Tôi đã nghe kể nhiều về anh, một con người có số phận kỳ lạ. Và
trong những câu chuyện bạn bè kể, tôi vẫn ngẫm thấy một nỗi đắng đót, xót xa về
một phận người dường như đã bị lãng quên trong thế giới này. Không giấu nổi sự
tò mò và thương cảm, tôi đã đến thăm anh trong một buổi chiều cuối năm lạnh
giá.
Ngôi nhà của Đoàn Việt Bắc nhỏ bé, lọt thỏm giữ khu phố Khâm Thiên
(Hà Nội) chen chúc người. Ẩm thấp. Mốc meo. Ngôi nhà không có bóng dáng của
hiện tại, và tương lai, mà chỉ có những ẩn ức quằn quại của quá khứ xa xôi…
Tập thơ của Đoàn Việt Bắc
1. Men theo ngõ Văn Chương, anh Đoàn Đình Thứ, anh trai của Đoàn Việt Bắc đưa tôi đến căn nhà nhỏ của anh. Mấy năm trước, trên mảnh đất này là một ngôi nhà đầy bụi và rác. Không điện nước. Không ánh sáng. Chỉ có một người đàn ông cô đơn ngồi lặng lẽ. Tranh vẽ xong vứt bừa bãi khắp sàn nhà và dưới gầm giường. Trên cánh cửa ải mục ghi dòng chữ: "Không tiếp khách".
Bây giờ Đoàn Việt Bắc đã có nhà mới.
Gọi là nhà, nhưng xung quanh rêu mốc và ẩm thấp phủ kín. Ngôi nhà lúc nào cũng
đóng cửa im lìm. Bấy lâu, Đoàn Việt Bắc không còn lang thang trên ngõ chợ Khâm
Thiên và miệng lẩm nhẩm đọc thơ nữa. Anh trốn mình trong căn phòng, trốn cả
những sự buồn vui ở đời. Mỗi ngày một hoặc hai lần nhà thơ Đoàn Đình Thứ lại
phải mang cơm đến cho em.
Nhiều lúc đứng trước cánh cửa mục,
Đoàn Đình Thứ không kìm được nước mắt. Anh kể, bà cụ (mẹ anh và Đoàn Việt Bắc)
mất đã mấy năm. Đã tuổi ngoài 80, mỗi ngày cụ thường nấu cơm lọ mọ mang đến cho
Đoàn Việt Bắc. Tận đến lúc sắp qua đời bà cụ vẫn còn lo lắng rồi đây không biết
ai sẽ chăm sóc Đoàn Việt Bắc thay mình. Tôi đứng lặng người trước cánh cửa sắt
lạnh lẽo. Đoàn Đình Thứ gọi to: "Cụ ơi, nhà có khách". Trước khi đi
anh Thứ đã dặn tôi, phải gọi Đoàn Việt Bắc là cụ. Bởi lẽ Đoàn Việt Bắc đã thuộc
về quá khứ. Đoàn Việt Bắc sửa soạn rất lâu, diện comple, đi giày, chỉnh tề. Anh
Thứ bảo, lúc nào Đoàn Việt Bắc cũng vậy, vẫn giữ cái phong thái lịch lãm, giàu
tự trọng của một nghệ sĩ.
Rồi anh ra mở cửa, vẫn phong
thái lịch lãm ấy, rót rượu mời tôi, "Chúc mừng tài đức". Đấy là câu
nói cửa miệng của anh. Nhấp một chén rượu nhạt, Đoàn Việt Bắc trở nên hào hứng:
"Cụ sẽ hát cho các me nghe bài Hoa Sa la nhé"… Bài thơ
anh làm khi chiến đấu ở biên giới Campuchia, một bài thơ tình tứ. Và câu chuyện
với anh bắt đầu bằng những bài thơ anh viết chen lẫn ký ức rời rạc, nhớ quên.
Căn phòng tối, ẩm mốc, bừa bộn những
hộp xốp, giấy và bút vẽ. Mọi thứ ở đây đều cũ kỹ rêu phong, như ký ức mờ xa của
chủ nhân ngôi nhà này. Anh Đoàn Đình Thứ bảo, Đoàn Việt Bắc có ý thức dân chủ
rất cao, không cho ai chạm vào đồ đạc của mình và cũng không lấy cái gì của ai
bao giờ. Nên mọi thứ trong nhà dù bừa bộn như vậy nhưng không được dọn.
Đoàn Đình Thứ lần giở ký ức về người
em đáng thương của mình. Đoàn Việt Bắc tên thật là Đoàn Đình Hảo, sinh năm 1949
tại Hải Yến, Phù Tiên, Hải Hưng (nay là Hưng Yên). Đoàn Việt Bắc đã có một thời
thanh niên sôi nổi đầy nhiệt huyết, bởi anh sớm bộc lộ tư chất thiên bẩm của
một nghệ sĩ, biết vẽ tranh, làm thơ từ khi còn đi học, từng được nhiều giải
thưởng của miền Bắc thời bấy giờ.
18 tuổi, Đoàn Việt Bắc đã về làm
phóng viên Báo Tuyên Quang dù lúc đó thi đỗ vào Trường Mỹ thuật Đông Dương. Rồi
vác ba lô vào chiến trường miền Đông Nam Bộ. Đó là những năm tháng chiến tranh
ác liệt, mưa bom bão đạn, những cơn sốt rét ác tính hành hạ, và đau xót nhất là
trận sập hầm ở biên giới Campuchia, anh bị chấn thương sọ não. Năm 1974, anh
được đưa ra Bệnh viện Quân đội 91 Thái Nguyên. Đoàn Đình Thứ lặn lội lên thăm
em, nhìn cái cảnh em bị nhốt trong căn phòng bê tông 9m2, anh không cầm lòng
đựơc.
Với một niềm tin kỳ lạ trong lúc
tuyệt vọng nhất, Đoàn Đình Thứ đã xin được vào sống cùng với người em trai tội
nghiệp của mình. Hai ngày đêm, Đoàn Đình Thứ kiên trì gợi lại những kỷ niệm về
gia đình, bạn bè, ký ức tuổi thơ và anh khẳng định, em mình chỉ bị một cú sốc
nào đó chứ không bị điên hay tâm thần. Sau này lúc tỉnh táo, chính Đoàn Việt
Bắc kể lại, anh và người bạn thân, Thái Vượng, đã có những hiểu lầm nhau ghê
gớm và anh từng uống thuốc ngủ tự tử. Có lẽ đó là những va đập đầu tiên của
cuộc sống dội vào tâm hồn nghệ sĩ mong manh, dễ tổn thương của anh.
Hiểu và thương em mình hơn ai hết,
Đoàn Đình Thứ và gia đình, một năm ròng lặn lội lên Thái Nguyên, chăm sóc,
thuốc men cho anh. Đầu năm 1975, sức khoẻ của Đoàn Việt Bắc đã gần như bình
phục, anh trở lại cuộc sống đời thường và tiếp tục công việc của mình. Đoàn
Việt Bắc trở thành sinh viên Đại học Mỹ thuật, Khoa Kiến trúc.
Và anh làm thơ. Thơ anh, bài Lá
trung quân đã từng được giải B của Báo Văn nghệ (1976). Cái tên Đoàn Việt Bắc
đã từng làm xôn xao giới viết trẻ miền Bắc hồi đó. Anh là một nhà thơ chiến sĩ,
được chú ý từ những năm 60. Nhưng anh có duyên nợ với cả thơ và họa. Học xong,
anh về làm họa sĩ thiết kế cho xưởng phim truyện Việt Nam, là một trong những
họa sĩ thiết kế đầu tiên của hãng. Con người có đôi mắt hoang hoải đó từng là
một họa sỹ thiết kế phim Hồi chuông màu da cam đoạt giải thưởng tại Liên
hoan phim Caclovy Vary tại Tiệp Khắc thập niên 80.
Chúng tôi lặng người trong những câu
chuyện về anh. Bỗng Đoàn Việt Bắc phá tan không khí đó bằng một câu trầm hùng,
nghiêm trang: "Nhà thơ Đoàn Việt Bắc nói chuyện thơ trước toàn dân vũ
trụ". Rồi anh lại im lặng. Tôi bảo: "Cụ đọc một bài thơ mà cụ thích
nhất đi". Đoàn Việt Bắc không nói gì, ánh mắt anh trở nên xa xăm. Rồi
giọng anh vút lên, vỡ oà nỗi cô đơn dồn nén. Nỗi cô đơn chưa ai từng chạm tới
trong tâm hồn giá lạnh của anh.
Chén rượu giao thừa anh uống một
mình anh/ Rượu không uống buông tay rơi vỡ chén/ Trời và đất bỗng bùng bùng lửa
bén/ Màu máu hồng loang đỏ cả chiều xuân. (Chén rượu giao thừa)
Tôi thấy mình gai lạnh, có lẽ đó là
cách Đoàn Việt Bắc đang thưởng thức nỗi cô đơn của một con người bị bỏ quên nơi
góc trời.
Chân dung Đoàn Việt Bắc
2. Anh cũng đã từng có một gia đình,
vợ anh là họa sĩ Giáng Hằng. Họ có với nhau một cô con gái. Đó là những năm
tháng chật vật của cuộc sống nhưng ấm áp hạnh phúc. Đoàn Việt Bắc vẫn luôn mang
trong mình một ảo mộng, giấc mộng của người nghệ sĩ. Thế nên, trong đời sống
anh không ít nhiều va vấp. Hồi đó, khi con gái vừa một tuổi, anh tham gia cùng
nhóm họa sĩ Phan Kỳ Nam sang Lào 18 tháng làm bộ phim Cánh Đồng Chum. Hạnh phúc
vừa mới chạm khẽ vào anh đã mang những vết rạn. Chị có những lý do riêng của
mình và đã ra đi, từ đó đến nay vẫn bặt tin nơi trời Tây.
Cô con gái bây giờ đã lớn và trở
thành họa sĩ, những bức tranh đầu tiên cô vẫn mang về treo trong nhà của bố
mình. Nhưng con gái giờ cũng có cuộc sống riêng. Nỗi đau tan vỡ gia đình và
những khủng hoảng về kinh tế thời đó đã làm Đoàn Việt Bắc suy sụp. Tâm hồn anh
không đủ mạnh mẽ để chống chọi. Anh lại rơi vào trạng thái tỉnh mê. Cách đây 7
năm có một cô gái thương anh, tự nguyện về sống với anh. Cô gái chịu đựng mọi
bất thường của anh để chỉ mong có một cuộc sống bình yên. Nhưng với Đoàn Việt
Bắc, số phận sinh ra anh để hứng chịu trọn vẹn nỗi cô đơn của kiếp người.
Sống với nhau được một năm, có lần
trong lúc không kiểm soát được mình, anh đã đánh chị bất tỉnh. Về sau chị mất.
Trong đám tang chị, Đoàn Việt Bắc mang vành tang trắng của vợ và gào lên thảm
thiết: "Trả lại vợ cho tôi", tiếng gào xé lòng tất cả mọi người chứng
kiến. Nhưng mấy ai hiểu được nỗi đau của anh.
Nỗi cô đơn lại trả về với anh. Từ đó
anh càng bị đọa đày trong bệnh tật, nghèo đói. Anh trở thành người không ai có
thể hiểu được nữa.
Nhưng trong những cơn mê mê tỉnh
tỉnh ấy, Đoàn Việt Bắc vẫn làm thơ, vẽ tranh. Những bài thơ mang khát vọng của
một tâm hồn thi sĩ nhiều ẩn ức trước cuộc đời. Nhà thơ Ngô Văn Phú khi viết lời
bạt cho tập thơ Lá trung quân của anh đã nhận xét: "Và thật là lạ, chính ở
những phút mê mê, tỉnh tỉnh ấy, cảm xúc của anh đã gây men cho những câu thơ
đầy vẻ lạ và có hồn".
Con bướm vàng lạc vào vườn hoa/ Anh
lạc vào phiên chợ núi/Núi chao nghiêng trong tiếng khèn bè/Hoa mặt trời nở trên
vồng ngực/… Em ném cho anh nỗi nhớ/ Quả bứa chua chua đến bất ngờ. (Phiên chợ núi). Và con người đã mê mê tỉnh tỉnh ấy vẫn yêu
cái đẹp, cái đẹp được viết bằng ảo giác: Em im lặng nằm trong bóng lá/ Làn
mi cong, thân thể trắng ngần/ Đôi môi đỏ, má màu hồng ngọc/ Mùa thu ơi, chớ ngủ
quên (Mùa thu ơi, chớ ngủ quên). Tập thơ Lá trung quân của anh được bạn bè
chuyền tay nhau đọc và không ít lời ngợi khen… "Bởi thơ anh vừa có họa,
vừa có nhạc, có cả sự sâu lắng và thăng hoa".
Tôi ngồi lặng trước anh rất lâu,
không dám chạm đến những ký ức đau buồn của anh. Anh có thể bất thường bất cứ
lúc nào, với những nỗi đau tưởng chừng như đã ngủ quên. Anh ngồi lặng lẽ, ánh
mắt hoang vu, bởi lẽ anh không thuộc về hiện tại. Tâm hồn anh, trái tim anh đã
thuộc về một cõi khác. Nơi đó, nỗi đau hay niềm vui, không còn chạm tới anh.
Bạn bè tôi, những người yêu quý anh,
đang dự định sẽ tổ chức một buổi đọc thơ của Đoàn Việt Bắc. Nhưng Đoàn Việt Bắc
chẳng bận tâm đến điều đó nữa. Từ lâu anh đã trở thành người bí ẩn trong thế
giới của riêng mình. Nhưng những bài thơ của anh, tôi tin, đâu chỉ thuộc về quá
khứ…
Đoàn Việt Bắc đã từng tham gia
chiến đấu ở chiến trường Đông Nam Bộ, Campuchia và Tây Nguyên, thuộc Đoàn
Quân khu Việt Bắc, Đoàn 222. Nhưng đến nay, anh vẫn chưa nhận được một chế độ
nào. Do bị chấn thương sọ não từ trong chiến trường, nên nhiều giấy tờ, hồ sơ
của Đoàn Việt Bắc đã bị thất lạc, chỉ còn lại tờ giấy chứng thương. Nhiều năm
nay gia đình đã đi làm hồ sơ chế độ cho Đoàn Việt Bắc nhưng gặp rất nhiều khó
khăn. Đó cũng là một thiệt thòi cho Đoàn Việt Bắc khi anh đã cống hiến những
năm tháng tuổi xuân của mình ở chiến trường và bị thương nặng trở về.
|
Khánh Linh
No comments:
Post a Comment