Người xưa như tác giả Truyện Kiều,
viết về chuyện tình dục là với điển tích (Ra tuồng trên Bộc trong dâu; Vòng
ngoài bảy chữ vành trong tám nghề), hay dùng nghĩa bóng (Tiếc thay! Một đóa
trà mi / Con ong đã mở đường đi lối về). Dục tính không thật có với văn chương
cổ điển vì những tính cách ước lệ, trí thức và hình thức. Không có sáng tạo, cá
tính, do đó không cần cả tác giả, phải chăng đó là một lý do của hiện tượng vô
danh của tác phẩm thời xưa?
Dục tính khác thô tục, tục tĩu, như
áo mỏng dính với trần truồng, dâm thư dĩ nhiên không phải là tác phẩm văn
chương. Henry Miller mà tác phẩm từng bị cấm ở quê hương của ông, trong
Obscenity and the Law of Reflection đã xem dâm tục (obscenity) xuất hiện trong
văn chương như một kỹ thuật, không liên hệ gì đến dâm thư (pornography). Dục
tính như một giá trị chỉ nhắm đánh thức, khêu dậy, dẫn nhập, đem ý nghĩa đến
cho thực tại cuộc sống . Đối với Việt Nam, dục tính chỉ thực sự xuất hiện trong
văn học ở thế kỷ XX, bước đầu bởi nam giới và dục tính luôn chỉ có ý nghĩa
trong một văn hóa, trong một xã hội. Dâm tính trở thành yếu tố tiểu thuyết, gia
vị hấp dẫn cho tác phẩm. Thời Nhất Linh, dâm tính chỉ chớm thoáng qua, như
trong truyện ngắn Tháng Ngày Qua, nhân vật Giao trọ học nhà bạn, đã dám ... để
ý đến vợ bạn, "bốn mắt gặp nhau (...) cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo
mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ,
nồng nàn như đắm tình..." (1). Các tác giả thời này kể chuyện tình yêu,
nhưng ít người đi vào chi tiết làm tình hay tả chân thân thể người nam hay nữ.
Vũ Trọng Phụng, Trọng Lang,... từng bị kết án là khiêu dâm, thực ra họ chỉ có ý
trình bày bộ mặt khác, trái, của xã hội, nêu lên những tệ hại, có ý giáo dục,
hướng thượng. Phùng Nguyễn trong Bia Ôm (2) tả "đôi vú nhỏ mềm nhũn và âm
hộ nhầu nát" hình như cũng không có
mục đích viết dâm thư! Trước 1975, Lê Xuyên đã bị tố viết văn khiêu dâm, trong
thực tế tiểu thuyết của ông chỉ tả cảnh tả tình những hẹn hò, những ăn chơi
trắc tréo dài dòng nhưng không mấy tả chi tiết cảnh làm tình; kẻ lên án chỉ
chứng tỏ đạo đức giả hoặc chưa từng đọc qua.
Tạp chí Sáng-Tạo vào thập
niên 1960 ở miền Nam, đã đăng nhiều truyện đầy dục tính của các tác giả về sau
không đi tiếp nghiệp văn, như Duy Thanh (Khép Cửa, Thằng Khởi, Chiếc Lá,...),
Thạch Chương (Tinh Cầu,..). Giải phóng tình dục “hôm nay” là một trong những
chủ trương văn nghệ của nhóm. Thạch Chương tức nhạc sĩ Cung Tiến sau này lúc
bấy giờ viết truyện ngắn "hiện sinh" và là lý thuyết gia cho khai phá
này, trong bài "Giới thiệu một nhận thức siêu thực về nghệ thuật" đã
viết : "... Chúng tôi muốn quay lại vũ trụ hoang sơ dục tình nguyên vẹn
mà tâm hồn mỗi kẻ còn trinh như sữa. Nhưng là cái tinh khiết đáng sợ của con bò
rừng. Nghệ thuật hôm nay là sự biểu lộ một "furie du total", một
tiếng gọi quay trở về rừng sâu thẳm mà ở đó còn vẳng lên những tiếng cười điên
mê, những tiếng la cuồng dại vọng về từ trăm thế kỷ của bản năng thuần túy.
(...). Nghệ thuật hôm nay còn được biểu tỏ mãnh liệt trong tình yêu ngọt ngào
của xác thịt, hay "tình điên". Dục tình, như có người đã nói trên mặt
báo này, là động lực độc nhất của thế giới. Đọc .. phần lớn những tác phẩm của
D.H. Lawrence, ai mà không cảm thấy vật dục mình xao xuyến, một thứ xao xuyến
rất nghệ thuật, rất siêu thực, rất trắng, rất tinh khôi...". Lý do ông
đưa ra vì sống trong một thời đại "sống trong cái thế trên đe dưới búa,
một bên là tự do tuyệt đối cá nhân, một bên là áp bức chính đáng..."
(3).
Trong truyện Thằng Khởi, Duy Thanh
để cho nhân vật xưng Tôi, một cô gái 16 tuổi, muốn ngủ và rồi ra tay "hiếp
dâm" một thằng gánh nước người Chàm: "Tôi đã để ý đến nó năm tôi 16
tuổi. Cái vẻ đẹp man rợ ngu xuẩn ấy mang cho tôi nhiều ý nghĩ dâm dục. Tôi chắc
rằng thằng Khởi chưa hề ngủ với ai bao giờ (...) Thằng Khởi vẫn ngủ trong lều.
Đôi môi dầy của thằng Khởi mấp máy và vị nước bọt của nó sền sệt nhạt nhẽo. Tôi
lay nó dậy. Thằng Khởi chồm lên chắc định la làng nhưng tôi bít miệng nó lại.
Mắt nó mở to có vẻ ngạc nhiên lắm, nhưng cũng ngồi im. Rồi đưa tay quờ vào
người tôi. Hơi thở của nó và của tôi hừng hực trong đêm tối..." (Sáng
Tạo, 21). Cũng Duy Thanh trong truyện Chiếc Lá để nhân vật là cô gái 18
tuổi "thích thay đổi, từ vấn đề ái tình, sinh lý, không khí, đồ
ăn,..." và không thích cái gì quen hoặc vô nếp cả. Khi còn là cô bé 15
tuổi, cô ta đã ngủ với anh rể vừa để trả thù chị mình vừa tìm cảm giác:
"Tôi muốn đo cái độ dục của hắn khi hắn ngủ với chị ấy thế nào. Cũng lạ,
cái cảm xúc ấy lúc đề phòng trước thì thấy tầm thường hết sức. Tôi thấy cái
hình thù sát cạnh mình đến vô nghĩa..." (4).
Nhưng người tả cảnh thật sự dục tính
đầu tiên có thể là Lê Hoằng Mưu, chủ bút Lục Tỉnh Tân-văn, tác giả Hà
Hương Phong Nguyệt (1915), Oán Hồng Quần (tức Phùng Kim Huê Ngoại
Sử, 1920), nhất là với Người Bán Ngọc (1930-31), dù văn còn ảnh hưởng
biền ngẫu và câu chuyện xảy ra ở Trung Hoa nhưng nhân vật và khung cảnh rất
Việt Nam. Một câu chuyện tình cổ điển gần 400 trang, nhưng suy nghĩ, ngôn ngữ
và hành cử của nhân vật cũng như cách diễn tả tiểu thuyết có tính thật của đời
sống lúc bấy giờ. Người bán ngọc đây là Tô Thương Hậu giả phụ nữ bán ngọc để
gần gũi và trờ thành tình nhân của Hồ phu nhân"trững mỡ" trong hai
năm chồng đi buôn xa, trước là đồng tình luyến ái, sau trai gái thật khi Thương
Hậu không cầm lòng được đã để lộ cái "oan gia".
"Vén mùng rồi vừa gạt chưn để
lên giường, xẩy thấy một tòa thiên nhiên, lịch sự như tiên giáng thế, làm cho
người bán ngọc mảng mê nhan sắc trố mắt đứng nhìn, quên bổn phận mình, mưu sự
tệ tình, bất cẩn, ... Thấy Hồ phu nhân mê mẩn giấc nồng sổ đầu, nằm bỏ tóc, xấp
xả khó gìn cho đặng. Bèn sẽ lén lấy mền đắp bụng cho Hồ phu nhân; rồi lại muốn
đưa tay rờ rẫm vuốt ve cho thỏa. Không dè, mới thò tay vừa tới bụng sợ phập
phồng nó làm cho tấc dạ bồi hồi, tay rung lập cập. Người bán ngọc không dám rờ!
Lật đật thục tay vào rồi xây mặt ngó quanh quẩn bên mình, ... Vuốt qua vuốt
lại, rờ xuống rờ lên đôi ba phen mà Hồ phu nhân mê mẩn không hay, người bán
ngọc thấy vậy mới dễ ngươi, ái tình lại dồi long tà dục... muốn kề má hôn cho
phỉ dạ. Có một điều là rờ rẫm vuốt ve thì không sao, chớ hễ muốn kề má xuống
hun, thì lại hườn cựu lệ, trống ngực đánh rầm rầm, chân tay run lẩy bẩy... đổ
mồ hôi ướt đẫm như người bị cảm mạo phong sương... dục thúc quá dằn long không
tiện, ngườI bán ngọc bèn gượng đưa tay ra rờ cái ngọc cốt phi phàm ... Rờ tới
đâu chết điếng tới đó,..."
(5).
*
Văn chương dục tính có khuynh hướng
đi với nữ quyền. Hồ Xuân Hương - giả dụ có một Hồ Xuân Hương thật, tác
giả những bài thơ Nôm tục lưỡng nghĩa, bà đã phải gò bó trong lối thơ hai nghĩa
thời bấy giờ, đê nói lên những dồn nén và những đòi hỏi nữ quyền, "chém
cha cái kiếp lấy chồng chung". Ở Việt Nam, cho đến giữa thập niên 1960,
tác phẩm của các nhà văn nữ đã là những đóng góp làm đẹp cho đời, cho thế giới
văn chương dù với tính cách bên lề, ngoại lệ. Thật vậy, đối với văn học chữ
quốc ngữ thì năm 1927, bà Tương Phố với Giọt Lệ Thu đã thật sự khởi đánh dấu sự
có mặt của nữ giới trên văn đàn chữ nghĩa. Thụy An với Một Linh Hồn
(1942), Bốn Mớ Tóc (1950, ký Lưu Thị Yến) nhìn ra cuộc đời, Anh Thơ với Răng
Đen (1943) rồi Nguyễn Thị Vinh với Thương Yêu (1953) đã bắt đầu nói
đến thân phận người đàn bà trong đời sống đại gia đình, trong khuôn khổ phong
hóa - họ không sống cho cá nhân mình. Thụy An, Nguyễn Thị Vinh nói đến số phận
những thế hệ phụ nữ đã phải sống trong đứt đoạn, nghịch lý khó khăn giữa giáo
dục thời thiếu nữ và thực tế ở đời khi trở thành phụ nữ ! Linh Bảo với Những
Đêm Mưa, Tàu Ngựa Cũ xuất bản cùng năm 1961, đã nhẹ nhàng khởi nêu vai trò
người phụ nữ. Đến Nhã Ca, người nữ tình yêu đã lãng mạn và mạnh mẽ nhưng chiến
tranh và trách nhiệm đã khiến đôi lứa và gia đình quan trọng hơn cá nhân. Nói
như Virginia Woolf, họ vẫn quanh quẩn trong "những hành lang tối ám của
lịch sử". Người đàn bà sinh ra
sống cho gia đình, lo cho cha mẹ, cho em, rồi khi rời gia đình thì rơi vào gia
đình khác, lo cho chồng, cho con rồi cho cháu, ăn ở có đức, rồi chết ... theo
đúng lễ nghi, phong tục! Người phụ nữ cho đến giai đoạn này chỉ đi tìm hạnh
phúc!
Phải đến Túy Hồng, Nguyễn Thị Hoàng,
Nguyễn Thị Thụy-Vũ và Trùng Dương, văn chương mới trở thành phương tiện cho nữ
quyền và quyền sống. Thật vậy, từ cuối thập niên 1960, người viết nữ đã mạnh
bạo đi xa hơn, tự tin hơn và những vấn đề phụ nữ được chính thức trương lên chữ
nghĩa. Cái Tôi, nhân vật chính, nội dung, tình cảm, tình yêu, tình dục, ...
không còn là của riêng những nhà văn thơ phái nam. Hơn là những "hình ảnh
người nữ" trong tác phẩm viết bởi nhà văn nữ hay nam, từ Khái Hưng, Nhất
Linh,.. đến Hồ Trường An, Nguyễn Thị Phong-Dinh,v.v.
Lê Thị Thấm Vân, một nhà văn hải
ngoại đã phát biểu rằng:"Trong quá khứ, văn chương tình dục đa phần viết
bởi ngòi bút đàn ông. Văn thơ kể, nói, chỉ, "dạy", diễn tả, ... những
cảm xúc, "cách thức" rung động, thèm muốn, bày tỏ (thay cho) người
đàn bà" (6). Văn chương dục tính hay có dâm tính lại do người nữ viết hình
như hấp dẫn hơn vì cũng hình như có tính tự thuật nhiều hơn. Vì từ nay, người
nữ làm chủ con người, tư duy, tình cảm và cuộc đời của họ trong văn chương. Làm
người nữ, với văn chương! Simone de Beauvoir trong Le Deuxième Sexe
(1949) đã phát động cái ý thức nữ quyền đó khi hô hào "On ne nait pas
femme, on le devient". Trong văn chương, trong ngôn ngữ vì là cái có thực,
có sự sống. Như vậy, viết trở thành hành động tự xác định của người phụ nữ, trở
thành phát ngôn viên chính thức của con người phụ nữ, tiếng nói chính thức và
từ tình dục.
Từ thuở tạo thiên lập địa, nếu theo
truyền thuyết sáng thế từ Adam Eva thì Eva đã phạm tội ở vườn địa đàng, Adam
dại gái nên bị cám dỗ; thân phận phụ nữ gãy đổ ở gốc cây táo từ đó. Đến lúc xảy
ra phong trào đòi nữ quyền, người ta bắt đầu thấy phụ nữ lộ diện trên mọi sân
khấu và đến cuối thế kỷ XX thì sân khấu gần như nhường hết cho các bà. Từ thập
niên 1960, họ "lấn" thêm chuyện cái giường và thân xác. Họ gạt bỏ vòng
cương tỏa tình dục nam quyền để làm lại thế giới với hình ảnh và dục vọng phái
tính của họ. Marguerite Duras đã cho nhân vật nữ chủ động trong tình yêu: "Il
a arraché la robe, il la jette, il a arraché le petit slip de coton blanc et il
la porte ainsi nue jusqu’au lit. Et alors il se tourne de l’autre côté du lit
et il pleure. Et elle, lente, patiente, elle le ramène vers elle et elle
commence à le déshabiller" (7). Không xa nơi cô đầm Sadec, thập niên
1960 đã có một thế hệ nhà văn nữ như Trùng Dương đã tỏ tinh thần độc lập, dứt
khoát tự giải thoát khỏi những ràng buộc của chế độ phụ hệ, cả trong động tác
làm tình: "Một lúc nàng nới lỏng tay ra , thôi hôn tôi, mắt say đắm. Tôi
nghe tiếng nàng nói qua hơi thở : Em lên anh nhé? Tôi khẽ gật đầu. Diệu xô tôi
nằm xuống giường và lên người tôi. Diệu thường mở màn bằng cách đó. Hình như
nàng tìm thấy cái thú nằm trên người tôi, một cái thú khá man dại và cũng chóng
tàn"(8). Thử so với Loan của Đoạn Tuyệt chỉ muốn được đọc sách tiếp rồi
ngủ sau đã phải đưa đến án mạng!
Hoặc các nhà văn nữ lên tiếng chống
lại những thân phận tùng thuộc, nhận chịu, chờ đợi. Họ vạch mặt những qưyền lực
đàn áp của định chế chính trị, của xã hội, của đồng lõa phái nam. Cái Tôi trước
cái "anh, mày" tức người đối diện, trước cái Ta, cái chúng ta! Cái
Moi của Simone de Beauvoir là cái Tôi xồ xề, sung túc ! Từ đó tình yêu có thêm
nhiều hình dung từ, ngoài những tình yêu lý tưởng, cao thượng, đau khổ, ... lỗi
thời, nay thêm tình yêu bản năng, tình dục, tự do, đổi chác, khoái lạc, cả tình
yêu phút chốc, bồng bột, hiểm nghèo, ...
Về điểm này, người viết nữ thời nay như muốn trở lại thời bán khai, tự
nhiên, giải phóng tình dục khỏi những quy ước của hôn nhân, phong hóa. Đi xa
hơn, không chỉ đòi bình quyền, còn tự chứng minh tự xác tín cái cá biệt
"nữ", khác biệt về tình dục, về xúc cảm thân xác, về kinh nghiệm và
cả ngôn ngữ. Họ làm chủ cơ thể, cảm xúc và tư duy. Trùng Dương trong Mưa
Không Ướt Đất chẳng hạn cho nhân vật lý luận triết lý, truyện có tính cách
lý luận hơn là sống nếu muốn gọi đó là hiện sinh. Xưa kia nhà văn nam viết,
phân tích tâm lý mọi người thì nay các nhà văn nữ muốn phân tâm đàn ông và tự
phân tâm! Một loại "văn hóa" mới, năng động và cách tân phái tính. Họ
không ngừng ở thể loại nhật ký, thi ca, tiểu thuyết , mà đi xa hơn, làm chủ cơ
quan văn nghệ, lên tiếng phỏng vấn, thuyết trình, ... Nhưng chính với văn
chương, với tiểu thuyết và thi ca như phương tiện, mà người nữ lên tiếng, phát
biểu, làm chứng.
Lệ Hằng thời trẻ xảnh xoẹ đi tìm
hạnh phúc, hạnh phúc là ái ân, da chạm da, nói như Phượng Uyên trong Thung
Lũng Tình Yêu chỉ muốn "thiên đường chính là vòng tay, là mùi hương
đàn ông, là hơi thở của chàng. Tôi không tìm nữa một cảnh bồng lai, vì đôi môi
người yêu, giọng nói người yêu, và đôi mắt chàng, là giòng sông tình ái, là
rừng say sưa là suối bất tử đời đời tắm mát tình yêu " (9). Sẽ đòi hỏi hơn
với Sóc Nâu là chuyện tình yêu khả thể với một người bạn nam Dũng, kiểu "
Em thèm được làm một người đàn bà. Dưới tay anh, dưới thân thể anh, và dưới
tình yêu của anh nữa... Dũng ơi ... Hãy
trở thành một người đàn ông với em đi" (10).
Với Túy Hồng trước 1975, nhân vật nữ
luôn đầy sức sống vùng vẫy trong một xã hội tù túng, ngộp thở. Họ luôn muốn phá
đổ những lễ nghi, cung cách, những nếp sống phụ hệ, gia phong theo họ đã lỗi
thời. Dục tính, mà một số nhà văn nam phê bình bà trước 1975, đã bị gán ghép,
đồng hóa với thái độ và lối sống tự do, theo bản năng giấu dưới những mỹ từ
tình yêu, tình bạn. Hãy còn bóng bẩy, rụt rè hiện thực, cùng lắm qua lời nói, ý
nghĩ như nhân vật nữ trong Vết Thương Dậy Thì (1967): "Hãy ngậm em
giữa hai môi dầy trác táng, uống em đi, nuốt em đi ừng ực. Chỉ vẽ cho em cách
chế cà phê và cách chui vào lòng anh để thao thức cồn cào tỉnh người bỏ ngủ vì
đã liếm em trên đầu môi chót lưỡi, đã ngậm, đã nuốt ực em vào anh
rồi"(11). Người nữ đi thẳng, nói trắng : "nếu yêu em thì đừng đi
quanh nữa (...). Anh hãy cho em đi con đường ngắn nhất, con đường độc đạo của
tình yêu" nói như bạn cô giáo Cam Thảo, nhân vật Thở Dài, trong khi
cô thì viết thư thúc người yêu cưới mình!
Trần Thị Ng.H. qua Lạc Đạn -
viết năm 1973, và một số truyện ngắn đăng báo trước 1975 cũng đã, qua văn
chương, tự xác nhận, ra tay để phá đổ huyền thoại phụ nữ như là đối tượng, xây
dựng lại tương quan với người khác giống, đảm nhận tự do, một cách lạnh lùng,
dứt khoát, dù vẫn cho thấy một loại bất mãn, dồn nén! Nơi thái độ, như hối hận
sau liên hệ đồng tính với Thắm, sau khi đã "ôm nhau như đôi tình thân.
Thắm rà đôi môi nhỏ trong cổ tôi, đôi vú non căng nở phập phồng, hốt hoảng. Tôi
kinh hãi xúc động dầm dề. Tôi muốn la lớn trong cơn khoái cảm mộng mị và kì
cục...". Như sau khi chấp nhận trò chơi "đau xé nổ tung đầm đìa. ..
đỏ lòm oan uổng" với "người đàn ông lạ mặt", rồi phải "dỗ
dành chỗ mềm yếu nhất, dỗ ngọt, săn sóc" đã xác tín - trong ý tưởng, với
người mẹ âu lo rằng "con trinh bạch không tội lỗi, con nguyên vẹn của
má" (12). Tình yêu, tình người ở đây, không là những bất ngờ! Trong các
truyện ngắn khác ở tập này và tập Tập Truyện Ngắn Trần Thi Ng.H. (1999),
bà còn nói đến những mặt trái, tội ác, cái chết tự xử, cái chết người khác,
những cái chết dàn cảnh!
Cách mạng tình dục tiếp tục với văn
học hải ngoại : Đỗ Kh., Khánh Trường, Trần Vũ, Trân Sa, Lê Thị Thấm Vân, Nguyễn
Thị Hoàng Bắc,... Bài này chúng tôi nhìn qua phía các nhà văn nữ, họ lên tiếng
về những âu lo, tâm tình mà lâu nay nhất là ở Việt Nam ít thấy. Những âu lo của
Đoàn Thị Điểm, Bà Huyện Thanh Quan thanh cao quá, trừu tượng quá, Hồ Xuân Hương
nếu là tác giả thật những bài thơ về tính giống và tác động phòng the, cũng vẫn
ở ẩn dụ, bóng gió, không trực tiếp, trốn trong cách thế nho nhã! Nhà văn nữ
Việt Nam ở hải ngoại nói thẳng những lo âu thực tế, sờ được, cảm được, không cần nhiều ngõ quanh, đi vòng.
Sinh lý hết được xem như cấm đoán, lại được xem như đòi hỏi chính đáng, tình dục
trở thành nhu cầu tự nhiên, phải có, không thiên kiến và mặc cảm phạm tội, cả
có khi ngây thơ trong tìm kiếm. Tự nhiên và chấp nhận trò chơi trăm phần trăm,
với tấm thân sẵn đó, như đó!
Nói chung, phụ nữ chống văn minh,
văn hóa dựa trên quyền hành đàn ông, phụ quyền, chống Tây phương kỹ nghệ định
nghĩa đàn ông ở khả năng sáng tạo và chế biến sự vật. Phụ nữ chống văn chương như một nền chế, họ thích
mặt trận "ngôn ngữ" hơn, thích phổ dương liên hệ trực tiếp với chữ
viết cũng như với thân xác. Phụ nữ Mỹ
châu đòi quyền lợi, họ dấn thân, xuống đường, lập nghiệp đoàn,... ít cho người
đọc thấy dây dưa tình cảm. Ngôn ngữ không quan trọng, cái quan trọng là chống
đàn áp, đô hộ của đàn ông . Trong khi đó ở Pháp và Âu châu, ngôn ngữ được đặt
lại vị trí, thẩm mỹ học, một loại phản văn hóa đặt nền trên sự đè nén. Người
viết nữ xây lại nội dung, cấu trúc lại những ngõ thoát, lối ra của ngôn ngữ.
Sướng khoái thể chất đi với sướng khoái lời nói, chữ dùng. Thêm vào, những
khuynh hướng mới về tiểu thuyết như hậu thuộc địa (postcolonial) là một loại
diễn văn muốn thay thế những quan điểm đã được thiết lập trước về lệ thuộc và
vâng lời bằng quan điểm hoàn toàn ngược lại, đề cao tự lập cá nhân và tự chủ.
Xây dựng lại nội dung bằng đường thoát ngôn ngữ. Lạc thú thân xác đi liền với
lạc thú ngôn ngữ, đến sau lạc thú ngôn ngữ. Người nam đi vào văn để tìm hoặc
nếu đã thấy, trình bày lý thuyết, triết lý hay một "nghiệp", người nữ
thì đến để thực hiện cái tôi, xác định cái tôi, cá nhân. Và họ đi vào tình dục.
Sex được dịch là hữu-tính (tự điển Thanh Nghị), làm như không sex là số
không to tướng! Đưa đến những cuộc sống ...ngoại lệ: đàn bà không sanh con,
đồng tính luyến ái, lãnh cảm (Jane Austen, chị em Emily và Charlotte Bronte,
Simone de Beauvoir, George Eliot, ...). Sống đời thế tục, tận hưởng phút giây,
lãng mạn tình yêu đến tự do tình dục!
Người nữ sống đời hải ngoại hội
nhập, choáng ngợp giữa những lạ-lẫm (exotic), đầy ắp và choáng ngợp trước tự do
ở xứ người, tự do tuyệt đối và cá nhân chủ nghĩa, từ vật chất, thân xác, tình
cảm,.. Có thể họ muốn giả vờ, trưởng giả , nhưng lại không giữ lề, thích tự do
ngoại tình,.. Có người đi đến thái độ hài hước đen, ngầm nữ quyền. Người nữ
những thập niên cuối thế kỷ XX choáng ngợp tự do, tình dục, đi xa hơn cô giáo
Hoàng. Cái giường hết còn là ám ảnh chính như với Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Túy Hồng
(từng viết "cái giường là đồ vật tội lỗi nhất trong những đồ vật"
trong Vết Thương Dậy Thì),... Sau chiến tranh, nhân vật Túy Hòng sống
trong chia cách và đời sống mới, trở nên yếu ớt, căng thẳng, vô định trước
tương lai, lại tăng dâm tính, tình dục trở nên cách hành xử hoặc tác động xác
thân lên trên tình cảm. Đây là một hiện tượng từng chứng minh với những biến
động lớn như vụ không tặc Tháp Đôi ở New York ngày 11-9-01. Để xóa căng thẳng
và tái xác nhận đời đáng sống, cái sống đáng trân trọng, một tâm trạng sống
sót, cho nên buông thả tình dục, với cả người mới quen. Cứ Tay Che Thời Tiết "có thể chờ chồng nhưng tôi không thể
thủ tiết được" cho nên cứ "xoạc mông xoãi đùi đu bay lẫn lộn trong
bát ngát tự do rì chặt chữ tình làm cứu cánh" (tr. 73), cuối cùng mới thấy
chỉ là ảo tưởng, lãng mạn. Ảo mộng vun trồng vẫn hóa ra mộng ảo, con người
không dễ thay đổi lớn !
Nhân vật Mưa của Lệ Hằng trong Bên
Kia Là Núi (1998) một khi ra được ốc vỏ văn hóa cũ (cô giáo, vai chị), đã
lồng lộn thụ hưởng đời sống tình dục hơn cả người tình Phi châu Saba của Hãn.
"... Cô bỗng khùng lên, cánh đồng khô khát của cô ghì lấy Hãn. Chưa một
lần nào, Hãn thấy cô tả xông hữu đột truy bức thân thể Hãn dữ dằn hơn. Gầm gừ
mê mỏi, hào hển đứt hơi. Cuồng lên vì lạc thú, cô làm Hãn kích ngất vì những
rung cảm khốc liệt của cô... "(13).
Như vậy, nay chính thân xác là đối
tượng, là đề tài chính! Với Trân Sa và một vài nhà văn nữ, tôn giáo ngưng lại ở
chỗ tình dục; tình dục không những tháo gỡ cấm đoán mà còn vô hiệu hóa cấm
đoán. Tình yêu khác tình dục, cái sau cũng làm ... tình nhưng hết mình, chính
xác, một chuyện. Làm tình phức tạp hơn, đòi hỏi con tim, lời nói, cử chỉ, cả
văn hóa. Làm tình, trò chơi thân xác, tựu trung là một khoảng trống cần thiết,
một chiến thuật đầy đủ, cũng là cách thức sống, một cách biểu tỏ, một phương
tiện hiện hữu thể chất, máy móc - là những thứ nếu thiếu, thì cái còn lại chỉ
là phó sản, hiện tượng phụ. Làm tình cũng là một cách học hỏi bằng tự xóa. Tình
dục trước khi là hiện tượng xã hội, văn hóa, đã là thân xác.
Khi tay anh xoa xoa
xà phòng vào “nơi ấy”,
nắng bên ngoài rực sáng thêm một chút nữa.
“Nơi ấy” giờ thì mềm xìu, bé tí, bình thường như vành tai, chóp
mũi, khuỷu tay, đầu gối, gót chân… như bất cứ phần nào trên thân thể anh.
Trước đấy một giờ. Nó cương cứng, nóng hổi, hùng hổ
trong miệng em, giữa rãnh ngực em, trên mông em. Nó cố đâm
thấu-xuyên-sâu-qua bao lớp da thịt để vào trong em. (Là nó, chẳng thuộc về ai).
(Lê Thị Thấm Vân, Căn Phòng 2.2
Âm Thanh Sóng) (14).
"... Suốt một buổi chiều / Yêu dọc từ dưới lên - và xuống / Từng lằn chỉ
- khớp - từng phân li thịt da / Nhập một / ấm áp - rịn - ướt / Suốt một buổi
chiều / Không ngớt / Nghiêng - xoay - cong - mềm mại / Cọ - trườn - lướt / Sau
- trước / Những điệu thuần nữ / Có khi là một / Hai - ba - hoặc cả năm / Yêu
khắp cùng lòng kia ưỡn ngã xuống như sóng / Và lượn úp lên - uốn chụp xuống /
Đan khít mười / Không rời / Không một kẻ hở / Tuần tự - tất cả / Ngoài và trong
- không một bỏ trống / Gò và trũng / Suốt một buổi chiều / Hai bàn tay lần đầu
yêu nhau / Suốt buổi chiều / Trong căn phòng..." (Trân Sa, Động Tác Yêu) (15).
Thế giới ẩm ướt, trò tình dục không
được một số nhà văn nữ Lệ Hằng, Trần Thị NgH, Trân Sa, ... coi là cấm đoán hay
lớp áo mỏng che. Broadway ở New York còn đưa lên sân khấu vở Độc thoại của cái
l. (Vagina Monologues) của Eve Ensler trong ngày được gọi là V-day, địa đàng
trở nên ẩm ướt mà đối với một số nhà văn nữ, cái ẩm ướt cũng là căn cước của
họ. Với họ, tình dục là tự nhiên và những hành cử tình dục cũng như bộ phận
sinh dục bị bêu xấu hay không nói đến chắc là để làm dơ, làm xấu, làm mờ phai
chính hành cử đó, đối tượng đó. Nên họ làm ngược lại!
Dương Như Nguyện đưa vào đời sống
hội nhập Mùi Hương Quế (2000), một mùi thơm của tiềm thức và một thân
xác của-lạ để đối phó với thực tại vật chất của xứ người. Một cái nhìn xuyên
suốt tâm thức văn hóa gốc khi sống đời hội nhập và thành công ở xứ người. Nhân
vật Trâm Kha chẳng hạn hội nhập nhanh: "Trong giai đoạn đầu, tôi tình
nguyện ngủ với hắn" (tr. 138), chạy theo tình dục như lâm trận tranh đấu
cho nữ quyền, và trên ngay phần đất cơ thể chính mình. Tâm thức về cái thân phận nữ phái, qua những
nhân vật thân thích gia đình của bà. Qua nhiều thế hệ: bà ngoại, Tĩnh Tâm, ...
Cũng là mùi thơm của oan khiên, tiếc nuối. Trong một truyện ngắn, Như Mưa,
Nắng...?, Nguyễn Thị Hoàng Bắc kể một chuyện tình đồng tính giữa hai người phụ
nữ như một chớm nở pha lẫn nghi ngờ:
"Tôi không lesbian, nhưng yêu
(...)
Tôi run động ngẩn ngườị Ai là tôi,
khi tôi/ai thích chuyện này, khi tôi/ai mê cái khác? Tôi/ai biết quá đại khái
về ai/tôỉ Như mưa nằng tầm phàỏ" (16).
Rồi những khám phá như S. Hite về
điểm cực khoái của thân xác phụ nữ năm 1976, người nữ hết phải chờ, hết cần
được cho; muốn là tìm cho được, hối thức, vồ vập... Người nữ vô tình đánh mất
tình cảm đã đành mà mất luôn "ngây thơ tình dục", gia vị thiết yếu
cho đam mê, tình yêu, gây quyến rủ. Người viết nữ giới từ ý muốn làm chủ văn
chương về phái nữ, đã đi đến chổ làm chủ ảo mộng cho người nữ bởi người nữ.
Naomi Worlf, một người tranh đấu nữ quyền Hoa Kỳ nổi tiếng, sau những đòi hỏi
triệt để đã quay 180 độ, trở về tự nhiên, chủ trương "nữ quyền làm
mẹ" (motherhood feminism) trong mấy cuốn như Fire with Fire,
Misconceptions đòi hỏi quyền làm việc đồng thời làm mẹ. Vì hai hình ảnh
chính của văn chương nữ phải là người mẹ và người nữ, nên thành
đề tài, lý do và thể loại xử dụng và ngay cả việc tận dụng ngôn ngữ.
Trên đà đấu tranh bình quyền, thuốc
ngừa thai, của thập niên 1960, người phụ nữ đã bớt hoặc không còn làm mẹ. Thuốc
ngừa thai khiến người phụ nữ không phải mặc cảm tội lỗi ! Ngay có con đã có
cách cấy giống khỏi cần yếu tố dương, nghĩa là xa hơn thái độ của nhân vật của
Trần Thị Ng.H. trong truyện Sinh Nhật (17) định nghĩa một người mẹ/người nữ
mới, một mình nuôi con, không cứ phải qua định chế hôn nhân. Và rồi bộ phận có
tuyệt vời đến mấy cũng chỉ là một ... cơ quan, cái thiếu vẫn là liên hệ, luật
âm dương kinh dịch từng nói đến! Cách mạng tình dục đã là hậu quả của cách mạng
nữ quyền, nhưng đã đảo lộn mục đích-đối tượng. Thập niên 1960 họ đòi trả thân
xác cho họ nhưng khi thân xác trở thành chính cái Tôi thì thân xác lại chiếm
nhiều chỗ quá. Nhục dục từ chỗ bị dồn nén, trở thành khuôn mẫu, khoái lạc, là
cấm kỵ trở thành totem (tổ vật), không sanh đẻ, trục trặc nhục dục (libido),
cái giống trở nên buồn thiu sau khi tả tơi máy móc hóa, tầm thường hóa (chương
trình truyền hình Sex and the City ở Mỹ). Thân xác không tình yêu, từ đối tượng
trở nên chủ thể của nhục dục!
Chống đề cao giống mạnh, nam quyền
macho, phong trào nữ nêu khẩu hiệu "đàn bà là tương lai nhân loại, thế kỷ
XXI là thế kỷ đàn bà". Mỗi giống tính không thể rút vào vỏ cô đơn tình
dục, trí thức và luân lý, cuộc sống còn gì thú vị và tương lai! Nay có thể nói
người nữ còn lại bốn ám ảnh chính: tình dục, sợ hãi, bạo lực và khinh rẽ. Nữ
quyền đòi hỏi đến một lúc nào đó sẽ rơi vào chán nản, tình dục cũng thành buồn
thiu. Saba, nhân vật trong Bên Kia Là Núi của Lệ Hằng, sống buông thả và bạo
động tình dục như để chứng minh nữ quyền, cuối cùng đâm ra sợ cả tự do tình
dục. Chưa kể đến hiện tượng tiểu thuyết dành cho độc giả phụ nữ, có khuynh
hướng xem như những tranh đấu nữ quyền đã qua, nay đưa ra những hoàn cảnh nhân
vật nữ bị tiếng sét ái tình hoặc tô điểm một hình ảnh "hoàng tử của lòng
em", mà nếu gặp, người vai nữ dám bỏ hết tương lai sự nghiệp để đi theo -
như trước kia, nhưng khác là nay do nhà văn nữ viết ra! Và cứ thế, những trào
lưu tiếp nối, hết nữ-lưu luận sẽ thuyết lý gì khác?
Không đóng vai luân lý, đạo đức
nhưng đối với văn chương dục tính, thiển nghĩ tính văn chương sẽ không ở lâu
với những quẩn quanh tình dục không lối thoát. Không bắt buộc phải hướng thượng,
nhưng nếu nhân vật, hành động và nội dung của văn chương cứ bị tình dục, thân
xác giam hãm tù đày, định nghĩa về văn chương hình như đã bị hãm hiếp một cách
tội nghiệp vậy! Đây là chỗ khép lại của nhiều thập niên thử nghiệm kể từ khi
nhóm Sáng-Tạo đề nghị buông thả và khai phá tình dục trong văn chương. Cuối
cùng, cũng cần nói thêm là dục tính trong văn chương phải chăng một phần do ở
người đọc - một thứ "cây sậy biết suy nghĩ"; người đọc trở thành đồng
lõa với loại văn chương dục tính ?./.
NGUYỄN VY KHANH
______________________________
Chú-thích:
1. Nhất
Linh & Khái Hưng. Anh Phải Sống (Sài Gòn : Đời Nay, 1961?), tr. 19.
2. Phùng
Nguyễn. Tháp Ký Ức (Westminster CA: Văn, 1998), tr. 97.
3. Sáng
Tạo b.m., 5, 11-1960, tr. 97-102.
4. Sáng-Tạo
b.m., 1, 7-1960, tr. 26-32.
5. Sài
Gòn : Đức Lưu Phương, 1931. Trích theo bản chụp lại.
6. Văn
học CA, 124, 8-1996.
7. L’Amant.
Paris : Minuit, 1984.
8. "Miền
Chân Trời". Văn (SG), 31, 1965, tr. 76.
9. Sài
Gòn : Gió, 1973, tr. 276-277.
10. Lệ
Hằng. Sóc Nâu, XT tb, tr. 242.
11. Sài
Gòn : Kim Anh, 1967, tr. 87.
12. Trần
Thị Ng.H. Lạc Đạn Và Mười Truyện Ngắn (Toronto: Thời Mới, 2000), Tr. 67, 43 và
47.
13. San
Francisco CA: Mõ Làng, 1998, tr. 183.
14. Tạp
chí Thơ CA, số mùa đông 1999.
15. Nhánh
Nhỏ (www.nhanhnho.org), 27, 1-2001.
16. Nguyễn
Thị Hoàng Bắc. "Như Mưa, Nắng...?". Việt, 6, 2000, tr. 181&182.
17. Một
truyện Trần Thị Ng.H. khác, viết năm 1998, in trong Lạc Đạn... Sđd.
No comments:
Post a Comment