Tác giả
Nguyễn Huy Thiệp đến với người đọc, đã sớm gây chú ý ngạc nhiên chỉ với một số
ít truyện ngắn. Truyện và kịch của ông đã được đăng báo, in thành nhiều tuyển
tập trong và ngoài nước và được dịch ra ngoại ngữ. Nhà văn vừa tài tử vừa
chuyên nghiệp qua tài năng, nhưng gây hiện tượng và tác phẩm của ông đã và đang
được nhiều người nghiên cứu, phân tích, được coi như là những tác phẩm tiêu
biểu của văn học Việt Nam trong thập niên qua.
Khía cạnh
nổi bật trong các truyện của nhà giáo sử từng sống nhiều năm giữa những đồng
bào Mường và Thái đen ở vùng thượng du Tây Bắc là những chủ đề huyền thoại,
truyền kỳ và lịch sử. Trong nhiều tác phẩm, ông muốn lôi xuống với đời thường
những đỉnh cao của lịch sử và văn học, trần tục hóa các vua Gia Long, Quang
Trung và các nhân vật lịch sử Nguyễn Thái Học, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Thị Lộ, vv. Thật và giả. Đứng đắn và hoang chơi. Anh hùng lịch sử là của quá
khứ, họ đã để lại vết tích đâu đó trong đất, núi và sông, nhưng qua những hạt
cát bụi của trí nhớ người hôm nay mà họ vẫn sống, sẽ sống. Lịch sử biến thành
dã sử, truyền kỳ, chuyện dân gian. Hôm nay thành hôm qua. Và chuyện dân gian
thành những huyền thoại. Và lãng mạn biến thành thô tục như trong truyện Trương
Chi.
Huyền thoại
là những chuyện xa xưa, những mảng rời cấu thành lịch sử nhưng không là lịch sử
thuần lý. Huyền thoại giúp cắt nghĩa chuyện tại sao mà có, mà sinh thành; cắt
nghĩa nguồn gốc một dân tộc, một xã hội, tập thể. Huyền thoại không chỉ có
trước, mà khi đã có lịch sử vẫn tiếp tục cấu kết, trở thành cốt lõi cho lịch
sử. Trong khi đó truyền kỳ thường là những chuyện lạ hay có liên hệ đến lịch sử
được lưu truyền lại. Nguyễn Huy Thiệp xử dụng cả hai thể loại.
Huyền thoại
có tính cách lạc quan, tin ở con người, nhân bản tự tại; không cần đến lý trí,
lý luận. Thể huyền thoại giúp tác giả khai thác những tiềm ẩn, tiềm thức, siêu
thức. Từ Claude Lévi-Strauss của Nhiệt Đới Buồn Thiu (Tristes Tropiques, 1955),
huyền thoại đã giúp cắt nghĩa, thông hiểu nhiều hiện tượng, kể cả lịch sử, văn
minh. Đi sâu, vượt thực tế, lên cái không cùng. Dĩ nhiên, huyền thoại không có
nghĩa là phi lý hay vô lý; huyền thoại có cái trật tự luận lý của nó, có cả một
hệ thống luận lý bên trong hay với những nguyên tắc nhất định. Huyền thoại tiến
hóa theo chiều sâu vũ trụ thay vì chỉ là ý thức tiến hóa.
Dùng huyền
thoại, tác giả muốn người đọc thông hiểu thay vì lý luận, phán xét. Cảm nhận
bằng trực giác, kinh qua, cá nhân, tư riêng, thay vì lý trí cái phải đưa đến
một kết luận chung, hợp lý, hợp biện chứng hay đưa đến một sự thực phổ quát mà
trong thực tế và lịch sử, đã sản xuất những Lý Tư, Tôn Ngô, Machiavel,
Descartes, Hegel, Marx, tư bản, cộng sản, vv. Thể huyền thoại không chứa phổ
quát, không có chân lý, có chăng là chân lý tự tại hay những giá trị đối với cá
nhân, với tôi; ai có khả năng hoặc thiên khiếu cảm nhận, sẽ đọc được cái sứ
điệp của tác giả. Lỗ Tấn trong tập Cố Sự Tân Biên (Truyện Xưa Viết Lại) lấy
chuyện xưa nói chuyện thời ông hồi đầu thế kỷ XX, lộ chân tướng giáo dục, răn
đe và làm chính trị. Nguyễn Huy Thiệp cũng tỏ ra luân lý, dạy đời nhưng có thể
nói ông khác Lỗ Tấn, ít tham vọng hơn dù truyện và kịch ông thường có một thông
điệp, những ước ao, như được làm người. Văn Lỗ Tấn thường hiện thực trong khi
Nguyễn Huy Thiệp huyền ảo, thơ mộng dù nội dung có khi nặng nề, nhức nhối.
"Con
tôi ! Tôi sẽ nuôi dạy cho nó nên người. Phải. Nó sẽ thành thi sĩ! Thành anh
hùng! Thành bác học! Nó sẽ tiến hành các âm mưu, sẽ nổi loạn, sẽ tiêu diệt...
Nó sẽ thành tựu, sẽ ngạo nghễ, sẽ tự do. Nó sẽ đau khổ và hạnh phúc! Nó sẽ gian
trá và rộng lượng! Sẽ yêu thương và căm thù! Sẽ hủy diệt và xây dựng... Nó sẽ
đứng giữa trời và đất, nó phải được quyền yêu ghét, quyền chọn lựa, quyền được
định đoạt giữa sinh và tử, quyền được nhảy múa trên cả vinh quang cũng như điếm
nhục..." (Hoa Sen Nở Ngày 29 tháng 4, tr. 726)(1)
Huyền thoại
có thể trần tục hóa những thần thánh, danh nhân lịch sử, gở bỏ vầng hào quang,
giản đơn hóa những ngôi sao có khi đã được chiếu sáng nhân tạo, đưa các ngài từ
những đỉnh núi cao xuống đồng bằng sống với người hai bửa cơm chạy gạo. Rồi
phải đối phó với những nhức nhối, phải giải quyết những nát lòng, tục lụy. Nơi
không còn chổ đứng cho những chân lý muôn đời, khuôn mẫu duy lý, cái phải đi
lên, đi thẳng !
Trong các
truyện và kịch của Nguyễn Huy Thiệp, nhân vật là những người như chung quanh
ta: thiếu phụ lái đò về bến Tầm Xuân, cô gái dở hơi, tên tướng cướp, những
người thợ xẻ, lão đồ tể, ông thợ hớt tóc, người đẩy xe ba gác, ông tướng về hưu
trơ trụi lý tưởng chết đứng trước những tầm thường thường nhật trong gia đình
con dâu nuôi heo với nhau đem ở bệnh viện về và trước những khốn cùng chốn đồng
quê hay một diễn viên quèn. Đời thường như huyền hoặc, huyễn ảo; các nhân vật
như có một tâm hồn trong sạch, nguyên sơ lẫn những khôn ngoan của người thường,
những khôn ngoan chín từ những khốn nhục của cuộc đời. Niềm tin nơi cái Thiện
hiếm hoi, nơi luật nhân quả, nơi con người :
"Ông
Diểu dừng lại sững sờ. Loài hoa tử huyền cứ ba chục năm mới nở một lần. Người
nào gặp hoa tử huyền sẽ gặp may mắn. Hoa này màu trắng, vị mặn, bé bằng đầu
tăm, người ta vẫn gọi hoa này là muối của rừng. Khi rừng hết muối, đấy là điều
báo đất nước thanh bình, mùa màng phong túc" (Muối Của Rừng, tr. 107-108)
Và những oan
ức như của Ngô Thị Vinh Hoa. Nhưng cũng có những cái ác hay bất thường của
Nguyễn Ánh, Nguyễn Huệ, Những cái oan và
ác của hôm nay đầy rẫy, của một xã hội tha hóa, không trọng nhân phẩm, một xã
hội bất bình thường ! "Bản tính người Việt là hay trông ngóng, nhiều khi
quên gốc ở ngay chính tim óc mình" (Chút Thoáng Xuân Hương, tr. 184)
Mặt khác,
Nguyễn Huy Thiệp huyền thoại hóa một số nhân vật và đề tài lịch sử. Huyền
thoại, cảm nhận lịch sử khác đi, đương đại hóa cái quá vãng hay đã được đặt
trên bệ thờ, đúc tượng khắp công viên. Một nỗ lực vượt thoát cái nhìn tập thể,
bình thường, vượt lên trên cái trật tự xã hội, cái áp đặt bằng nhiều chiến
thắng và xương máu, vượt thoát thiên kiến, cái đặt để kiêng húy. Cái nhìn của
đứa con dám cãi mẹ cha bất lương, tàn độc, cái ly khai của con cừu chán ngấy
những tiếng loa nhàm và nhảm, cái kiểm thảo tự giác, bất vụ lợi, cái tự vấn của
đáy lòng trước khi vào tòa giải tội hay sám hối tập thể. Như muốn nhắc nhở cái
hôm nay là hệ quả của những hệ thống, danh nhân và lịch sử, vẫn phải thấy nghe
mỗi ngày hoặc tưởng đã chìm khuất. Nhưng Nguyễn Huy Thiệp phê phán những ảo
tưởng, những huyền thoại dựng đứng một cách nhân tạo, bá quyền. Đó là lý do ông
đã bị các quan văn nghệ kết án đã dám "bắn súng lục vào quá khứ" hoặc
đi xa hơn, coi ông bị bệnh tâm thần - may mà ông không sống thời Staline và
Nhân Văn Giai Phẩm !
Nguyễn Huy
Thiệp đã là hiện tượng phải chăng vì chữ viết giữ vai trò quan trọng, nhất là
đối với một xã hội đề cao lý luận, ý thức hệ, một xã hội tự cho không giai cấp
nhưng đầy dẫy giai cấp, phe đảng, lý lịch. "Văn chương là thứ bỉ ổi bậc
nhất! (...) Nó gây ra sự nổi loạn trong cuộc đời thường. Cuộc đời trôi đi đơn
giản. Day đi dứt lại làm gì ?" (Chút Thoáng Xuân Hương, tr. 203).
Lévi-Strauss từng nhìn ra cái tác oai tác quái của chữ viết : "Hiện tượng
duy nhất hình như lúc nào và khắp nơi liên hệ đến sự xuất hiện của chữ viết, đó
là sự tạo thành những xã hội giai cấp hóa, những xã hội gồm có chủ và nô lệ,
những xã hội lợi dụng một phần dân chúng lao động cho phần kia hưởng, hiện
tượng đó không chỉ có ở vùng Trung đông mà cả ở Trung Hoa thời nguyên sử và cả
ở vùng châu Mỹ những nơi mà dấu vết chữ viết xuất hiện trước khi lục địa này
được khám phá" (Entretiens avec Claude Charbonnier).
2.
Tướng Về Hưu
: huyền thoại anh hùng chiến tranh: "đường ra trận mùa này đẹp lắm"
(tr. 49); huyền thoại "người cha đã chết", người cha vắng nhà và
những đứa con mồ côi, đi hoang. Chiến tranh trường kỳ, để sinh tồn, con người
xoay sở, cả lấy nhau thai nhi đem về nhà nuôi chó và lợn ! Một bức tranh xã hội
suy đồi phong hóa, đạo đức! Nỗi bất lực của người hùng trong đời thường, giá
trị "người hùng" trong một xã hội kinh tế nhắm thị trường !
Trong Kiếm
Sắc, Nguyễn Huy Thiệp đem Nguyễn Huệ và Nguyễn Phúc Ánh ra khỏi sách sử chính
thức của các lịch triều, của cả chế độ xã hội chủ nghĩa thường chỉ đề cao anh
hùng áo vải. Vua Gia Long ở đây là người "đa mưu, túc trí, tính kiên trì,
không tin ai, dùng người lấy chữ hiệp chữ lễ làm trọng, không coi nhân, nghĩa,
trí, tín ra gì. Thỉnh thoảng Ánh vào sâu trong đất Thuận Quảng, xuất quỷ nhập
thần. Người Đàng Trong sợ Ánh hơn là thích Ánh. Ánh đi đến đâu nghe nói cũng có
mây đen cuồn cuộn bay đằng trước, dân cứ thấy có mưa là biết Ánh vừa đi
qua" (tr. 281). Qua nhân vật Đặng Phú Lân, ông viết về họ như được nghe
dân giả nói về họ, truyền tụng về họ. Huyền thoại theo nghĩa đồn đãi, ghi nhận
bởi tứ phương thiên hạ.
Phẩm Tiết
với hình tượng Ngô Thị Vinh Hoa hiện thân của cái đẹp tuyệt đối. "Khi đẻ
ra Vinh Hoa, trên nóc nhà bỗng có đám mây ngũ sắc bay đến, tỏa ra ánh sáng rực
rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Trên cổ Vinh Hoa có bảy tràng hoa quấn cổ,
xòe lòng bàn tay ra thấy có viên ngọc ở trong, trên khắc hai chữ "thiên
mệnh". Khải dựng tóc gáy, lập bàn thờ tạ trời đất" (tr. 305). Vinh
Hoa được tiến cử vào cung vua Quang Trung khi ông ra Bắc hà thu phục dân và sĩ
phu ở đây. Vua về lại Phú Xuân và mất đột ngột, chết nhưng mắt mãi nhìn Vinh Hoa không nhắm được
dù vua con là Quang Toản đã vuốt. Nguyễn Ánh chiếm Phú Xuân, chiếm cả người đẹp
Vinh Hoa nhưng nàng tự trầm
"Thờ
hai vua, vẫn giữ lòng trinh
Lưu muôn
thuở, còn nguyên phẩm tiết" (tr. 315)
Vàng Lửa
đoạn mở đưa người đọc vào cõi mơ hồ của các biến cố lịch sử. Kế, dùng bút ký
của một kẻ xa lạ tên Phrăng-xoa Pơ-ri-ê để nói về con người vua Gia Long, một
"khối cô đơn khổng lồ" (tr. 293) nhưng "khủng khiếp ở khả năng
dám bỡn cợt với Tạo hóa, dám mang cả dân tộc mình ra lường gạt, phục vụ cho
chính bản thân mình" (tr. 296), về những tự nhiên bất lực của nhà vua đối
với "đời sống nghèo khó và những trì tệ của dân tộc ông". Ông không
tin học vấn có thể cải tạo giống nòi (...) vì thói hủ nho và thủ dâm chính trị
sẽ không bao giờ tạo được những quan hệ trong sáng" (tr. 297). Gia Long
được phản huyền thoại hóa, còn Nguyễn Du được huyền thoại hóa là người
"đại diện cho nhân dân ở phần u uất nhất, trữ tình nhất nhưng cũng đáng
thương nhất". Quan hệ giữa chính trị và nghệ thuật cần phải đánh giá lại,
như là điều kiện để xây dựng lại đất nước sau chiến tranh.
Một Nguyễn
Du nòi tình, thương dân "thông cảm với những đau khổ của các số phận đơn
lẽ mà không hiểu nổi nỗi đau khổ lớn của dân tộc" (tr. 295) đối chọi với
một Gia Long có bổn phận "làm cho lịch sử sinh động hẳn lên", sẽ là
sức đẩy của khối toàn dân, nếu không có sức đẩy này, "cả cộng đồng sẽ mọc
rêu, mùn nát" (tr. 296-297). Nhưng một Nguyễn Du "đứa con của cô gái
đồng trinh kia (nước Việt), dòng máu chứa đầy điển tích của tên đàn ông khốn
nạn (Trung Quốc) đã cưỡng hiếp mẹ mình. Nguyễn Du ngập trong mớ bùng nhùng của
đời sống, còn vua Gia Long đứng cao hơn hẳn ngoài đời sống ấy. Người mẹ của
Nguyễn Du (tức nền chính trị đương thời) giấu giếm con mình sự ê chề và chịu
đựng với tinh thần cao cả, kiềm chế. Phải ba trăm năm sau người ta mới thấy điều
này vô nghĩa" (tr. 296). Ôi trí thức !
Với ba đoạn
kết, nhưng không một kết cục lịch sử của các sách sử! Tất cả đã nằm trong sự
phỏng đoán huyền hoặc ! Lịch sử rọi sáng
cho hiện tại. "Triều Nguyễn của Vua Gia Long lập ra là một triều đại tệ
hại: ... triều đại để lại nhiều lăng" (tr. 302). Triều đại nào? Thời nào ?
Ba truyện
vừa nói trên tiếp nối nhau qua nhân vật Quách Ngọc Minh, một người Mường ở Đà
Bắc, người đã kể các truyện ấy cho tác giả. Ba truyện như một điều nghiên lịch
sử qua gia phả và truyền tụng, qua ngõ ngách của gần-như-thật. Cả ba truyện vẫn
bị giới phê bình trong nước đặt nhiều nghi vấn, hồ nghi Nguyễn Huy Thiệp viết
với quan niệm coi thường "những nhân vật chiếm vị trí đặc biệt trong lịch
sử và tình cảm dân tộc" (2), dám coi anh hùng và kẻ cướp như nhau, cái làm
cho khác là "lý tưởng", nhưng đôi khi lại mù mờ.
Con Gái Thủy
Thần tên Mẹ Cả, nhận vật huyền ảo. Chuyện một cuộc kiếm tìm huyền ảo trong một
đời thực khốn khó. Ảo và thực, ảo hay thực ? Ảo: "Thuyền chòng chành sắp
ụp, mọi người đành vứt trống xuống cho Mẹ Cả. Mẹ Cả ngồi trên mặt trống đánh
thùng thùng. Thế là sấm tan mưa tạnh. Mẹ Cả ôm trống lặn xuống đáy sông"
(tr. 110). Thực : "Phép biện chứng, theo tôi là sự tiến lên, bất chấp khó
khăn, đại để giống như giấc mơ của tôi cày Gò mả ngụy. Quy luật phủ nhận, tôi
nghĩ nó giống như trận đòn thù đê tiện của bọn đô Thi, tôi căm ghét nó, nó
thành quy luật thì phải trả thù, phải nện đau hơn nó đã nện mình. Tôi học lịch
sử, hoàn toàn lẫn lộn về cách phân kỳ" (tr. 119).
Những Ngọn
Gió Hua Tát, chùm mười chuyện trong bản nhỏ : một loại ký ức tập thể.
"Thung lũng Hua Tát ít nắng. Ở đây quanh năm cứ lung bung một thứ sương mù
bàng bạc nên nhìn người và vật thì chỉ nhìn thấy những nét nhòa nhòa đại thể mà
thôi. Đây là thứ không khí huyền thoại. (...) Hua Tát là một bản nhỏ cô đơn.
Người dân ở đây sống giản dị, chất phác. Công việc nương rẫy nhọc nhằn vất vả.
Cả việc săn bắt cũng thế. Tuy nhiên người dân ở đây lại rất rộng lòng mến
khách. Đến Hua Tát, khách sẽ được mời ngồi bên bếp lửa, uống sừng rượu cần với
xeo thịt rừng sấy khô" (tr. 433). Không khí huyễn ảo của âm dương không
biên giới, một nơi con người nay "đã biến thành đất bụi và tro than cả.
Tuy vậy linh hồn họ vẫn bay thấp thoáng
trên các "khau cút" nhà sàn" (tr. 434). Nàng Bua, một người đàn
bà nghèo và lang chạ chín đứa con không cha khi đào được hũ vàng phúc chốc trở
thành giàu và được quý mến. "Đáng lẽ ra Bua sẽ sinh với người chồng được
thừa nhận của mình một đức con nữa, đứa con thứ mười, nhưng người đàn bà ấy
không quen sinh nở trong sự đầy đủ và nền nếp cổ truyền. Nàng đã chết khi trở
dạ đẻ giữa đống mền chăn ấm áp" (tr. 445)
Trương Chi
thanh nhã trong truyền kỳ trở thành con người thô tục, từ đầu đến cuối truyện
chỉ biết nói "cứt" "đái". Và một kết truyện cũng khác:
"Tôi biết giây phút rốt đời Trương Chi cũng sẽ văng tục. Nhưng đấy không
phải là lỗi ở chàng. Mỵ Nương sống suốt đời sung sướng và hạnh phúc. Điều ấy
vừa tàn nhẫn, vừa phi lý. Lẽ đời là thế." (tr. 342).
Chảy Đi Sông
Ơi : truyện đời, thế sự. Lão Thịnh, người của nhiều thời hay không thời nào cả.
Truyện ấu thời chạy theo ảo ảnh thấy trâu đen. Và tiếng hát bên kia sông :
"Chảy
đi sông ơi
Băn khoăn
làm gì ?
Rồi sông đãi
hết
Anh hùng còn
chi ?" (tr. 16)
Nơi bến Cốc
đó, cô Thắm cứu nhiều người chết đuối, nhưng cuối cùng khi cô bị đuối thì chẳng
ai cứu cho, phải chết.
Nguyễn Thị
Lộ người tình của Nguyễn Trãi, công thần nhà Lê. Sau chiến tranh, Nguyễn cô đơn
không bạn, không tri âm tri kỷ. Thị Lộ trở thành kẻ tâm đầu: "Con người
hành hạ nhau, lăng nhục nhau. Nàng nhận ra mối quan tâm của Nguyễn là to lớn.
Ông là một nhà duy mỹ, trước hết là nhà duy mỹ. Đạo đức duy mỹ chất chứa hiểm
nguy, chất chứa phiêu lưu nhưng nó sâu sắc, không bịp bợm, hẳn nó giá trị gấp
triệu lần thứ đạo đức duy lý trắng trợn của trật tự bầy đoàn" (tr. 321).
"Nàng biết ông đang chạy tế lên phía trước trong hệ thống tư tưởng đương
thời, vừa hung hãn, vừa tuyệt vọng" (tr. 327). Khi đã trao thân cho nhau,
Nguyễn mới nhận ra ông "cháy bùng như một ngọn đuốc dẻo dai, kiên cường
cho đến trót đời. Nguyễn Trãi đã trải qua không biết bao nhiêu thăng trầm, bao
nhiêu đau đớn, bất hạnh, bao nhiêu niềm vui, nỗi buồn, bao nhiêu vinh quang kể
từ ngày ấy. Không một người thường nào có được số phận lạ lùng như ông trong
500 năm nay. 500 năm, tức năm thế kỷ." (tr. 329).
Mưa Nhã Nam
: chuyện anh hùng Đề Thám. "Hùm thiêng Yên Thế" của Nguyễn Huy Thiệp
là "một anh hùng, cũng là một người nhu nhược" (tr. 403). Anh hùng
cũng có những cái hữu hạn. "Đề Thám phóng ngựa vào rừng. Mưa quất vào mặt
ông bỏng rát. Ông bỗng òa khóc. Ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất cả
những hữu hạn của chính mình, của mỗi người. Đề Thám sụt sùi như một người
thường; một anh bán bánh da mật ở chợ Kế, một viên công chức quèn, một chàng
thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo... Ông khóc như một người nhu nhược nhất
đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn
phận, nghĩa vụ, cương tỏa. Ông khóc như chưa bao giờ là một anh hùng, một người
khởi nghĩa. Đề Thám đi suốt đêm mưa trong rừng. Người ta kể rằng sáng sớm hôm
sau ông cầm đầu một toán quân đánh đồn binh Pháp ở Kép, tất cả binh sĩ trong
đồn đều bị giết sạch. Từ đấy chấm dứt thời kỳ hòa hoãn giữa ông và người Pháp
"(tr. 417).
Chút Thoáng
Xuân Hương : chuyện Hồ Xuân Hương và Tổng Cóc. Tổng Cóc ham mê tình dục nhưng
cũng hay chán chường "ông ngờ ngợ bà to lớn hơn ông, bà mạnh mẽ hơn, sống
có dũng hơn" (tr. 186). Với Ấm Huy, Xuân Hương "gieo ở lòng chàng một
nỗi kính phục và sợ hãi" (tr. 189). Chỉ Xuân Hương mới thật sự là một con
người lớn, cao. Ông phủ Vĩnh Tường mất, mọi người quanh bà "chỉ là nhân
chứng cho sự tồn tại của một con người : nàng Hồ Xuân Hương mặc áo xô gai đang
nức nở khóc cho nỗi cô đơn mênh mông của cõi đời..."(tr. 196).
Trong một số
tác phẩm, khung cảnh câu chuyện và cái đẫy đưa có tính cách cổ tích. Tác giả
như muốn nhắc nhở để duy trì, phát huy những phong tục tập quán hoặc luân lý
tuy cổ nhưng phổ biến, vẫn cần cho xã hội đương đại của ông. Cổ tích luân lý là
ở trong thể loại này.
"Ngôn
ngữ trở nên ghê tởm, nhớp nhúa trên miệng bọn tiểu nhân
Tôi biết một
thứ ngôn ngữ giản dị như đất
Thứ ngôn ngữ
mộc mạc, thẳng băng
Tựa như
tiếng tù và
Như tiếng
kèn đồng
Như tiếng
chuông vọng...
Có một thứ
ngôn ngữ thức tỉnh con người
Buộc họ soi
vào lòng mình như soi mặt xuống lòng hồ
Có thứ ngôn
ngữ của người anh hùng, của người chính trực
Nó làm ta
bối rối xúc động
Ta không
trốn được
Thứ ngôn ngữ
không hề phù phiếm, cũng chẳng tân kỳ
Thứ ngôn ngữ
của giống nòi truyền lại
Thứ ngôn ngữ
của lương tri không bao giờ mất..." (Mưa Nhã Nam, tr. 413-414).
3.
Nhờ thể
huyền thoại, Nguyễn Huy Thiệp có những đoạn truyện như là thơ, một thứ thơ dân
gian, xa chốn văn minh giả tạo và dối trá. Truyện và kịch ông hay xen kẽ những
đoạn thơ mà tác giả coi như là một phương tiện diễn tả dễ dàng hơn văn truyện.
Như để tả nỗi lòng Trương Chi :
"...Nỗi
buồn của ta ơi
Như cục đá
đè nặng tim
ta
Nào ai thấu
?
Phía xa kia
là quê nhà
Tuổi trẻ mờ
sương
Những ký ức
mờ sương..." (tr. 330)
Hay đề cao
chốn thôn quê:
"Hãy
dừng lại đi, dừng tất cả
Dẹp mọi âm
thanh cuộc sống xô bồ
Dừng một
chút
Lắng nghe sự
tĩnh lặng tuyệt đối..." (Những Bài Học Nông Thôn, tr. 262)
Đất, núi và
nước là những yếu tố sinh động làm nên đất nước. "Thiên nhiên không hề dối
trá !" (CTXH, tr. 193). Đất là lẽ sống; muốn sống cần phải sản xuất. Không
gian núi rừng là nơi con người phát triễn. "Rừng vô tình, vô cảm, thản
nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Rừng muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản nhiên,
lạnh lùng, tàn nhẫn. Tất cả đều đẩy con người về nơi tận cùng ý thức cá nhân
chính nó. Con người tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần sinh
linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, vừa bất lực, nó chớp đôi mắt phấp phỏng lo âu
trong tâm hồn nó và tự hỏi mình : là ai? đi đâu? thế nào? làm gì? tiến đến đâu?
bao giờ thành tựu? bao giờ kết thúc?" (Mưa Nhã Nam, tr. 415). Núi rừng bao
phủ cả 10 chuyện Những Ngọn Núi Hua Tát.
Nước là nhu
cầu sống còn của con người và muôn vật như trong Chảy Đi Sông Ơi, Con Gái Thủy
Thần. Nước không vui không buồn; bắt cá là để sống mà uống nước thì phải nhớ
nguồn. Nhưng nước cũng là tai họa cho con người, làm chết đuối nhiều người, làm
chết cả cô Thắm, người đã cứu nhiều người chết đuối (Chảy Đi Sông Ơi). Con Gái
Thủy Thần từ biển nhập vào đời trần, còn tôi "Trước mặt tôi là dòng sông.
Sông chảy ra biển, biển rộng vô cùng. Tôi chưa biết biển... Thế mà tôi sống nửa
cuộc đời rồi đấy. Thời gian cũng thao thiết trôi. Chỉ ít năm nữa đến năm
2000" (tr. 138). Hạn hán, không mưa, con người và thiên nhiên cũng không
thể sống : "Con sống trung thực, dầu biết trung thực bao giờ cũng chịu đau
khổ thiệt thòi. Tuy nhiên, nếu lòng trung thực chuộc được tội lỗi và mang tình
yêu đến được cho thế gian này, xin trời mưa xuống..." (Những Ngọn Gió Hua
Tát, tr. 450).
Đạo làm
người, trung đạo, là đạo đứng giữa Trời và Đất trong vị thế Tam Tài, là đạo
khó. "Đàn ông thằng nào có tâm thì nhục. Tâm càng lớn càng nhục" (tr.
46). Khó vì "Trong thiên hạ không phải chỉ có người đâu, có các thánh
nhân, có yêu quái" (Thương Nhớ Đồng Quê, tr. 380). Qua các truyện đã kể,
làm người khó và khó! Khi đất ở lắm người nhiều ma, nói như Nguyễn Khắc Trường
(1990), khi thổ ngơi cùng khốn khiến những đứa trẻ phải chết già, như Nguyễn
Bình Phương đã phác ghi năm 1994!
4.
Người đọc
Nguyễn Huy Thiệp như chìm đắm trong không khí truyền kỳ của Lĩnh Nam Chích Quái
và Việt Điện U Linh Tập mà đa số như những cắt nghĩa văn hóa về nguồn gốc dân
tộc Việt, về ý niệm quốc gia hay về con người trên mảnh đất văn hiến này. Trả
lời một phỏng vấn ở Seattle, Nguyễn Huy Thiệp đã xác nhận: "Khi viết văn
tôi luôn luôn tìm lại những giá trị truyền thống. (...) Tôi nghĩ một nhà văn
phải bắt đầu từ những kinh nghiệm nguyên thủy nhất của dân tộc mình. Tóm lại,
phải đi từ con người Việt Nam nguyên thủy, con người Việt Nam từ nguồn gốc, từ
đó lần về sau" (3).
Truyện và
kịch của Nguyễn Huy Thiệp huyền thoại mà rất "đời" và
"tục". Ông có tài làm người đọc chìm đắm trong thế giới hoang dã, bịa
đặt, đồng thời gây thích thú, tâm đắc; ông tự đáp ứng một nhu cầu hình như
không khác người đọc. Có thể ông có ẩn ý hạ bệ thần tượng và quá khứ như nhiều
người vẫn phê bình, dù sao cũng có thể hiểu ông muốn đưa ra trước ánh sáng
những oan khuất, sai lầm. "Nói rằng một xã hội có tôn ti là một điều tự
nhiên, nhưng nói rằng tất cả mọi cái trong xã hội đó đều trật tự chạy việc là
một điều phi lý" (C. Lévi-Strauss, Anthropologie structurale).
Huyền thoại,
Nguyễn Huy Thiệp không muốn theo lối mòn nhị nguyên, có ác thì tất phải có tốt.
Ông phác họa cái xã hội sơ nguyên, có khi thô sơ, hoang dã. Buổi sơ khai, tâm
tình nguyên thủy, với tiềm thức và bản năng của thời đại. "Phải là người
mơ mộng và nghiêm khắc mới hiểu rằng biết hoặc không biết, đều chỉ là những ước
lệ mơ hồ, có tính lịch sử và hạn chế" (Phẩm Tiết, tr. 304). Nếu Lan Khai
và Tchya thời tiền chiến đưa người thị tứ đến thám hiểm những nơi rừng núi và
dùng cái nhìn của người thị thành để quan sát, thì Nguyễn Huy Thiệp đưa người
đến đó và ở lại đó. Đồng thời ông lạnh lùng với cái ác, với tai ương, nhất là
khi cái ác ở ngay chính bản thân mỗi người. Nhảy một bước, Nguyễn Huy Thiệp xen
vào chính trị. Những thần tượng, "thần thánh" được nghiêm khắc xét
đoán. "E bỉết, những người dũng cảm sẽ mãi mê với sự nghiệp của mình"
(NNGHT, tr. 447). Nguyễn Huy Thiệp hạ cấp một số thần tượng lịch sử vì ông coi
họ là tương đối và thời nào cũng có, đồng thời ông trần tục hóa họ, mặc cho họ
cái áo vải tầm thường của con người đầy sân si, như Nguyễn Phúc Ánh ăn nói tục
tằn "Thằng mặt xanh kia! Kề miệng lỗ còn dê ư? Ta cho cắt dái mày! Ta cho
mày ăn cứt ! "(Phẩm Tiết, tr. 313). Và cũng tàn nhẫn, dâm ô và háo sắc
không thua gì Nguyễn Huệ!
Ông có cái
nhìn luân lý, dạy đời, nhưng cũng có khi lững lơ, ai hiểu sao đó cũng được. Có
thể ông tỏ ra muốn đóng vai Tư-mã Thiên ghi chép chuyện đời kẻo sẽ bị mai một,
xuyên tạc, như lời ông phủ Vĩnh Tường ; "Dân ta cực khổ. Tôi trông vào đâu
cũng thấy xót xa. Phải lấy lý lẽ văn chương và sự công bằng pháp luật hướng đạo
dân mình... Tôi muốn sĩ phu và bậc cha mẹ con dân phải hiểu...". Trong khi
đó có người như tri huyện Thặng "coi quan trường là nơi kiếm sống (...),
ăn no ngủ kỹ, làm tròn bổn phận đối với triều đình" (CTXH, tr. 191). Còn
người trí thức? Trong Những Bài Học Nông Thôn, người quê mùa dân giả mất lòng
tin nơi giới có học: "... sự ngu dốt của bọn có học tai hại thế nào, vừa
phản động, nó vừa nguy hiểm, lại vừa mất dạy. Sự ngu dốt của bọn có học tởm gấp
vạn lần so với ở người bình dân (...). Vì chúng giả hình. Chúng nhân danh lương
tâm, đạo đức, mỹ học, trật tự xã hội, thậm chí nhân danh cả dân tộc nữa. Chính
trị không cao siêu sẽ nhầm lẫn" (tr. 264). Trong Không Có Vua, lão Kiền
kết luận "Quân trí thức bây giờ toàn phường phàm phu tục tử". Khảm
bênh "có thực mới vực được đạo" liền bị lão hỏi "Bọn chúng mày
bây giờ thì vực Đạo gì ?" (tr. 76).
Huyền thoại
trong nội dung câu chuyện và trở thành một nghệ thuật ngôn từ, chữ nghĩa:
"Về sau, Bình ngã nước, râu tóc rụng hết, gầy tọp đi, da vàng như nghệ,
chỉ nằm chờ chết. Bình có một thanh kiếm gia truyền, sắc như nước, sống kiếm đổ
chì, sức chém khủng khiếp...." (KS, tr. 281). Huyền thoại là con đường hợp
lý và văn khác sử ở chổ có thể khai thông những bế tắc lý luận. Nửa sự thật
không là nửa ổ bánh mì, nói như một nhà văn khác cùng thời. Nhà văn của thời
Đổi Mới, hơn cả thập niên xa thời chiến tranh bom đạn, thời "đạo" của
chế độ và chủ nghĩa lung lay, Nguyễn Huy Thiệp tha hồ phạm tội "kỵ húy, sử
thi"; cư xử như người "ngoại đạo" bên cạnh một đa số "phải
đạo" với sứ mạng và bổn phận, với những vinh quang đang lùi dần vào bóng
tối nhường chỗ cho đô-la, Coca Cola và những đồ phế thải của văn minh kỹ nghệ
người. Ông có cái may mà những nhà văn nghệ chuyên nghiệp hay được trả lương,
tem phiếu không có hay không dám có.
Thể huyền
thoại khiến Nguyễn Huy Thiệp hay úp mở, gợi tưởng tượng. Hay không thật sự kết
thúc, vì không có kết; hay kết cũng huyền hoặc như dẫn đưa của đầu và thân
truyện. Nguyễn Huy Thiệp có những kết truyện đặc biệt như trong Vàng Lửa, ba
kết thúc khác nhau như thường thấy ở những chuyện truyền kỳ. Và cũng có những
cái kết mở ra chân trời rộng lớn, như trong Con Gái Thủy Thần. Hoặc kết thúc
văng tục chửi đời như nói giùm "nghệ sĩ" Trương Chi.
5.
Huyền Thoại
Phố Phường : những con người trần tục, những thù tạc và diêm dúa hình thức.
Nhân vật Hạnh mò cả cái rãnh đầy bùn bẩn, lỏng bỏng cả phân người, để lấy lòng
tin của gia đình người bị mất nhẫn. Hai thế giới giàu và nghèo, đạo đức và tham
vọng, chung quanh chiếc vé số.
Thương Nhớ
Đồng Quê : Nguyễn Huy Thiệp dùng biểu tượng để nói đến xã hội đương đại của
ông. Chuyện nhà quê, ô nhiễm bởi đời sống mới, người tỉnh thành. Nguyễn Huy
Thiệp đã dị thường hóa cái xã hội đương đại đó, một xã hội Đổi Mới Cởi Trói
trên lý thuyết nhưng đầy gò bó, tầm thường, khó khăn, đầy tương phãn và tàn
nhẫn. Ông bôi đen bức tranh xã hội với một ngòi bút truyền kỳ, như nói chuyện
thời khác. Ở đây, người nghệ sĩ Nguyễn Huy Thiệp là sản phẩm, phản ánh xã hội
ông sống, ông tỏ ra bất lực dù đầy thiện chí.
Bên cạnh có
những truyện có tính cách hiện thực nhưng cũng lọt vào trong lược đồ luân lý,
như Không Có Vua với Đoài trí thức tha hóa thực dụng đến bỉ ổi ép vợ đi xin
tiền đứa em trai dù vợ đã hỏi ngược lại "Anh bắt tôi làm điếm à? Hiến thân
cho nó à?" (tr. 517). Một gia đình mất hết tôn ti vì tiền như cái xã hội
chẳng ra gì. Làm cha như lão Kiền, độc ác, dâm bôn. Tên sáu đứa con là những
quẻ dịch Cấn, Đoài, Khiêm, Khảm, Tốn trong khi con dâu lại là Sinh, là cái đinh
của sự sống tình cảm và thể xác của cả đám cha con, tụ điểm âm của mọi dương
lực đến chỗ thụ thai mà không biết con của ai. Truyện sau viết lại dưới dạng kịch
với tựa Quỷ Ở Với Người rồi đổi lại là Gia Đình.
Từ huyền
thoại bước sang truyện dị thường chỉ là một bước nhỏ, khi tác giả phải nói đến
thực tại và đời thường hôm nay. Dị thường vì quá tầm với của con người và dị
thường vì có dụng công của tác giả muốn gây suy nghĩ nơi người đồng thời và cả
xã hội đang giao động! Nếu huyền thoại thường lạc quan thì thể loại dị thường
là tột cùng của bi quan đến độ mất cả xúc cảm, tư duy! Truyện dị-thường thường có
một hình thức quá đà căn bản, nó đang lấn đất, chiếm hữu thực tại để dễ buộc
thực tại nhận chân sự bất lực, bó tay cũng như những yếu điểm, vết rạn - là
những điểm mà hình ảnh quá đà, những hình ảnh không thể tả sẽ hiện rõ! Truyện
dị-thường mở ra với cái rỗng không, một vắng mặt mà các tác giả của chúng chỉ
tìm cách làm trầm trọng thêm. Truyện gây ảo tưởng về một thế giới mà tác giả
chúng không còn tin tưởng.
Người viết
vì chủ đích dị thường, gây suy nghĩ, xét lại, có thể có vẻ vi phạm luật tự
nhiên hay thông thường của kiếp sống, kể cả phạm thượng, xúc phạm người xưa như
Gia Long, Quang Trung, Nguyễn Du trong Vàng Lửa, Phẩm Tiết,và Kiếm Sắc, Đề Thám
trong Mưa Nhã Nam, hoặc người trên, người cha đã chết (Tướng Về Hưu). Truyện này cũng như Con Gái
Thủy Thần, Những Người Thợ Xẻ ... đã mở
rộng thế giới dị thường đồng thời đẩy con người vào vực tối của lý trí. Tối tăm
mặt mày vì dị thường ở chỗ đáng ra phải bình thường, ấm
ức, khôn nguôi và những tại sao! Cứ viết về những siêu nhiên tuyệt vời như xưa,
những trăm trứng, Trọng Thủy Mỵ Châu, ..., hình như chỉ làm con người thật và
chốn thật chậm đến, nhất là những con người xấu xa và những chốn tối tăm tiềm
ẩn trong mỗi chúng ta, những con người hình như quá đẹp mã và lịch sự! Ông tướng,
Mẹ Cả, Thị Lộ, Đề Thám, anh linh lịch sử, ... đáng sợ; nhưng chính những
con ma này đến để giải phóng những hãi sợ tập thể có khi đã thành nếp, khiến
hãi sợ đối đầu, tranh đấu! Như trong Thương Nhớ Đồng Quê, huyền thoại trở thành
dị thường vì con người bất lực mà hiện thực thì tàn bạo!
Truyện
dị-thường đã và đang là một kinh nghiệm văn chương mới, báo hiệu thời văn
chương hậu hiện đại - thời phê phán chủ nghĩa hiện thực cổ truyền nhưng đồng
thời tìm cách vượt xa những phạm trù phổ quát thời đại bằng cách tra vấn, bằng
những vô định và đặc thù địa phương. Cái từng được xem đã giải quyết xong, văn
chương mới sẽ lôi ra đặt vấn đề thay vì chỉ khiêm tốn để giữa hai ngoặc đơn.
Cái thực tại, cái dĩ nhiên sẽ trở nên mơ hồ và khả dĩ. Để đặt vấn đề rõ hơn,
tra vấn dễ hơn, làm bộc phát mạnh hơn. Tác giả mới thay hiện thực bằng một siêu
thực có ý nghĩa hơn, xứng đáng hơn. Truyện dị-thường không còn phải biện hộ cho
xác-thực, cũng không phải bảo vệ gia tài văn hóa nào. Chúng bơi lội trong môi
trường văn hóa, chúng xác tín cái đáng tin, cái rất người! Muốn khỏi áp dụng
luật hình thức, lấn đất mọi luật lệ. truyện dị-thường trở nên môi trường giải
phóng cho mọi công việc chữ nghĩa. Truyện dị-thường có tính thời đại, có vấn đề
đưa ra như những mệnh đề mới cho tư duy trên đường đi đến một bản ngã văn hóa
nhân loại. Phía Tây phương, Guy de Maupassant đã là những phô diễn truyện
dị-thường có thẩm mỹ học cuối cùng. Những tưởng phân tâm học đến sau đó đã phá
nát thành trì thơ mộng dị-thường. Nhưng không, văn chương thế giới đã thấy
truyện dị-thường phục hưng trở lại. Nay phân tâm tập thể, tìm cho ra tính lịch
sử của đời sống, của mỗi hay mọi sát-na, của cuộc chơi làm con người! Tác giả
có thể mơ mộng thiết tha hay nghiêm khắc lạnh lùng, cái chủ quan của tác giả
vẫn có thể động đến nhiều người. Truyện hư cấu hay giả định nhưng phải là kinh
nghiệm của tác giả!
6.
Sau khi đến
với người đọc một loạt sáng tác nhờ gặp thời Cởi Trói, những truyện bình thường
về tiêu cực, hủ hóa, đổi mới như Vết Trượt (Văn Nghệ 40, 4-10-1986), truyền kỳ
như Những Chuyện Kể Bất Tận Của Thung Lũng Hua Tát (Văn Nghệ số Tết Đinh Mão
1-1987), Nguyễn Huy Thiệp thành hiện tượng với truyện Tướng Về Hưu (Văn Nghệ
20-6-1987). Nhưng thời bỉ cực chỉ chậm đưa đến thị trường, chuyên chính vẫn là
chuyên chính; lối thoát thái lai hãy còn xa trong bụi mờ. Dù đã nỗi tiếng, vẫn
nghèo, có khi ông phải gửi truyện dự thi để có tiền. Năm 1994, bỏ viết, ông mở
quán Hoa Ban, lại nhờ thời kinh tế "xã hội chủ nghĩa quá độ", rồi ông
Mỹ du. Hành trình văn nghiệp của ông không khác huyền thoại, như những ngọn gió
!
Huyền thoại,
ngụ ngôn cũng như dị thường là những thể văn đặc biệt. Tuy nhiên trong một xã
hội mà nhà văn phải dùng đến các thể nói trên để nói chuyện hiện thực hình như
có cái gì trục trặc, không ổn thỏa. Nếu tổ tiên ta vì sự sống còn của nòi giống
đã dùng huyền thoại để truyền một số ý nghĩa văn hóa, khôn ngoan lại cho con
cháu thì việc người hôm nay phải xử dụng đến hình thức đó có cái gì không tự
nhiên. Cũng như cách mạng, 80 năm sau, 41 năm sau, đã trở thành một dĩ lỡ, sai
lầm./.
10-11-1997
NGUYỄN VY KHANH
_____________________
Chú thích :
Chú thích :
(1) Để đơn
giản, trong bài viết, các truyện và kịch đều trích dẫn từ tập Như Những Ngọn
Gió (Hà Nội: Nxb Văn Học, 1995. 732 trang) là tuyển tập đầy đủ nhất và được tác
giả sửa bản in, gồm 24 truyện ngắn và 5 kịch bản.
(2) Nguyễn Văn
Bổng, Văn Nghệ 3-9-1988.
(3) Mary
Thiên Yên Lê. "Phỏng vấn nhà văn Nguyễn Huy Thiệp". Thế Kỷ 21 số 93,
1-1997.
No comments:
Post a Comment