Đứng từ con đường mới mở chạy ngang sườn núi ven thành phố Quy Nhơn (Bình Định), vào những ngày trời ít sương mù, người ta có thể nhìn thấy những mái nhà của làng phong Quy Hòa lô xô ven biển. Con đường dốc đổ xuống nơi thi sỹ Hàn Mặc Tử sống những ngày cuối đời hơn nửa thế kỷ trước, lượn quanh co, vắng heo hút. Quy Nhơn còn lưu dấu nhiều vết tích của nhà thơ bạc mệnh này.
Mộ thi sĩ Hàn Mặc Tử tại Quy Nhơn, Bình Định
Một cái chết và những điều bất tử
Vốn là một làng tập trung các bệnh
nhân mắc bệnh cùi (bệnh phong) được các nữ tu sỹ lập nên từ hơn một thế kỷ
trước, tên tuổi làng phong Quy Hòa được nhiều người biết đến, cũng một phần bắt
nguồn từ chuyện tình cờ gắn bó với cái chết của thi sỹ tài hoa Hàn Mặc Tử.
Hàn Mặc Tử trở thành một bệnh nhân
của làng từ tháng 9/1940, đến 11/1940 thì qua đời trong bệnh tật. Căn phòng nơi
Hàn trút hơi thở cuối cùng, nay trở thành nhà lưu niệm, vẫn giữ nguyên những đồ
đạc đơn sơ ngày đó: chiếc giường cá nhân, chiếc ghế cùng vài vật dụng thông
thường.
Ông được chôn trong nghĩa địa của
làng dưới chân núi Trứng. Theo lời kể của những người chứng kiến thời đó, mộ
của ông cũng không có gì đặc biệt so với các bệnh nhân khác: một nấm đất nhỏ
như kích cỡ của hàng trăm ngôi mộ khác, xếp theo dãy thứ tự, nằm lặng lẽ trong
muôn vàn cái chết lặng lẽ của người mắc bệnh cùi – vốn không có gia đình, hay
nhiều bè bạn khi cuối đời.
Suốt 19 năm Hàn nằm lại trong nghĩa
địa làng phong. Theo lời kể của nhiều nhà nghiên cứu về cuộc đời và thơ Hàn,
trong thời gian đó, do hoàn cảnh chiến tranh, đường giao thông không thuận lợi
và điều kiện khó khăn, nên mãi đến ngày 13/01/1959, gia đình và bạn bè mới cải
táng (bốc mộ) sang địa điểm mới cho người đã chết. Buổi lễ cải táng cho nhà thơ
được tiến hành khá đơn giản: chỉ có hai người chị, hai người em, ba người bạn
và một vị linh mục tham dự.
Đến năm 1991, cố nhạc sỹ Trần Thiện
Thanh (ca sỹ Nhật Trường) cùng một số nhạc sỹ khác yêu mến tài năng thơ trẻ này
đã đóng góp tiền để xây dựng một ngôi mộ - đài tưởng niệm, trên nền mộ cũ
của Hàn. Quần thể mộ gồm một khoảng sân, phía chính giữa là đài tưởng niệm có
hình tượng một cây bút, cây thánh giá dựng trên cuốn thơ. Những nét uốn lượn
của cuốn sách thơ, bệ tượng đài, hình phù điêu bao quanh khu mộ cũng dễ liên
tưởng đến hình tượng vầng trăng khi khuyết lúc đầy, vốn luôn thấp thoáng ẩn
hiện trong thơ Hàn.
Nhạc sỹ Trần Thiện Thanh vốn là một
người rất yêu thơ Hàn. Những năm 1960, ông đã sáng tác bài hát nổi tiếng về Hàn
Mặc Tử “Đường lên dốc đá nửa đêm trăng tà nhớ câu chuyện xưa...”. Người vợ của
ông tên Nam Trân, nhưng hâm mộ thơ Hàn đến mức thêm ‘họ’ của nhà thơ vào trước
tên mình thành Hàn Nam Trân.
Theo lời của một số người bạn nhạc
sỹ kể lại, cảm động vì số phận của một nhà thơ lớn suốt hàng chục năm phải nằm
nhỏ nhoi, quạnh quẽ, sau một lần viếng thăm mộ Hàn Mặc Tử, nhạc sỹ đã sáng tác
bài hát nói trên và đau đáu nuôi ý định: “Nơi một thi sỹ lớn đã sống những ngày
cuối đời và nằm cô quạnh suốt hai mươi năm, chẳng lẽ không có một dấu vết gì để
nhớ?”.
Đài tưởng niệm ở khu mộ cũ
Điều ước cuối cùng chưa thoả
Từ làng phong Quy Hòa, ngược dốc lên
đường quốc lộ sát chân núi, rồi lại xuống dốc sang triền núi bên kia, qua quãng
đường dăm cây số sẽ gặp khu mộ Hàn trên Ghềnh Ráng.
Theo lời kể của những người thân gia
đình Hàn Mặc Tử, khi còn sống, Hàn đã từng tâm sự với bạn bè, muốn khi chết sẽ
được chôn trên đèo Son (khu vực gần Cầu Đôi) là một địa điểm ở đầu thành phố
Quy Nhơn, vì đó là khu vực dựa lưng vào núi, mặt quay ra biển. Nhớ lời Hàn năm
xưa, sau khi bốc mộ, người thân của Hàn cũng muốn thực hiện ý muốn của người đã
khuất, nhưng khi đó đèo Son là khu vực cấm (khu vực quân sự) nên mọi người đã
chọn Ghềnh Ráng là khu vực cũng hội đủ những yếu tố như Hàn đã từng ao ước.
Từ Ghềnh Ráng, để lên đến mộ Hàn, du
khách leo qua chừng hơn trăm bậc thang đá, giữa hai hàng cây song song chụm đầu
vào nhau rì rào bốn mùa đón gió biển. Mộ Hàn nằm dựa lưng vào núi, nhìn bao
quát cả dải bờ biển Quy Nhơn chạy dài trước mặt, hút trọn tầm mắt một phần
thành phố Quy Nhơn. Dưới chân khu mộ, qua một vực đá thoai thoải với muôn vàn
tảng đá nhiều hình thù xếp lớp, là sóng biển bốn mùa vỗ bờ.
Mộ rộng chừng dăm thước vuông, ốp đá
đơn sơ, xung quanh tàn cây mát rượi. Dòng chữ lớn RIP (Rest in peace – Dịch nôm
na: An nghỉ ngàn thu) màu trắng nổi bật trên nền đá ốp hồng. Phía trên đầu mộ
là tượng Đức Mẹ Maria hiền từ nhìn xuống. Mộ chí không ghi tên ông là nhà thơ
nổi tiếng mà chỉ ghi khiêm nhường “Đây an nghỉ trong tay Mẹ Maria: Hàn Mặc Tử,
tức Phêrô Phanxicô Nguyễn Trọng Trí”.
Bút lửa Dzũ Kha bên mộ Hàn
Chàng thi sỹ dựng lều bên mộ
Nhiều người dân ở Quy Nhơn nói rằng:
“Hàn Mặc Tử sau khi chết hơn 60 năm vẫn không cô đơn”. Ai đó có thể không tin,
nhưng nếu đã từng đến thăm mộ Hàn một lần, và gặp chàng thi sỹ bỏ nhà để lên
dựng lều cạnh mộ Hàn, chỉ để thỏa ước muốn ngày đêm ngâm thơ Hàn, sưu tầm những
tư liệu về Hàn Mặc Tử, thì sẽ tin câu chuyện “Hàn không cô đơn sau khi chết” là
có thật.
Chàng thi sỹ đó là Trương Vũ Kha,
hay còn gọi là Dzũ Kha, là “Bút lửa giữ thơ Hàn”. Vì quá yêu thơ Hàn mà người
đàn ông trạc tuổi hơn 40, dáng người cao dong dỏng, có mái tóc dài đầy chất
nghệ sỹ, vốn tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật này, đã từ bỏ đô thị để về Ghềnh Ráng
chăm sóc mộ Hàn.
Khu mộ được Vũ Kha trang hoàng bằng
nhiều phiến đá, phiến gỗ khắc thơ cầu kỳ, nét chữ bay bướm. Vũ Kha cũng không
khắc chữ thông thường bằng cách đục đẽo, mà anh khắc chữ bằng bút điện, bút
lửa. Không chỉ dựng căn nhà gỗ đơn sơ bên mộ Hàn để ngày ngày chép lại thơ Hàn,
quét dọn chăm sóc mộ Hàn, anh còn là hướng dẫn viên du lịch miễn phí cho du
khách bỡ ngỡ tới lần đầu cần hướng dẫn. Cũng chính Kha là người đã tìm lại được
nhiều tư liệu quý về Hàn Mặc Tử, như một số bản thảo các bài thơ do chính tay
Hàn viết hơn 60 năm về trước.
Hỏi anh về nguyên nhân của việc “hâm
mộ” Hàn Mặc Tử tới mức đó, Kha nhẹ nhàng đọc những vần thơ anh viết: “Bạn lên
phố thị xênh xang. Riêng ta ở lại đa mang xứ Ghềnh. Phồn hoa náo nhiệt lãng
quên. Họa thi bút lửa sưởi bên mộ Hàn”.
Sáu mươi năm đã qua kể từ ngày Hàn
Mặc Tử qua đời, theo lời kể của những người già trong khu vực, Ghềnh Ráng -
làng phong Quy Hòa ngày ấy và bây giờ, vẫn mang dấu ấn Hàn Mặc Tử. Ra bãi biển
Quy Hòa, lại chợt nhớ đây là nơi Hàn vẫn thường thơ thẩn mỗi chiều lẩm
nhẩm những vần thơ; ngồi trên ngọn núi có những tảng đá lớn hình quả trứng bên
những dãy nhà bệnh nhân cũ, lại chợt hỏi tảng đá này có phải Hàn đã từng ngồi
chơi? Đêm ngắm trăng sáng bên Ghềnh Ráng, hiểu thêm nỗi đau của những người mắc
bệnh cùi, cơn đau vật vã nhất thường kéo đến vào những tuần trăng...
Làng phong bây giờ được chia làm hai
khu riêng biệt: khu điều trị bệnh nhân – hay còn gọi Bệnh viện phong – da liễu
Trung ương Quy Hòa, và khu làng của những người đã khỏi bệnh, nhưng họ không
trở về quê mà tụ họp lại với nhau chọn nơi đây làm quê hương thứ hai của
mình. Làng của những người đã lành bệnh có tên chính thức là Khu dân cư khu vực
2, phường Ghềnh Ráng.
Lần đầu tới làng phong, nếu không
được nói trước, khách phương xa có lẽ không biết được đây là ngôi làng của
những con người đã từng bị xã hội ghẻ lạnh, hắt hủi, xua đuổi theo hủ tục nhiều
năm về trước. Làng phong nay cũng bình yên như ngàn vạn ngôi làng trên đất
nước, có đường làng rợp bóng cây, có mắt trẻ khúc khích dõi theo dáng người
khách lạ, có những ngư dân ngừng tay đan lưới dưới hiên nhà nở một nụ cười chào
khách mới đến, có chú chó vằn ngoáy đuôi rối rít đón chủ về...
Làng bình yên như bức tranh trong
thơ của Hàn mà ở đây, già trẻ gái trai ai cũng đều thuộc: “Trong làn nắng ửng
khói mơ tan. Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng. Sột soạt gió trêu tà áo biếc. Trên
giàn thiên lý bóng xuân sang”...
Mai Minh
No comments:
Post a Comment