Nhà văn Ngô Thảo: ‘Tôi thiếu lòng tham’
Tuy không gắn bó cả cuộc đời với lý luận phê bình văn học nhưng Ngô Thảo có sức làm việc đáng nể với số đầu sách dày dặn. Ông tâm sự, người có lý trí sáng suốt mà tình cảm nguội lạnh thì không viết được phê bình và cũng không nên viết phê bình.
Ở tuổi 70, Ngô Thảo vừa
vượt qua bạo bệnh, trở lại đời thường ông vẫn còn nhiều dự định với nguồn tư
liệu dồi dào nhờ chịu khó ghi chép và lưu trữ từ những năm tháng tuổi trẻ còn
sung sức. Tập sách mới nhất có tên "Dĩ vãng phía trước" mà ông vừa
công bố gồm nhiều tư liệu quý về các nhà văn nổi tiếng, về một thời những nhà
văn Việt Nam sống và viết. Ông tâm sự lý do để nguyên tư liệu như những gì ghi
chép được từ những năm tháng cách đây nửa thế kỷ là bởi không muốn sắp xếp, tô
vẽ lại quá khứ, ông muốn để bạn đọc thấy cả cái hay cái dở mà biết rằng, có một
thế hệ đã sống như thế.
Bài viết đầu tiên là…
điếu văn truy điệu
- Có thông tin cho biết,
Tư liệu Chuyện đời, chuyện văn một thuở có tên “Dĩ vãng phía trước” được ông
hoàn thành trong khi chữa trị ung thư tại Singapore. Thực hư chuyện này thế nào
thưa ông?
- Chỉ có Lời vào sách
được viết khi tôi đang điều trị ung thư trong Bệnh viện (tại Singgapore). Còn
toàn bộ tập sách là các tư liệu cũ: Mấy chục trang nhật ký ghi thời gian chiến
đấu chống cuộc phản kích của Mỹ Ngụy ra căn cứ giải phóng phía tây Thị Thiên
tháng 5/1969, còn lại là sổ tay, ghi chép khi tôi về Văn nghệ quân đội,
trong đó có các buổi trò chuyện của các nhà văn Văn nghệ quân đội khi
Tạp chí sơ tán về Hương Ngải - Thạch Thất, Hà Tây cũ, rồi các buổi trò chuyện
của các nhà văn Vũ Cao, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Nguyên Ngọc… biên bản
ghi chép một số bài nói, tham luận tại các Hội nghị của một số nhân vật có liên
quan đến văn học, ghi chép những ngày đi theo các đơn vị quân đội... Tất cả tư
liệu giúp bạn đọc có thể hình dung một phần cuộc sống, cách sống, cách viết của
các nhà văn một thời.
- Tập sách có tên khá lạ
- “Dĩ vãng phía trước”. Ông có thể cho biết tại sao dĩ vãng lại ở phía trước?
- Trong Lời vào sách
và cả trong nhật ký tôi đã nói khá rõ: Lớp chúng tôi đi ra chiến trường từ một
hậu phương đang có cuộc sống bình yên, đang được làm những công việc mình yêu
thích. Đây không phải là một cách chơi chữ mà để diễn đạt một tâm trạng thật
của nhiều người lính miền Bắc vào chiến đấu ở miền Nam: Chúng ta không đi xâm
lược, không ai nghĩ sẽ đánh chiếm và giành một cái gì ở ngoài mặt trận. Ai cũng
mong sớm đuổi xong giặc, được trở về quê hương. Ngoài mặt trận, quê hương với
cuộc sống thanh bình cũ thuộc thế giới dĩ vãng. Muốn trở về thế giới cũ, gặp
lại người thân cách duy nhất là xông lên phía trước.
- Người ta vẫn nghĩ
những người bị ung thư như án tử đã được tuyên. Sượt qua lưỡi hái thần chết có
khiến ông thay đổi suy nghĩ về cuộc sống?
- Thật ra không chỉ đến
lần bị ung thư này, tôi mới giáp mặt với thần chết. Thuở hai mươi, ra trận,
giữa chiến trường, bom đạn đầy trời, hành quân xe xích kéo pháo, rồi đói, rét,
bệnh tật... Thuở ấy, thần chết luôn hiển hiện trong đội hình chiến đấu. Đơn vị
tôi đi vừa tròn một tháng, đã bị ngay một trận B52 đánh vào đội hình. Lần đầu,
tôi lo chôn cất đồng đội. Bài viết đầu tiên của tôi ở chiến trường là Điếu văn
đọc trong buổi truy điệu của Đại đội. Trở về thời bình cũng đôi lần tai nạn
suýt chết. Thành ra, khi vào tuổi thất thập, phát hiện bệnh mà sự sống phải tính
ngày tính tháng, thì đã không có gì phải hoảng hốt. Chỉ có một số việc phải làm
cho xong, trong đó có vài tập sách mà tư liệu đã có sẵn.
Thần chết đã thành… bạn
thân
- Ông quan niệm thế nào
về cái chết?
- Quan niệm về cái chết?
Điều này thay đổi tuỳ lứa tuổi, tuỳ hoàn cảnh. Khi còn trẻ, ta còn nhiều điều
để tiếc, cuộc sống có nhiều ước mơ, nhiều dự định, nhiều tham vọng, nhiều quan
hệ ràng buộc về trách nhiệm, về tình cảm. Trước tuổi 60, một số điều trong đó
còn ràng buộc, níu giữ mình. Còn khi đã thất thập thì thần chết đã thành bạn
thân, bởi bao nhiêu người thân, bạn bè, đồng đội, đồng lứa đã ra đi trước mình.
Khi viết về Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh, tôi bỗng có ý nghĩ rất thật: Xem ra bây
giờ, hai thế giới, không biết nơi nào đông vui hơn? Với tôi mọi nghĩa vụ với
cuộc sống coi như đã hoàn thành. Con cái đều đã có gia thất. Nói chung là nhẹ
gánh cả việc nước lẫn việc nhà, tôi đang chủ động cắt bớt dần những sợi dây neo
mình với trần thế. Với riêng tôi, có lẽ vì quán tính của người lính, xưa nay
vẫn coi nhà mình chỉ là nhà trọ, nên lưu luyến vừa phải. Sống được đến tuổi
này, vợ con người thân đã đôi phen không tiếc công tiếc của cứu mình khỏi tai
nạn. Trong cuộc đời, dẫu chỉ là tình yêu thương thôi mà mình cũng từng đau khổ
và làm khổ bao người thân. Điều thiếu nam tính nhất ở tôi là không có lòng
tham, chưa nói đến tham vọng.
- Nếu như biết rằng mình
sẽ qua khỏi căn bệnh ung thư liệu ông có in “Dĩ vãng phía trước” theo kiểu “nói
tất tần tật” như hiện nay không, bởi những điều “khó nói” vẫn sẽ còn cơ hội để
nói ra vào một dịp khác?
- Nói sự thật là điều
tôi muốn. Nhưng ai cũng biết, sự thật không phải là một viên gạch, hòn
đá, cái bánh… để có thể cầm, nắm, chụp ảnh được.
Tôi từng bị phê phán gay
gắt khi trích dẫn một câu ngạn ngữ Nga trong bài viết về nhận định mức độ chân
thực của văn học viết trong chiến tranh: Một nửa cái bánh mì vẫn là bánh mì.
Nhưng một nửa sự thật đã là sự giả dối. Rất cẩn thận, tôi đã viết thêm: không
thể nói văn học viết trong chiến tranh là giả dối, nhưng đó quyết chưa phải là
sự thật chiến tranh như nó vốn có. Mấy năm sau, để cắt nghĩa điều đó, tôi
giải thích, vì các tác phẩm văn học thời kỳ đó phải tuân theo kỷ luật nghiêm
ngặt của chiến trường là phải ngụy trang để che mắt địch. Lại dấy lên một chiến
dịch phê phán luận điểm Văn học ngụy trang.
Bây giờ thì những ấu trĩ
đó đã được vượt qua rồi.
Không sắp xếp lại quá
khứ
- Những câu chuyện của
một thời dưới lăng kính của một người (dù người ấy có am tường và khéo léo đến
mấy) thường dễ gây tranh cãi nhiều chiều từ những người trong cuộc hoặc những
người có liên quan, với Ngô Thảo dường như lại không xảy ra điều ấy? Ông có bí
quyết gì vậy?
- Có lẽ do tôi là người
thiếu thông minh sắc sảo, nên nhìn các nhà văn với tất cả sự trân trọng, cảm
phục. Một đời tôi không làm nổi một câu thơ, viết nổi một truyện ngắn. Nên nhìn
người khác làm thơ, viết văn, viết lý luận phê bình, rồi vẽ tranh, viết nhạc…
là tôi phục sát đất. Cũng có người cái này hại cái kia, nhưng nói chung, tôi
kính trọng những người tài năng. Nên tôi lắng nghe họ nói, và gắng ghi lại cho
thật. Trước sau đó là một cách học. Giờ, khi công bố, nó là Tư liệu. Có
thể sau đó họ đã nghĩ khác, nói khác, viết khác nhưng chắc không mấy ai từ chối
quá khứ. Bởi vì tôi chỉ ghi mà không bình luận gì.
- Nhiều người tái hiện
quá khứ bằng cách viết hồi ký, tại sao ông lại giữ nguyên tư liệu thô khi in
sách mà không viết lại ở điểm nhìn hiện tại?
- Người già hay tiếc nhớ
những trang đời đẹp thuở đã qua. Người làm phê bình cũng vậy thôi. Nhưng người
sống sau, cũng có ba bảy loại. Có người coi đó là lợi thế để tô vẽ, trang điểm
lại quá khứ của mình. Thiên hạ đục cả, chỉ mình ta trong! Họ làm như họ
là Khuất Nguyên cả. Nhưng, người trung thực không từ chối cũng không sắp xếp
lại quá khứ. Hồi cố của tôi chỉ là giới thiệu lại một số tư liệu thô mộc còn
giữ được mà không tân trang. Hay ở đó mà chắc cái dở cũng ở đó. Có điều, bạn
đọc có thể biết, thời đó, chúng tôi đã sống như thế!
Tình cảm nguội lạnh
không viết được phê bình
- Ngòi bút phê bình Ngô
Thảo từng tung hoành một thời, nhưng không thấy ông “thò bút” vào mảng văn học
đương đại. Ông cho rằng, mỗi thế hệ làm phê bình sẽ có “thời của họ” hay ông
ngại đụng chạm đến những vấn đề mình không thực sự tường tận?
- Bạn nhận xét đúng.
Nhưng bạn ơi, tôi đã ngoài bảy mươi rồi.
Mỗi thế hệ sáng tác phải
có những nhà phê bình của mình. Về một mặt nào đó, quan hệ giữa nhà văn với nhà
phê bình phải là tri kỷ, tri âm của nhau. May mắn cho những nhà văn có được
những nhà phê bình như thế. Với tất cả sự sắc sảo, đáo để của mình, khi đọc Thao
thức của Krôn, một tiểu thuyết viết về trí thức của văn học Xô Viết, Nguyễn
Khải thích một ý: Thậm chí, tôi không có một người mà vì họ mình có thể làm
hỏng cuộc đời mình. Làm hỏng với hy sinh, với quên mình chỉ khi mình chọn
được một tri âm, tri kỷ, với tình yêu là một hồng nhan tri kỷ. Bây giờ
có bao nhiêu tác giả có khả năng lôi cuốn, hấp dẫn nhà phê bình đến độ ấy?
- Ông thấy làm phê bình
thời xưa so với làm phê bình thời nay thế nào?
- Công việc phê bình thì
thời nào cũng giống nhau. Nhưng đời sống văn học mỗi thời mỗi khác. Nhưng năm
70-90 thế kỷ trước, do rất nhiều lý do, mà số lượng tác giả cũng như tác phẩm
hàng năm xuất bản có hạn. Cho đến 1985, cả nước có chưa đến 20 nhà xuất bản.
Trung bình một năm, mỗi nhà xuất bản in được 10 đầu sách văn học. Có năm như
1982, một nhà xuất bản lớn như Thanh niên chỉ in được 4 tập, nhà xuất
bản Công an in được 6 tập. Tất nhiên với một đời sống Văn học quy mô như
thế, việc tổng kết cũng như chọn tác phẩm để phê bình không khó. Ấy là số lượng
ít nhưng lại có được những tác phẩm và tác giả được chú ý.
Bây giờ, số lượng là
hàng nghìn. Trong số lượng hàng nghìn ấn phẩm hôm nay, bao nhiêu cuốn là văn
học, bao nhiêu cuốn cận văn học, bao nhiêu cuốn chỉ có hình thức một tác phẩm
văn học? Tiêu chí cho một tác phẩm cũng không rõ ràng. Trong biển sách mênh
mông hôm nay, người hành nghề phê bình quả là có nhiều việc để làm. Nhưng lắm
khi phân vân lựa chọn đã làm hết một phần đời!
- Đã khoẻ mạnh trở lại,
ông có tính sẽ tiếp tục ra sách sau “Dĩ vãng phía trước”?
- Ngoài 70 rồi, có lẽ
tôi không nên trả lời câu này. Nhưng còn sống chắc vẫn còn duyên nợ. Trăm
người nghìn chữ là tên tập sách tôi viết về một trăm người vì lý do này
khác mình đã tiếp cận, nó sẽ như là món quà để lại trần gian.
Dương Tử Thành thực hiện
Ngô Thảo sinh năm 1941, quê gốc
Vĩnh Linh, Quảng Trị. Hiện sống tại Hà Nội. Nguyên Tổng biên tập Tạp chí Sân
khấu; Giám đốc NXB Sân khấu. Hiện là cố vấn nghệ thuật Công ty BHD và Hãng
phim Việt. Tác phẩm đã xuất bản: Từ cuộc đời chiến sĩ (Phê bình và
tiểu luận, 1978); Năm tháng chưa xa (Sổ tay ghi chép của Nguyễn Thi,
sưu tầm, chỉnh lý, 1985); Chiến trường sống và viết (Sưu tầm, 1995); Nguyễn
Ngọc Tấn, Nguyễn Thi, toàn tập (Sưu tầm, biên soạn, giới thiệu, 1996); Như
cuộc đời (1996); Đời người, đời văn (2000); Mấy vấn đề của sân
khấu Việt Nam trong cơ chế thị trường (2000); Văn học với đời sống,
đời sống với văn học (2000); Văn học về người lính (2001); Mây
bay về núi (2007); Thao thức với phần đời chiến trận (Phê bình văn
học, 2009); Tiểu luận phê bình văn học (Tuyển, 2010); Dĩ vãng phía
trước (Tư liệu Chuyện đời, chuyện văn một thuở, 2011).
|
Nguồn: Evan
No comments:
Post a Comment