(Về cuộc thi thơ Lục bát trên tạp chí VNQĐ và
tạp chí Sông Hương trong 2 năm 2010 và 2011)
Xét về mặt hình thức, nhìn chung, thơ
lục bát đã ổn định như sáu cộng tám bằng mười bốn. Không thể làm thay đổi số
lượng âm tiết trong từng câu lục và câu bát, cũng như các qui tắc về vần, luật
bằng trắc mà ông cha ta đã đãi lọc, định chuẩn, gìn giữ sau mấy nghìn năm. Mọi
cuộc thi lục bát, theo tôi, trước hết là để bảo tồn, tôn vinh thể thơ truyền
thống của Đất Việt mà đỉnh cao của nó tính đến bây giờ có lẽ chưa ai vượt
Nguyễn Du với Truyện Kiều nổi tiếng của Ông. Cuộc thi nào cũng nhằm
kiểm chứng khả năng “hòa nhập” của thơ lục bát với cuộc sống hôm nay; người
đương thời còn yêu thích nó nữa hay không. Lục bát, đã là trăng mới mọc,
đèn mới khêu, đã là cây đa, bến nước, sân đình, đã là canh
rau muống, cà dầm tương… rồi nay làm mới, làm hay nó ra sao đây?
Tôi nghĩ: ai yêu thơ lục bát, làm thơ lục bát mà chẳng
đau đáu câu hỏi ấy! Cũng vậy, ta rất dễ OK với nhau rằng thơ lục bát dễ làm
nhưng khó hay. Dễ, đó là nói một cách tương đối khi ai đó viết được một bài
“thơ” theo thể sáu tám với vần, thanh rất chuẩn không thể bắt bẻ được chẳng mấy
phức tạp rắc rối. Nhưng nếu nó nhạt như nước ao thì đó chắc chắn là hàng kém
chất lượng rồi. Còn làm một bài lục bát mà thiên hạ cho rằng “đọc được” thì đã
là chuyện khác. Lục bát hay thì lại là chuyện vô cùng khác nữa. Khó muôn vàn và
hiếm hoi lắm nếu cạn tình, kém tài và chẳng có duyên. Tôi mạo muội cho rằng một
bài lục bát hay, phải hội tụ được trong nó cảm xúc tràn trề, tứ thơ độc đáo,
hình ảnh mới mẻ và ngôn từ đắc địa. Nếu không nó sẽ bị trượt qua dạng vần vè,
sáo mòn, rỗng tuyếch khi ta say sưa đuổi theo lối cũ nẻo quen.
Lan man một chút như thế để thấy trước cái khó của cuộc
thi thơ lục bát của tạp chí Văn nghệ quân đội phối hợp với tạp chí Sông
Hương bây giờ. Thử thách không chỉ thuộc về các tác giả dự thi mà trước
hết là với những người tổ chức. Cho đến nay, hai phần ba chặng đường đã qua
nhưng xem ra vẫn hiếm hoi lắm những bài lục bát ấn tượng; có cảm giác cuộc thi
cứ trôi đi lặng lờ bằng bặn. Đang ở đâu những Trạng nguyên, Thám hoa, Bảng nhãn
của cuộc thi lần này? Tôi xin nói thật, thơ lục bát dự thi:
Rộng…nhưng chưa cao, chưa sâu
Núi non, sông thẳm ở đâu chưa về?
1.Rộng:
Cuộc thi thơ lục bát 2010 -2011 của tạp chí Văn
nghệ Quân đội và tạp chí Sông Hương phối hợp tổ chức đã thu hút
khá nhiều bạn viết tham gia. Tôi nhận ra một số tên tuổi các nhà thơ quen thuộc
như Võ Sa Hà, Phạm Trọng Thanh, Thai Sắc, Lệ Bình, Quang Chuyền, Phan Tùng Lưu,
Nguyễn Thanh Mừng, Bình Nguyên…có tác phẩm dự thi trên Văn nghệ Quân đội
bên cạnh những cây bút mới mẻ, thậm chí lần đầu tiên xuất hiện. Đối tượng dự
thi gồm nhiều thành phần, trong và ngoài quân đội đều góp mặt. Trong số hàng
nghìn bài thơ lục bát gửi về 2 tòa soạn đã có hàng trăm tác phẩm được lựa chọn
giới thiệu trên Văn nghệ Quân đội và Sông Hương đủ các đề
tài: chiến tranh - người lính, quê hương đất nước, tình yêu lứa đôi, thế sự tâm
linh…Quá khứ, hiện tại và cả những dự cảm tương lai nữa đều được đề cập đến
trong thơ lục bát dự thi. Ta gặp gỡ những chuyện đời, những góc cuộc sống,
những tâm tình xưa nay, xa gần lớn nhỏ…trong các bài thơ lục bát. Qua cuộc thi
này càng chứng tỏ: thơ lục bát không kén đề tài, không bó hẹp lại trong một vài
mảng đời sống nào cả. Đề tài và nội dung được chuyển tải trong thơ lục bát dự
thi trên Văn nghệ Quân đội và Sông Hương hết sức phong phú,
cởi mở, rộng rãi. Chúng ta có thể đọc được những bài thơ viết về chiến tranh và
người lính như Nghe từ mộ gió của Quang Chuyền; Bên mộ cha của
Hoàng Gia Minh; Cỏ ở sân bay Tà Cơn của Nguyễn Đình Xuân; Góc vườn
của hai người đàn bà của Nguyễn Thị Liên Tâm; Dưới tán bàng Côn Đảo
của Phạm Trọng Thanh; Thêm một mùa ngâu nhớ của Đinh Hữu Niên; Kỷ
vật của Trương Nam Chi; Trễ mùa của Vũ Thiên Kiều; Ám ảnh màu
sô của Hoàng Phụng Cầm…, viết về đất nước quê hương như Chợ âm dương
của Nguyễn Thanh Mừng; Mái rạ cuối cùng của Phạm Thái Quỳnh; Cô
tôi của Hoàng Anh Tuấn; Ngựa đá sang sông của Trần Hưng; Lời
cầu xin bên mẹ của Hoàng Phụng Cầm; Đất của Trần Trí Thông; Đảo
chờ của Du An…, viết về tình yêu như Trăng tì giêng hai của
Nguyễn Thánh Ngã; Viếng xuân của Miên Di, viết về thế sự như Xe ôm
ca của Trần Hưng; Người bán hàng rong của Nguyễn Thấn; Bóng
sao gầy của Bình Thanh; Trên bãi chợ khuya của Nguyễn Quân; Chiều
nay con gặp một bà của Du An…
Đấy là tôi mới sơ bộ liệt kê theo kiểu nhớ gì chép nấy,
còn rất nhiều bài nữa. Hàng trăm bài thơ, hàng trăm mảnh đời, hàng trăm tâm
trạng, hàng trăm giải bày, hàng trăm sắc màu của cuộc sống vốn rất bộn bề nổi
chìm mờ tỏ. Bóng dáng của những người đã khuất, buồn vui cuộc sống bây giờ, núi
cao biển cả, làng mạc, bãi bờ, đồng ruộng, cỏ cây…tất cả dường như đã góp mặt
trong những vần thơ sáu tám truyền thống. Sơ lược phác ra cho ta một hình dung
dẫu chưa đủ đầy về diện mạo khoáng đạt của cuộc thi lần này; đó là một độ rộng
đáng mừng về lực lượng tham gia, về số bài gửi tới 2 tòa soạn, về đề tài nội
dung.
2.Chưa cao và chưa sâu:
Từ một phần bề rộng cuộc thi lục bát, tôi lựa ra những
vần thơ “đọc được” theo cảm nhận của riêng mình. Cái tôi cho “được” có thể là
“không được” với ai đó hoặc đến phần tôi trích dẫn những câu lục bát “lục cục
lạo sạo” sau này có thể không đúng với suy nghĩ của người khác. Không sao cả,
miễn là cởi mở và thành tâm. Và biết lắng nghe…
Dù chưa tìm được bài hay nhưng tôi cũng bắt gặp đó đây
những lấp lánh đáng trọng.
Đó là Bình Thanh với những câu: Hội quân hương nếp
lưng bình/ Men thơ chưng cất bằng tình rong rêu/ Chân hề nhấn sóng liêu xiêu/
Tim người ngưng đọng mấy chiều gió xoay (Bóng sao gầy).
Đó là Quang Chuyền với:Lặng trong khoảng gió không
màu/ Bỗng dưng bắt gặp niềm đau kiếp người (Nghe từ mộ gió).
Đó là Hoàng Gia Minh với: Quê nghèo bạc cả đời
sông/ Đất nghèo bạc cả gió đồng thổi lên (Bên mộ cha).
Đó là Nguyễn Thánh Ngã với: Co ro đồng rạ vàng ươm/
Búp hoa lại nở giữa nơm nớp bùn và Em thơm như một nụ hồng/ Cành gai
tôi nắm chắc không đau gì (Trăng tì giêng hai).
Đó là Nguyễn Thị Liên Tâm với: Chị ngồi chắt cạn
chơi vơi/ Ủ mùi rơm rạ về phơi tứ bề ( Góc vườn của hai người đàn bà).
Đó là Nguyễn Quân với Chị quay về phía bóng mình/
Đôi mắt ướt đẫm vô tình ngó nhau (Trên bãi chợ khuya).
Đó là Trần Hưng với: Nõn nà sang với rêu phong/ Cỏ
hoa đã sẹo bên hông ngựa thồ ( Ngựa đá sang sông) và Phải cơm phải áo
thì đua/ Biết đâu gian dối mà chừa cả tin/ Lùi ra dịch lại đi mình/ Để ta chất
nốt nhân tình lên xe (Xe ôm ca).
Đó là Đinh Hữu Niên với: Đêm đêm vong vóng một
mình/ Lần về nước mắt bóng hình trong mơ/ Thì xin mượn tiếng chuông thờ/ Gõ vào
đêm lặng mà chờ qua đêm (Thêm một mùa ngâu nhớ).
Đó là Hoàng Anh Tuấn với: Vai sờn gánh nắng sang
mưa/ Gánh sương sang gió, gánh trưa sang chiều ( Cô tôi).
Đó là Nguyễn Thấn với: Giữa nơi đất chật người
đông/ Người đem ra bán cánh đồng lệch vai…(Người bán hàng rong).
Đó là Vũ Thiên Kiều với: Cho nhòa nét cái ban thờ/
Trời buông một giọt ảo mơ…trễ mùa (Trễ mùa) hay: Lặng im thành lặng im
hờ/ Mưa vào trong mắt chữ ngờ chưa tan (Vàng)
Tiếc là bài hay theo kiểu “quen” cũng chưa có mấy, bài
hay “lạ” thì hình như chưa xuất hiện. Khá nhiều bài thơ trung bình, kiểu bằng
bặn, nhịp nhàng, êm êm như ta đã từng đọc, đã từng nghe trước đây. Tôi cho rằng
đến giờ chưa có tác giả nào nổi lên như một “hiện tượng”, một “ngôi sao” của
cuộc thi bởi chưa có chùm lục bát nào làm cho ta phải nghiêng mình tâm phục
khẩu phục. Mong có ngôi sao đó đang ẩn trong mây, chờ dịp phát sáng trên bầu
trời lục bát với những bài thơ đặc sắc của mình.
Còn bây giờ, diễn đạt một cách quen thuộc là cuộc thi
chưa có “đỉnh” và “nền” của nó cũng tầm tầm, chưa vượt qua các cuộc thi thơ lục
bát trước đây. Tầm cao và độ sâu của khá nhiều bài thơ lục bát dự thi ở mức độ
vừa phải. Đấy là chưa nói tới một số bài thơ yếu cũng được giới thiệu trên Văn
nghệ quân đội.
Trong thơ lục bát, điều tối kỵ nhất là lệch vần. Ai
cũng biết đọc một câu thơ lục bát mà vần không chuẩn chẳng khác chi ăn cơm nhá
phải sạn. Có dạng vần tuyệt đối, rất chuẩn như: “Hỡi cô tát nước bên đàng/
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi” (Ca dao); có dạng vần tương đối như:
“Người quốc sắc, kẻ thiên tài/ Tình trong như đã mặt ngoài
còn e” (Truyện Kiều-Nguyễn Du) hay ép vần để giữ ý như: “Mặt trời là trái tim anh/
Mặt trăng vành vạnh là tình của em” (Bầu trời vuông-Nguyễn Duy)…
Tôi mạnh dạn trích dẫn mấy câu thơ lục bát “sạn” trong
một tác phẩm dự thi được in trên Văn nghệ quân đội năm 2011 mà theo
tôi là vần không chuẩn và ý tứ mòn cũ, ngôn từ dễ dãi: Bước chân theo vệt
nắng trôi/ Suối ngập ngừng chảy mắt người rưng rưng/ Như là gặp lại giữa rừng/
Bóng anh lặng lẽ mỗi lần nghĩ suy/ Ngọn đèn lay lắt sẻ chia/ Tiếng rừng “tắc
bụp” canh khuya cháy lòng/ Vách tường lứa (chẳng biết lứa hay là nứa?)
dựng song song/ Như bên anh cả đoàn quân trùng trùng/ Anh cười vầng trán
ung dung/ Niềm tin chiến thắng vững lòng người đi/ Vắng nghe cành lá thầm thì/
Anh đồng hành mỗi bước đi của rừng (TS- Dưới tán rừng Mường Phăng).
Lại có những bài thơ “cố” làm ra “mới” nhưng đọc vào
lại chỉ thấy sự cao giọng ồn ào, thiếu độ nhuần nhuyễn: Đêm nay núi cũng
ngủ mơ/ Trường Sơn xương trắng bài thơ bi hùng/ chiến tranh ủy nhiệm lòng
trung/ hiến thân Tổ quốc hào hùng anh linh (NT- Đêm nay núi cũng ngủ mơ)
hay: người con Tổ quốc chết ngồi/ chết-không bom đạn-ngực bồi khói “Cam”/
mở trừng con mắt Việt Nam/ những vành đai úa sắc vàng phiêu diêu (NT- Di
chứng).
Cuộc thi chưa tới đích và đây mới là giai đoạn nước
rút, giai đoạn sôi nổi hào hứng nhất. Những bài thơ lục bát hay nhất, biết đâu
sẽ được ai đó tung ra vào thời gian này để dành lấy một chiến thắng ngoạn mục.
Là một bạn viết, bạn đọc yêu thơ lục bát tôi hy vọng điều đó. Và cũng không
mong gì hơn cuộc thi thơ lục bát khởi hành cuối thập kỷ thứ nhất thế kỷ 21 của
tạp chí Văn nghệ quân đội và tạp chí Sông Hương sẽ tỏa sắc
tưng bừng trong thời gian còn lại và gặt hái được nhiều thành quả bất ngờ. Từ
cuộc thi mang nhiều ý nghĩa này, thêm lần nữa thơ lục bát thể hiện sức sống dẻo
dai bền lâu của mình. Dẫu chưa phải là Quốc thi như có người mong muốn
thì thơ lục bát vẫn thấm đẫm hồn vía dân tộc từ ngàn xưa và cho tới mai sau.
NGUYỄN
HỮU QUÝ
No comments:
Post a Comment