Nhà
thơ, nhạc sỹ Nguyễn Trọng Tạo
Về làng ăn Tết. Đường làng vừa rải nhựa không còn lầy lội như trước nên dù mưa lướt thướt người vẫn đi nườm nượp. Đêm giao thừa, cái loa xã phát cả CD 14 ca khúc của tôi. Nhiều người mới biết hóa ra chú Tạo (họ thường gọi tôi thế) cũng sáng tác nhiều bài hát. Thấy ấm áp lạ. Chợt nhớ có bài viết vừa đăng báo Tết, đưa lên đây để cảm tạ làng quê.
Làng tôi chiều 28 Tết Nhâm Thìn
Tôi sinh ra ở một làng quê bên dòng
sông Bùng uốn lượn như muốn ôm lấy tre xanh mái rạ trước khi hòa vào biển đông
rộng lớn. Tuổi nhỏ cùng bạn đội nắng dong trâu trên những cánh đồng ven đê ngạt
ngào hương lúa hương ngô. Ở đó có những điệu dân ca ví dặm quê kiểng lấp lánh
ánh trăng hòa vào lời ru của mẹ. Ở đó có những bài hát về làng quê cứ nuôi lớn
tâm hồn những đứa trẻ quê: “Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, Có sông
sâu lơ lững vờn quanh êm xuôi về Nam – Làng tôi bao mái tranh san sát kề nhau,
Bóng tre ru bên mấy hàng cau, Đồng quê mơ màng…” (Chung Quân), “Làng tôi
xanh bóng tre từng tiếng chuông ban chiều tiếng chuông nhà thờ rung, Đời
đang vui đồng quê yêu dấu bóng cau với con thuyền, một dòng sông” (Văn Cao),
“Làng tôi sau lũy tre mờ xa, Tình quê yêu thương những nếp nhà” (Hồ
Bắc)… Vâng, những câu hát ấy đã nâng bước lớp trẻ chúng tôi hòa vào mọi làng
quê đất nước. Dù năm tháng chiến tranh đạn bom ác liệt, nhiều ngôi làng bị đốt
cháy tan hoang, nhưng những câu hát êm đềm ấy thì mãi mãi thắp sáng trái tim
con người luôn hướng về làng quê yêu dấu.
Tôi trở về cuộc sống thanh bình sau
một cuộc chiến tranh dài, không hiểu là mình đã thành Nhà thơ, thành Nhạc sĩ từ
bao giờ. Thi ca và âm nhạc như một cứu cánh trong những tháng ngày luôn cận kề
cái chết. Chính vì vậy mà chúng tôi đã sáng tác ra thơ ra nhạc để tâm hồn luôn
mở cánh. Rồi đến một ngày, tôi thấy 2 bài hát của mình được bình chọn trong 20
bài hát hay về nông thôn ViệtNamhơn 60 năm qua, đó là “Làng quan họ quê tôi” và
“Khúc hát sông quê”. Vậy là đứa con bé nhỏ của làng đã không phụ bóng mát chở
che của tre xanh, mái rạ…
Nếu có người nước ngoài vì khâm phục
sức sống của dân tộc trồng lúa nước này mà đặt ra câu hỏi “Tại sao Việt Nam?”
thi chính tôi cũng đã có lần tự ngạc nhiên về mình mà đặt ra câu hỏi “Tại sao
Làng quan họ…?”. Tôi không phải người làng quan họ, cũng chưa đến xứ quan họ
lần nào mà lại nhận vơ “Làng quan họ quê tôi”? Vâng, đúng vậy, tôi đã coi Làng
quan họ như chính làng mình và đã viết ra bài hát ấy 16 năm trước khi đặt chân
lên đất Bắc Ninh.
Tại sao tôi lại coi Làng quan họ như
chính làng mình? Tôi mê những điệu hát dân ca quan họ. Từ thời máy bay Mỹ ném
bom xuống những trận địa pháo phòng không đặt ở làng tôi, tôi đã được nghe
những anh chị văn công xung kích của quân đội đến làng hát cho bộ đội và dân
làng tôi nghe những điệu hát quan họ mượt mà tơ lụa. Một liền chị trẻ đẹp đội
nón ba tầm mặc áo tứ thân đẹp mê hồn đã hát “Bèo dạt mây trôi” và “Người ở đừng
về”. Quan họ chinh phục tôi từ đó. Mỗi khi nghĩ đến quan họ, tôi lại thấy hiện
lên sông Cầu giống dải bao xanh mà liền chị đã thắt ngang lưng thuở ấy. Và tôi
sợ cái làng quê tươi đẹp của chị cũng sẽ bị bom Mỹ dội xuống tan hoang như làng
tôi. Và tôi mơ thấy làng quan họ của chị luôn rộn rã hội hè dưới rợp bóng cây
xanh cùng những lời hát long lanh cất ra từ đôi môi “lúng liếng” của chị… Tôi
cũng bị quan họ chinh phục bởi phim “Đến hẹn lại lên”. Vâng, bộ phim ấy đã dấy
lên trong tôi tình yêu thương những con người xứ ấy, những con người suốt đời
làm lụng và ca hát, nhưng bao biến động đã vỗ sóng lên số phận không may của
họ. Tôi đã mê những câu thơ đẹp và đau đến nao lòng của “ông Hoàng thơ Kinh
Bắc” Hoàng Cầm khi được đọc sớm bản thảo “Về Kinh Bắc” của ông: “Cúi lạy Mẹ
con trở về Kinh Bắc/ Chiều xưa giẻ quạt voi lồng/ Thân cau cụt vẫy đuôi mèo
trắng mốc/ Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông…” Nhưng tôi đâu biết một ngày
mình sẽ viết ra bài hát “Làng quan họ quê tôi”!
Cho đến khi nhà thơ Nguyễn Phan Hách
đưa tôi bài thơ “Làng quan họ” của anh… Hôm ấy tôi đến làm việc với nhà xuất
bản Tác Phẩm Mới và tình cờ gặp lại anh Hách mới chuyển về làm việc ở đấy. Anh
rất vui vì đêm qua tình cờ nghe được một bài hát mới của tôi, bài “Nụ cười
ViệtNam”, phổ thơ Chính Hữu. Có lẽ vì thế mà anh nảy ra ý định nhờ tôi phổ nhạc
cho bài thơ của anh. Để cho chắc hơn, anh ngồi chép lại bài thơ rồi đưa cho tôi
với một lời nhờ như áp đặt: “Bài này phổ nhạc được ông ạ. Ông phổ cho tôi nhé”.
Tôi nghe toát mồ hôi và lại hơi buồn cười vì sự hồn nhiên của anh. Thơ thì mênh
mông mà mấy bài được phổ nhạc? Nhạc sĩ thì nhiều như lá rừng nhưng có phải ai
cũng phổ được bài thơ của anh? Tôi thấy ngại, nhưng cũng vui vẻ hẹn anh: “Vâng,
tôi sẽ xem và nếu phổ được tôi sẽ hát cho ông nghe để xin ý kiến nhà thơ”.
Chia tay anh, tôi cũng quên mất bài
thơ còn cất trong túi áo. Mấy ngày sau, tôi đem áo ra giặt. Bên cái giếng xây
gạch sứt mẻ của gia đình bà Tâm mù trong làng Khương Hạ (Hà Nội) nơi các nhà
văn quân đội chúng tôi đang ở nhờ, tôi móc túi ra bài thơ anh Hách gửi và đọc
lại. Lúc ấy từ cái loa làng phát ra những điệu hát quan họ mê hồn. Tôi bỗng
thấy bài thơ đang trở thành bài hát trong đầu tôi. Và câu nhạc mở đầu đã hiện
lên. Tôi bỏ lại chậu áo quần bên giếng, vào nhà lấy giấy bút ngồi phổ nhạc cho
thơ. Được nửa bài hát thì kẻng báo giờ ăn cơm tập thể. Nhà thơ Nguyễn Hoa ở
cùng nhà với tôi từ đâu về lấy bát đũa định rủ tôi đi ăn cơm, nhưng thấy tôi đang
say sáng tác, anh lặng lẽ đi một mình.
Phải nói là Nguyễn Hoa rất hiểu tôi,
anh sợ tôi sẽ dang dở mạch cảm xúc. Còn tôi thì hiểu rằng, Nguyễn Hoa sẽ lấy
suất cơm lính về cho tôi. Thế là yên tâm tôi ngồi viết một mạch. Khi tôi viết
nốt nhạc kết thúc thì Nguyễn Hoa cũng đưa cơm về. Tôi bảo xong rồi, và cám ơn
bạn. Anh cười và bảo hát xem nào? Tôi hát cho anh nghe “Làng quan họ quê tôi”.
Anh lặng người run rẩy trong xúc động, rồi nói: “Tôi không biết nhạc. Nhìn vào
bản nhạc chỉ thấy như giá đỗ. Nhưng bài này hay lắm Tạo ạ”. Lời nhận xét đầu
tiên của người bạn khiến tôi rất vui. Lúc đó là một chiều tháng 9 năm 1978.
Ca sĩ đầu tiên hát “Làng quan họ
quê tôi” là Kim Phúc, lúc đó mới 18 tuổi đang học năm thứ nhất tại trường
Âm nhạc Việt Nam, và được nghệ sĩ Tôn Thất Triêm đệm đàn trong đêm giao lưu của
các nhà thơ quân đội với trường. Tiết mục được hoan nghênh nhiệt liệt, khiến
tôi cũng bất ngờ. Nhưng người thu thanh đầu tiên bài hát này là ca sĩ Thanh Hoa
(hát cùng tốp nữ), và được phát sóng trên đài TNVN vào tháng 6.1979. Từ đó nó
trở thành bài hát quen thuộc của người yêu nhạc, rồi được dàn nhạc giao hưởng
Lepzich trình diễn trong tuần văn hóa VN tại Đức, được hãng JVC đưa vào chương
trinh karaoke của Nhật.
Trường hợp tôi viết bài hát “Khúc
hát sông quê” cũng là một bất ngờ.
Năm 2002 hội Nhạc sĩ VN tổ chức trại
sáng tác hợp xướng ở Vũng Tàu, tôi tham gia trại và dồn thời gian viết hợp
xướng “Hạt bụi”. Trong khi đang bí thì ông bạn thơ Lê Huy Mậu rủ đi nhậu. Nhậu
khuya lắm mới về. Trước khi ra về, Lê Huy Mậu đưa tôi mấy bài thơ nhờ xem và
đưa in báo Văn Nghệ cho anh. Tôi về phòng đóng cửa ngủ vùi. Sáng dậy chạy ra
biển tắm cho “giã rượu”. Khi trở về, tôi thấy trên bàn những bài thơ của Mậu.
Chợt nhớ là phải đọc xem sao. Tôi ngồi vào bàn đọc, và khi đọc đến bài thơ dài
“Khúc hát sông quê” thì lặng người xúc động. Thì ra quê Mậu cũng giống quê tôi.
Cũng con sông đôi bờ phù sa. Cũng những kiếp người lam lũ. Cũng lòng yêu thương
và nhân hậu.
quê hương ta nghèo lắm
ta rửa rau bến sông cho con cá cùng
ăn
ta mổ lợn
con quạ khoang cũng ngồi chờ chia
thịt
cá dưới sông cũng có tết như người
Những cậu thơ khiến tôi ứa nước mắt.
Tôi đọc lại bài thơ và chính những
câu thơ đầu tiên đã ngân lên âm nhạc. “Quá nửa đời phiêu dạt/ ta lại về úp
mặt vào sông quê”. Rồi tôi đọc lần thứ ba, chọn lọc và viết lại một số câu
thơ của anh cho hợp với sự phát triển của âm nhạc. Lần này thì toàn bộ bài hát
đã ngân lên trong tôi. Tôi lấy giấy nhạc ra, và chỉ cần chép lại bản nhạc đã
lưu vào bộ nhớ trong đầu tôi. Trong bản thảo đầu tiên của bài hát này được ghi
“Vũng Tàu, ngày 2.9.2002”. Lúc ấy mới gần 8 giờ sáng.
Tôi vui mừng gọi điện thông báo cho
Lê Huy Mậu và bảo anh đến nghe rồi cùng đi ăn sáng. Mậu đến, ngồi trên chiếc
giường trải drap trắng phẳng lì. Tôi pha ấm trà nóng rồi hát cho Mậu nghe. Mậu
nghe chăm chú, đến câu kết thúc thì bất ngờ anh nằm ngã ngửa trên giường, hai
tay giang ra như một cây thánh giá. Tôi nhìn mặt anh như sưng lên với tình cảm
khó tả. Tôi hỏi: “Sao ông lại nằm đuỗn mặt ra thế? Phổ vậy được không?”. Chợt anh
ngồi vùng dậy, và nói một câu khá bất ngờ với tôi: “Anh làm tôi nổi tiếng đến
nơi rồi! Bài hát này tôi tin là mọi người sẽ hát…”. Chúng tôi đi ăn sáng cho
đến chiều tối thì nhận được điện của nhóm ca sĩ Hà Nội đang hát ở Vũng Tàu.
Cuộc gặp gỡ đêm ấy bên bờ biển, NSND Thu Hiền đã cầm bản nhạc hát cho mọi người
nghe và chị nói vui “Anh cho Thu Hiền độc quyền bài này nhé”. Sau đó Thu Hiền
thu thanh ở Sài Gòn và lấy tên Allbum là “Khúc hát sông quê”.
Khi trở lại Hà Nội, tôi đưa bài này
cho VTV và chọn giọng hát Anh Thơ. Tôi có nghe Anh Thơ hát vài lần và nghĩ
giọng Anh Thơ sẽ hợp với bài hát này, sự trong sáng và chuẩn mực sẽ làm cho bài
hát đẹp hơn. Tôi đem bản nhạc đến nhà cho Anh Thơ. Anh Thơ vừa nấu bếp vừa tập.
Khi thu thanh, các kỹ thuật viên của đài vì quá thích nên đã “cóp” đĩa về nhà
nghe. Và bài hát được giới thiệu lần đầu tiên trong chương trình Tác phẩm mới
của VTV năm đó. Tôi không ngờ nó lại được công chúng yêu chuộng đến thế. Hầu
như suốt chục năm qua, ngày nào bài hát này cũng được hát. Tôi đến châu Âu,
châu Mỹ vẫn được nghe “Khúc hát sông quê” với thật nhiệu thiện cảm.
Đời một người sáng tác, hạnh phúc
nhất là tác phẩm của mình được công chúng đón nhận và yêu thích. Nhưng hạnh
phúc nhất với tôi là nó lại được người làng tôi tâm đắc. Vâng, làng quê, nơi
cất dấu và hiến dâng cho ta bao tài sản tinh thần vô giá… Xin mãi mãi cảm tạ
làng quê!…
No comments:
Post a Comment