi chập chững đầu tiên. Ở những bài thơ văn xuôi
sau này, xét một cách tổng thể, ta nhận ra mạch thơ ngày
càng vạm vỡ, tự do, tung tẩy hơn và đó cũng chính là cốt cách phong vận của
ông. Nhiều bài thơ như cơn gió lớn thổi mạnh trên cánh đồng bất
tận: Giữa thinh lặng mênh mông tiếng gió từ phía sông Đáy duổi qua con đê
kéo ngang cánh đồng trước nhà hoà cùng tiếng côn trùng tiếng xào xạc cây lá tạo
nên những giai điệu kỳ bí của đêm toả ngát hơi thở bí ẩn thiên nhiên và vũ trụ.
(Gửi bạn đêm cuối năm).
Không gian trong thơ văn xuôi Dương Kiều Minh là những
hình khối, những quần thể tượng đài độc đáo, gợi ta nhớ tới những biến tấu từ 7
mô-đun của điêu khắc gia Điềm Phùng Thị, mang đậm phong vị và triết lý
phương Đông; bí ẩn, dựng lên bức tường cao ngất, tiếp nối, dọc ngang, gây
choáng ngợp. Nhiều hình ảnh vừa mới thoáng hiện đã nhanh chóng đan lồng với
những hình ảnh khác lớn hơn, dị biệt hơn: Ai vẫn đứng kia buổi cuối chiều
giông gió, phố xá bời bời, hồn chia hai ngả. Vẫn ở đó ao đầm gò bãi, hiện về
đây hiu hắt núi đồi. Niềm thương cảm quanh quất bao năm dâng ngùn
ngụt núi rừng chập chùng dòng sông vách đứng. (Tựa cửa). Và trong không
gian này, cùng với cảm xúc, là những chiêm nghiệm về vũ trụ, trải nghiệm về nhân sinh…
Hình ảnh, tưởng chừng giản đơn nhưng mỗi mỗi đều chứa đựng những ý nghĩa phổ
quát. Chiếc lá sen khô trong câu thơ sau mang một vẻ
đẹp của nhiều trạng thái cảm giác, mở cho bạn đọc liên tưởng khác về thiên
nhiên, đời sống: Sự kiêu hãnh giờ chỉ còn dấu vết kỷ vật. Những chiếc lá
sen khô đội mưa tìm lại mùa thu đầm Vạc. Những âm thanh trong trẻo vang động
đâu đó trong trời đất ngân trên cây thiên cầm thuở ấy. (Những
chiếc lá sen khô). Khác với những nhà thơ cùng thế hệ, Dương Kiều Minh thường
chủ ý làm cho những chuyển động của thi ảnh chậm lại so với quy luật thông
thường. Trong khi đó, những nhà thơ trẻ cách tân khác
thường đẩy tốc độ hình ảnh đi nhanh hơn, bằng cách cắt ngang hình ảnh, tạo
khoảng cách lớn, làm phân rã, đột ngột thay đổi quy luật chuyển động…
Nhịp điệu được tiết chế chậm lại trong thơ Dương Kiều
Minh đã tạo
một hiệu ứng khác biệt. Nó diễn tả một thái độ sống, thái độ ứng xử trước nhân thế, cho
ta thấy được tâm trạng lưỡng lự của một người vừa yêu vừa chán ngán sự đời. Sương
muối giăng mù trời, lòng người lửa đốt. Mười hai tháng trôi qua chớp mắt. Mọi
việc chậm chạp, trì trệ gần như ngưng đọng. Mình như con ếch
ngắm bầu trời hiếm hoi trong đêm, dường như có điều gì bất ổn nơi từng đám sương từ từ
trút xuống chộn rộn mờ ảo.…/ Ngang cõi nhân gian huyền ảo cô lạnh, kia ai cầm ngọn lửa
phất qua… (Ghi ở buổi cuối năm). Bàn tay ai cầm ngọn lửa phất qua
cho thấy thái độ vừa chằm bặp vừa lơ đãng, vừa trách nhiệm vừa buông bỏ, thờ ơ
trong biến ảo khôn lường của đời sống thực tại… Bằng cách “kìm nén” này, nhà
thơ Dương Kiều Minh đã sáng tạo nhiều bài thơ văn xuôi thành công. Trong bài
thơ Tìm sen ở Quan Sơn, ta bắt gặp cách nhìn đờ đẫn, giọng nói chậm
rãi cất lên, vừa uể oải vừa minh triết: Chiều xuống, thoáng mưa ngâu nhè
nhẹ. Bên rặng phi lao, những em bé gái đeo giỏ mò cua bên cầu Dậm. Núi non hồ
nước phủ làn hơi mưa, một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ lộ ra
trắng toát.. Mọi cảnh vật ở đây đang diễn ra như nó vốn
có, buồn tẻ nhàm chán, hay chộn rộn, mơ hồ… còn tùy ở cảm nhận của người đọc, nhưng cái
vẻ trắng toát lộ ra khi một vài trái núi bị đẽo gọt loang lổ đã tạo một hiệu
ứng kinh hoàng, khi chính bàn tay con người phá hủy vẻ đẹp nguyên sơ của thiên
nhiên. Đọc đến câu cuối, ta thấy tất cả những hình ảnh vừa gặp từ khổ thơ đầu
đã không còn ở vị trí cũ, mà xáo trộn, hoảng hốt, vừa muốn gào thét vừa muốn
câm lặng…
Gương mặt cô đơn thường hiện lên đa diện, nhiều chiều
trong thơ Dương Kiều Minh. Những hình ảnh ở khổ thơ đều như đang
vận động trong sự đông đảo cõi người, nhưng chúng chuyển động như để làm
tròn bổn phận, định phận của mình. Chúng di chuyển như không
còn mối liên hệ với chung quanh, trong lẻ loi, cô quạnh: Sự ưu tư buổi cuối
chiều đòi hiện trên trang trắng. Bóng tối theo hơi lạnh thấm dần xuyên qua lùm
cây, mái nhà, ô cửa/ Cơn khát dục vọng thiêu cháy làm biến dạng những khuôn
mặt/ Lại đã để lại phía sau mùa lũ, dòng sông vào đông để lộ những vạt đất bồi,
những con chim rẽ giun từ đâu đến mải mê thản nhiên quên cả chiều đã xuống/ Vẫn
lùm cây này, vẫn bờ gạch lát, câu chuyện đã là của thế kỷ trước. (Những
con chim rẽ giun bên vạt sông chiều).
Hình ảnh người mẹ tỏa sáng suốt các tập thơ của Dương
Kiều Minh,
như biểu tượng của nguồn cội, là nơi nhà thơ nương tựa lúc cô đơn, nơi
cố hương tiễn biệt và nơi để quay về. Bất cứ câu thơ nào nhắc tới mẹ, mơ hồ
chạm hình bóng mẹ, đều vang lên trong tâm hồn nhà thơ rưng rưng tiếng chuông
cầu nguyện, niềm khắc khoải khôn nguôi, nỗi nhớ quay quắt, da diết… Một vệt
nước trên tán lá, một tiếng hát và bước chân, tiếng mẹ
gọi trong chiều khói lam là những giấc mơ dịu dàng: Cơn mưa đêm để
lại vệt nước trên tán lá khóm đại hồng môn/ bài ca đuổi theo bước chân trẻ thơ
con đường ô tô chạy men đồng bãi/ ai như tiếng mẹ gọi ngôi làng khói tỏa xa xa
(Vừa giấc mơ dịu dàng đậu xuống). Chiếc giày trên lớp lá thu
trong câu thơ sau diễn tả tâm trạng hụt hẫng, phi lý, cô độc của nhà thơ bên
phần mộ mẹ: Trên cánh đồng mẹ nằm cô quạnh/ mẹ hằng mong tôi khôn lớn một ngày./
Đâu đó bên hàng song thụ/ trên lớp lá thu còn một chiếc giày… (Không ai gọi tôi trở dậy
vào buổi cuối thu). Tình cảm ấy lúc như tơ nhện giăng trên mặt hoa mỗi sớm ổ
mầm đậu hòa lan mẹ ủ lên mỗi sớm/ Có mùi sương mùi nước/ tuổi thơ ăm ắp buồn
(Bướm trắng); lúc bóng mẹ hiện về ấm áp, bao dung: Mẹ chẳng trách. Mẹ
lần lần run rẩy/ nghe tiếng tôi thốt lên phía hiên nhà… (Bên những sợi tơ
ánh sáng). Từ tập thơ Tôi ngắm mãi những ngày thu tận, những nỗi đau
bệnh tật đôi khi được nhắc tới càng đẩy ông vào cô quạnh. Trong cơn lẻ loi ấy,
ông thường cất tiếng gọi mẹ; tiếng gọi ngắt quãng, bập bẹ thơ ngây như thuở
còn trong vòng tay âu yếm của Người: Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp,
con nghe thấy ngõ quê tinh khôi rải ướt xốn xang bước chân thôn nữ
gánh nước ngày cuối năm, cây đào trụi lá nở những bông hoa đầu tiên, hơi xuân tràn về
từ những cánh đồng. (Mẹ ơi, mùa xuân gấp gấp).
***
Những bài thơ cuối của tập thơ Thơ Dương Kiều Minh
đã mở thêm những chiều kích khác trong suy tưởng và cảm xúc, là sự tìm đến/ trở
về của nhà thơ với vẻ đẹp giản dị và hiện đại. Hơi xuân tràn về
từ những cánh đồng… Câu thơ ấy như ánh sáng luôn soi chiếu suốt lộ trình thơ
ca Dương Kiều Minh, là đích đến phía chân mây, là “nhân đức tin”
cho ông vượt qua mọi thử thách, khó khăn để gặt hái những thành công ngoài mong
đợi. Dương Kiều Minh cùng với các nhà thơ cùng thế hệ đã làm cuộc “vượt thoát”
ngoạn mục, tạo nên một khuynh hướng thơ sau 1975, góp phần quan
trọng vào cuộc cách tân thơ Việt trong những thập niên qua. Tôi chọn
câu thơ trong bài Tự sự bên mùa của Dương Kiều Minh để kết thúc bài
viết, như một lời cầu
chúc cho linh hồn nhà thơ được thảnh thơi ở cõi vĩnh hằng Tỉnh dậy, đã đầu
hạ/ âm nhạc reo vang những con đường rộng thênh xa hút ngang qua những nẻo quê, một miền
quê bỏ lại…
Hải Phòng, 19/3/2012
Sửa lại lúc 11g08 phút, 28/3/2012
(Đã trích đăng báo Nghệ thuật mới số
3)
MAI
VĂN PHẤN
___________________________
(1) – Tên các tập thơ của Dương Kiều
Minh:
- Củi lửa (NXB Tác phẩm mới - Hội Nhà văn,
1989).
- Dâng mẹ (thơ, NXB Văn hóa, 1990).
- Những thời đại thanh xuân (thơ,
NXB Văn học, 1991).
- Ngày xuống núi (thơ, NXB Văn học, 1995).
- Tựa cửa (thơ, chưa xuất bản, 2001).
- Tôi ngắm mãi những ngày thu tận (thơ, NXB
Hội Nhà văn, 2008).
- Khúc chuyển mùa (thơ, chưa xuất bản, 2011).
- Thơ Dương Kiều Minh (thơ, NXB Hội Nhà văn,
2011 – bổ sung 2 tập thơ chưa xuất bản).
No comments:
Post a Comment