Giữa thời Thơ mới (1932-1945) vẫn thường có những cuộc “sơ kết” (chữ dùng của nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân) và những tiểu kết, tổng kết, chung kết về từng tác giả, tác phẩm, hiện tượng, trào lưu, nhóm phái… hướng theo từng loại báo chí, từng tác giả, từng năm, từng thời kỳ, giai đoạn v.v…
Ở đây chúng tôi giới thiệu bài viết Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết điểm của Hà Nhân (bút danh của Trúc Hà Trần Thiêm Thới, 1909-1943(?), in trên báo Sống (số 28, ra ngày 7-9-1935). Đương thời Tòa soạn báo Sống đặt ở 43 Frère Louis Saigon (nay thuộc đường Nguyễn Trãi, Quận 1, TP Hồ Chí Minh), do nhóm Trí Đức văn đoàn thực hiện (gồm Đông Hồ, Trúc Hà, Trúc Phong, Lư Khê, Trọng Toàn, Quang Đẩu, Bạch Như, Mộng Tuyết); ra số đầu ngày 22/1/1935, đình bản ở số 30, ngày 18/9/1935…
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc
bài viết Phong trào thi ca mới: Khuynh hướng - hiện trạng - đặc sắc - khuyết
điểm của Hà Nhân - Trúc Hà Trần Thiêm Thới, cách nay vừa tròn 77 năm
(Nguyễn Hữu Sơn).
PHONG TRÀO THI CA MỚI: KHUYNH HƯỚNG - HIỆN TRẠNG - ĐẶC SẮC - KHUYẾT ĐIỂM
Hà Nhân
Văn chương với thời thế vốn có
quan hệ mật thiết với nhau luôn. Những cuộc chánh biến trong lịch sử
một dân tộc đều có vang bóng đến nền văn chương của dân tộc ấy.
Văn chương nước ta không vượt
khỏi ngoài vòng công lệ đó được.
Từ khi tiếp xúc Âu học, quan
niệm về gia đình, về xã hội, về nhân loại của người nước ta dần
dần thay đổi. Âu học nhập cảng cho ta một chủ nghĩa mới: chủ nghĩa
cá nhơn.
Ở dưới chế độ đại gia đình,
chủ nghĩa cá nhơn khó được tự do phát triển.
Cá nhơn với gia đình phải cùng
xung đột. Cuộc xung đột bắt đầu chỉ ngầm mgấm ở trong ở trong tâm
não của cá nhơn. Cá nhơn còn yếu thế, còn chịu thua cái sức mạnh
thiêng liêng của gia đình, bởi vậy, chỉ âm thầm ôm những nỗi căm hờn
thất vọng. Trong quyển Tố Tâm, ông
Song An đã vẽ ra cái tình trạng đau khổ của cá nhơn trong cuộc xung
đột ngầm ngấm ấy.
Văn chương, xem đó, đã nhuộm đậm
màu thời thế.
*
Ngày nay, cá nhơn công nhiên khai
chiến với gia đình. Trong bọn thanh niên, một phần đã thoát ly khỏi
vòng gia đình để “thân tự lập thân”. Họ không thích ỷ lại gia đình
cũng không chịu để cho gia đình ràng buộc nữa.
Cuộc xung đột công khai đó đã
bày tỏ trong hai quyển Nửa chừng
xuân và Đoạn tuyệt.
Hai quyển sách ấy được một số
đông độc giả hoan nghinh. Thế là chủ nghĩa cá nhơn có nhiều người tán
thành, hâm mộ.
Lại văn chương với thời thế!
*
Văn xuôi, tiểu thuyết đã theo
thời thế biến đổi từ hình thức đến tinh thần.
Văn thể hiện thời không nặng
nề, không rườm rà, không phiền phức như lối văn ngày trước nữa.
Lẽ tự nhiên, thi ca cũng không
thể giữ mãi lề lối xưa được. Nếu ông Phan Khôi không hô hào cổ động
lối thơ mới thì cũng phải có một người khác đứng ra cổ động cho
nó. Là vì hoàn cảnh đã khiến nó đâm mầm nứt mộng thì không thể
nào - hoàn cảnh vẫn không thay đổi - mà nó không phát sanh.
Muốn vượt khỏi khuôn khổ cũ,
thơ mới phải có những tính cách mới.
1) Không giữ theo niêm luật cũ.
2) Phải có ý tưởng, tình cảm
mới.
Hoặc muốn cho sự biến đổi không
quá bạo động thì ít ra, nó cũng phải theo điều lệ riêng:
1) Diễn những ý tưởng, tình cảm
cũ bằng cái hình thức mới.
2) Đựng những ý tưởng, tình
cảm mới trong các lề lối cũ.
*
Đứng ra hô hào sự cải cách ấy,
phải là một nhà thơ có thiên tài, đã làm được ít nhiều bài thơ mới
thật hay, khiến người ta khâm phục, như thế, công việc cải cách mới
có kết quả.
Ngày trước, trong Phụ nữ tân văn, muốn cổ động cho
lối thơ mới, ông Phan Khôi đưa bài Tình
già của ông ra với những câu:
Hai
mươi bốn năm xưa
Một
đêm vừa gió lại vừa mưa…
Nghe nó chẳng cảm xúc được gì
cả. Tiếp tay với ông Phan, Manh Manh nữ sĩ đẩy ra một tràng thơ mới
nữa, nhưng nó chỉ được cái mới chớ không có cái hay.
Nếu chẳng có báo Phong hóa hợp sức vào thì việc cổ
động biết đâu sẽ chẳng thất bại.
Binh vực và truyền bá thơ mới
được hiệu quả nhiều, bọn thi sĩ mới của báo Phong hóa có công to lắm.
Trong những câu thơ hoàn toàn
mới mẻ như:
Nào
đâu những đêm vàng bên bờ suối
Ta
say mồi đứng uống ánh trăng tan.
Hay là câu thơ điệu cũ ý mới
như:
Ái
ân bờ cỏ ôm chân trúc,
và như:
Mây
hồng ngừng lại sao đèo
Mình
cây nắng nhuộm, bóng chiều không đi.
Người ta nhận thấy cái âm điệu
mới và những hình ảnh, những cảm giác mãnh liệt, dịu dàng, linh
động. Và có nhận thấy chỗ hay, khéo như thế người ta mới sanh lòng
ưa thích.
Quyển Mấy vần thơ của Thế Lữ, bởi vậy, là một lối binh vực cho
thơ mới hùng hồn nhứt.
*
Đã muốn có cái thi thể tự do,
phóng túng, tự nhiên bọn thi sĩ ấy không chịu để cho ý tưởng và cảm
tình của họ bị kiềm chế trong lúc đem nó ra biểu diễn.
Trong thi ca, cái cá tánh phải
được tự do phát triển cũng như trong tiểu thuyết, cá nhơn được tự do
hành động.
Vì thế, đọc thơ mới, người ta
dễ thấy rõ chơn tướng của cá nhân.
Đối với ngoại vật, họ cảm xúc
thế nào, họ diễn hết ra thế ấy. Họ không cần giấu giếm, che đậy sợ
sệt như trước nữa.
Muốn yêu, đang yêu, khao khát
tình yêu, thỏa mãn lòng yêu, bao thứ cảm tình làm rung chuyển trái
tim của họ, họ cố tìm cách diễn ra cho người khác hiểu.
Cho nên phần nhiều thơ mới đều
thuộc về loại thơ đạo tình.
Các thứ tình ngây thơ, trong
sạch, trẻ trung, nũng nịu, họ tả ra rất khéo.
Sở dĩ ngâm vịnh ái tình nhiều
như thế, có lẽ là do cái ý phản động tự nhiên đối với xã hội cũ.
Vì ở xã hội cũ, cá nhơn bị
bó buộc, không được tự do bày giãi mối tình yêu tự nhiên đầy dẫy,
chan chứa trong lòng.
Nay ca tụng cái tình ấy, tức
là tỏ ý phản đối cái chế độ chuyên chế kia vậy.
Ngoài những lúc phụng sự ái
tình, bọn thi nhơn mới cũng có lúc đưa tâm hồn tiêu dao ở những cõi
thần tiên mộng ảo.
Đem câu thơ vẽ vời những mộng
cảnh đẹp đẽ thú vị nhứt là thi sĩ Thế Lữ.
Có người đã bảo Thế Lữ là
một nhà thơ có tiên cốt. Thật thế, những bài “thơ tiên” của Thế Lữ
thật là những bức tranh tuyệt đẹp.
Đại khái như:
Trời
cao, xanh ngắt, ô kìa!
Hai
con hạc trắng bay về Bồng Lai.
Theo
chim, tiếng sáo lên khơi,
Lại
theo giòng suối bên người Tiên Nga:
Khi
cao vút tận mây mờ,
Khi
gần vắt vẻo bên bờ cây xanh.
Êm
như lọt tiếng tơ tình,
Đẹp
như Ngọc Nữ uốn mình trong không.
Thiên
Thai thoảng gió mơ mòng,
Ngọc
Trân buồn tưởng tiếng lòng xa bay.
Ở chốn tiên cảnh, Thế Lữ không
quên đặt vào một vài tiên nữ để trang điểm cho phong cảnh thêm nét xinh
tươi, tình tứ.
Các tiên nữ ấy chẳng qua cũng
là hình ảnh của ái tình mà thôi. Đối với Thế Lữ, ái tình đã siêu
phàm thoát tục, nó đứng vào trong vòng lý tưởng.
*
Ta có thể bảo rằng thi liệu
của phái thi mới bây giờ chỉ là ái
tình và mộng cảnh.
Vâng, cũng có vài thi sĩ đang
tìm cảm hứng ở nơi khác.
Vũ Đình Liên hay vịnh những
cảnh khốn nạn của hạng người khốn nạn. Nhưng thơ của thi sĩ nầy còn
thiếu cái lực lượng cảm xúc.
Huy Thông cố tả những cảnh cao
rộng nhưng nghệ thuật của Huy Thông còn kém. Nên người ta chỉ thấy
cái cảnh cao rộng nhơn tạo mà thôi. Nó không đủ làm cho người đọc
cảm phục.
Cho nên, cứ như hiện trạng của
nó, thơ mới chỉ hay ở trong vòng yêu
đương, mơ mộng.
Bước ra khỏi hai đầu đề ấy,
ngọn bút của nhà thơ mới đã mất lực.
Tìm trong thơ mới cái chân tướng
của cá nhơn, ta chỉ thấy một hạng người trai trẻ, lanh lợi xinh đẹp,
khi thì vui vẻ đùa bỡn với ái tình, khi thì mơ mộng tiêu dao chốn
Bồng Lai mộng cảnh.
Bởi vậy, có người đã lấy làm
phàn nàn cho phái thơ mới.
Vì họ đã cố sức phá bỏ cái
lề lối bó buộc của thơ cũ, và đạp đổ cái phạm vi chật hẹp của
nó, nhà thơ mới nên có một tâm hồn khoáng đạt, cao siêu hơn nữa mới
được.
Nếu không vậy thì sau cuộc mới
cũ xung đột, sự thắng lợi chưa chắc đã về phái thơ mới.
Bọn cựu học, khi đem thơ mới so
sánh với thơ cũ, tất họ sẽ bảo rằng trong thơ cũ, cá nhơn có cái
trạng thái đáng tôn kính và mến phục hơn nhiều lắm.
Họ sẽ đọc bài thơ của Trình
Minh Đạo:
Buổi
nhàn muôn việc những thung dung,
Ngủ
dậy, hiên đông dọi bóng hồng.
Loài
nọ giống kia dường thỏa cả,
Mùa
nào cảnh ấy sẵn vui chung.
Tình
cao, ưa những gió mây lạ,
Đạo
rộng, suy ra trời đất không.
Giàu,
khó, sang, hèn khôn đổi nết,
Làm
trai đến thế mới hào hùng.
Đó là bài dịch của ông Tùng
Vân đã đăng trong Nam Phong tạp chí.
Nguyên văn:
Nhàn
lai vô sự bất thong dong,
Thụy
khởi đông song nhật dĩ hồng.
Vạn
vật tĩnh quan giai tự đắc,
Tứ
thời giai hứng dữ nhân đồng.
Đạo
thông thiên địa hữu bình ngoại,
Tứ
nhập phong vân biến thái trung.
Phú
quí bất dâm, bần tiện lạc,
Nam
nhi đáo thử thị hào hùng.
để chỉ cái hình ảnh của một
bậc hiền giả biết hòa hợp vẻ đẹp của vạn vật với tính vui của
lòng người.
Hoặc họ ngâm qua một vài câu:
Thu
phong nam mạch vô xa mã,
hay là câu:
Thương
nữ bất tri vong quốc hận,
hoặc câu:
Ba
thu mưa gió tin hồng vắng,
Bốn
mặt non sông bóng ác chiều.
tất nhiên sẽ thấy trên câu thơ
tuyệt diệu âm hưởng rất tốt, bàng bạc một giọng bi tráng, trầm hùng
của hạng thi nhơn cao dật khác thường vậy.
Câu thơ mới nó thường gợi cho ta
cái mĩ cảm trong chốc nát mà thôi. Trái lại, đọc những câu thơ cũ,
như mấy câu trên ấy, cái dư vị và cái thi tứ vẫn còn vang động trong
tâm hồn ta rất mãnh liệt.
*
Tôi không cố ý bài bác thơ mới.
Tôi vẫn công nhận sự cải cách của thi ca là hợp thời lắm. Những câu
đặc sắc của thơ mới đã chứng rằng nó sống được. Hiện trạng của nó
cũng khả quan thì tương lai có lẽ sẽ rực rỡ.
Miễn là nhà thơ mới đừng để cho
cá nhơn được tự do say sưa trong cõi yêu đương mơ mộng thái quá. Nếu
cứ thiên về đó thì thơ mới sẽ thiếu mất cái vẻ hồn hậu cao siêu.
Nhà thơ mới đã tự ví mình là
cây đờn muôn điệu. Tuy ngoài cái điệu nỉ non, man mác, còn có cái
điệu khảng khái lâm ly hoặc khoan hòa cao nhã, chính những cái điệu
sau ấy, cây đàn kia chưa khảy ra được vậy.
Nguyễn Hữu Sơn sao lục
Theo báo Sống (Sài Gòn), số 28, ra ngày 7-9-1935, tr.16-17
Theo báo Sống (Sài Gòn), số 28, ra ngày 7-9-1935, tr.16-17
[1] Dịch: Gió thu thổi trên con đường hướng nam vắng bóng ngựa xe -
Một mình bước lên lầu cao, bàn hoàn vì tình cố quốc.
gia sư
ReplyDeleteday kem