Vũ Hoàng Chương
Ông sinh ngày 5/5/1916 tại làng Phù
Ửng, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, Nam Định (nay thuộc về Hưng Yên). Vũ
Hoàng Chương đỗ tú tài Pháp năm 1937. Sau đó, theo học Trường Luật rồi cử nhân
toán tại Hà Nội, nhưng tất cả cũng chỉ được một vài năm rồi bỏ, để theo nghề
dạy học và làm thơ cho đến cuối đời. Năm 1954, ông di cư vào Nam, tiếp tục dạy
văn ở một số trường trung học, và Trường Đại học Văn khoa Sài Gòn. Vũ
Hoàng Chương mất ngày 6/9/1976, khi vừa tròn tuổi 60.
Tôi là một người may mắn, khi có một
thời gian được tiếp xúc và gặp gỡ thi sĩ Vũ Hoàng Chương dường như mỗi ngày. Đó
là vào khoảng cuối năm 1973, đầu năm 1974, khi vợ chồng ông đang tá túc tại nhà
nữ sĩ Mộng Tuyết, trong một căn phòng được ông gọi là “gác mây”, nằm cuối đường
Nguyễn Minh Chiếu (nay là Nguyễn Trọng Tuyển, quận Phú Nhuận).
Lúc bấy giờ, tôi đang giữ trang thơ
của nhật báo Sóng Thần. Một buổi sáng, vừa bước vào tòa soạn ở số 133 Võ Tánh
(nay là Nguyễn Trãi), đã thấy nhà văn Chu Tử (chủ bút) đang ngồi uống trà với
Ngọc Thứ Lang (người dịch cuốn Bố Già) và nhà thơ Hoàng Trúc Ly. Bỗng
dưng có ai đó nhắc đến thi sĩ Vũ Hoàng Chương và nói ông đang bệnh nặng. Thế là
Ngọc Thứ Lang buột miệng: “Tội nghiệp, Vũ Hoàng Chương nghèo kiết xác, nên
thiếu “thóc” (thuốc phiện) là ngã bệnh, nếu được hút đủ đô là khỏe ngay”.
Điều này có lẽ không sai, bởi hơn ai
hết, Ngọc Thứ Lang cũng là một con nghiện rất nặng và thỉnh thoảng vẫn ghé lại
“gác mây” thù tạc với Vũ Hoàng Chương. Không hỏi thêm một câu nào, ông Chu Tử
quay sang ra lệnh cho tôi, xuống ban Trị sự, lấy tiền mua vài lạng thuốc phiện
đem biếu cho thi sĩ Vũ Hoàng Chương. Nghe thế, tôi rất vui khi biết mình sắp
được gặp gỡ nhà thơ lớn mà mình ái mộ từ lâu, nhưng chỉ nghe danh chứ chưa được
diện kiến lần nào. Có tiền, tôi nhờ anh Ngọc Thứ Lang đưa qua con hẻm đối diện
tòa soạn, nơi có hai động hút dường như bán công khai, mua hai lạng thuốc phiện
loại hảo hạng rồi đi ngay. Dọc đường, tôi cứ phân vân không biết phải xưng hô
với thi sĩ Vũ Hoàng Chương như thế nào cho phải phép. Cuối cùng, tôi quyết định
sẽ gọi ông bằng thầy và xưng em là ổn nhất.
Không có gì khó khăn để tôi tìm ra
nhà nữ sĩ Mộng Tuyết. Gọi là “gác mây”, cái tên nghe rất thơ mộng, nhưng thật
ra, đó là một căn phòng nhỏ, chỉ hơn 20 thước vuông, không có lấy một thứ đồ
đạc nào đáng giá. Trên một chiếc đi văng bằng gỗ, được trải mấy tấm chiếu hoa,
Vũ Hoàng Chương ngồi tựa lưng vào vách, gầy gò và mệt mỏi. Trên khuôn mặt xanh
xao là một cặp kiếng trắng dày cộm. Trước mặt ông là một tờ báo và một chiếc
kính lúp, mỗi khi đọc, ông phải soi từng dòng. Ngồi trên chiếc ghế kê sát cửa
ra vào là bà Thục Oanh, vợ của ông, một người đàn bà với vẻ bên ngoài rất bình
thường, nhưng lại có đời sống rất phi thường.
Bởi lẽ, bà còn là chị ruột của thi
sĩ Đinh Hùng. Suốt đời người đàn bà này là chỗ dựa của hai nhà thơ lớn mà ngoài
tánh khí thất thường ra, cả hai còn là những con nghiện á phiện rất nặng từ khi
còn rất trẻ, nhưng chẳng bao giờ làm ra được nhiều tiền. Vì thế, mà bà Thục
Oanh âm thầm chịu đựng cảnh túng thiếu, cắn răng lo cho hai nhà thơ lớn của
Việt Nam mà chẳng hề ta thán. Thấy tôi xuất hiện, bà Thục Oanh đứng dậy chào
khách và hỏi tôi muốn tìm ai? Tôi nói ngay: “Ông Chu Tử nhờ em đem biếu cho
thầy ít quà”. Tôi trở nên hụt hẫng khi nghe Vũ Hoàng Chương nói, cho dù giọng
ông chậm rãi và nhỏ nhẹ: “Chu Tử là ai? Hình như tôi không quen người này,
nhưng tại sao lại biếu quà cho tôi, mà quà gì thế?”. Khi nghe tôi nói tới
thuốc phiện, nét mặt ông rạng rỡ hẳn lên.
Tôi ngồi xuống mép đi văng, đặt hai
lạng thuốc phiện lên tờ báo cũ mà ông đang đọc dở. Như bị ma lực của nó thu
hút, ông cầm lên, mở ra, vẻ thích thú của một tay sành điệu: “Thuốc Thượng Lào,
sản phẩm hảo hạng đây”. Thế là câu chuyện giữa tôi và thi sĩ Vũ Hoàng Chương
trở nên thân mật hơn. Ông nói, mỗi ngày ông vẫn có thú vui đọc báo, nhưng chỉ
đọc được một tờ, bởi không có đủ báo. Tôi hứa, mỗi ngày sẽ mang đến cho ông đủ
các loại nhật báo phát hành trong ngày. Để cho ông yên lòng, tôi nói, mỗi ngày
tôi thường đi ngang qua đây, nên rất thuận đường. Nói thế là vì tôi mong được
kết thân với ông, chứ chẳng có viếc gì phải cần đến khu vực này cả. Ông nhận
lời một cách vui vẻ, và từ đó, chiều nào tôi cũng mang báo đến cho ông, rồi
ngồi chuyện trò với nhau đủ mọi thứ chuyện trên đời, rồi thành thân thiết.
Vài tuần sau, một lần Vũ Hoàng
Chương bất chợt nhắc đến sức khỏe nhà văn Chu Tử. Nhân đó, tôi hỏi, dường như
ông và Chu Tử cũng quen nhau, nhưng giữa hai người có điều gì đó lấn cấn? Ông
thú thật là có quen biết. Nhưng do mâu thuẫn gì đó với Chu Tử, nên thôi. Còn
như Chu Tử có xúc phạm Vũ Hoàng Chương hay không, cũng chẳng ai biết hư thực ra
sao, bởi đó cũng chỉ là thị phi của người đời.
Có những buổi chiều khi tôi đến thì
bà Thục Oanh vắng nhà. Tôi tự pha trà và ngồi đối ẩm với thi sĩ Vũ Hoàng
Chương. Tôi hỏi ông về chuyện tình yêu và những bài thơ đau tình bất hủ của
ông. Nét mặt ông trở nên buồn vời vợi, nói như nói với chính mình: “Năm tôi 25
tuổi thì Tố Uyển đi lấy chồng, tôi đã như điên, như cuồng. Người ta biết nhiều
đến chuyện tình ly cách và những bài thơ tôi làm cho Tố Uyển giai đoạn này, đặc
biệt là hai câu mà nhiều người thuộc:
Tình ta, ta tiếc cùng ta khóc -
Tố của Hoàng, nay Tố của ai…
Tố của Hoàng, nay Tố của ai…
Ông nói tiếp: Thật ra còn có một
người phụ nữ nữa, cũng làm cho tim tôi và thơ tôi rỉ máu, nhưng ít được
người ta nhắc tới hơn:
Kiều Thu hề! Tố em ơi
Ta đang lữa đốt tơi bời mái tây…
Ta đang lữa đốt tơi bời mái tây…
Tôi hỏi: “Thế còn cô Thục Oanh?”.
Ông nói: “Đó là một người bạn đời, người chia ngọt sẻ bùi, tuy không phải là
người tình nhưng còn hơn cả người tình”.
Thi sĩ Vũ Hoàng Chương thường nói
với tôi là ông không có bạn. Nhưng theo tôi nhìn thấy thì ông sống rất tình
nghĩa. Có lần ông hỏi tôi có thường gặp Ngọc Thứ Lang không? Tôi nói rất thường
gặp. Sáng nào cũng thấy anh ngồi ở quá cà phê trước tòa soạn báo Sóng Thần. Dạo
này trông anh rất yếu và hay đau ốm. Thế là chẳng nói, chẳng rằng, ông lấy trên
đầu nằm ra một cục thuốc phiện, cắt làm đôi, gói cẩn thận bằng một mảnh giấy
kiếng màu cam, rồi trao cho tôi, dặn dò: “Đưa cho Ngọc Thứ Lang và đừng
nói gì cả”.
Một buổi chiều khác, tôi gặp Lê Cung
Bắc (nay là đạo diễn - NSƯT Lê Cung Bắc) tại tòa soạn, và rủ anh ghé Vũ Hoàng
Chương chơi. Lê Cung Bắc nhận lời ngay, bởi anh cũng là người yêu thơ và rất ái
mộ thơ Vũ Hoàng Chương. Đó là một buổi gặp gỡ hết sức thú vị.
Trước khi theo tây học, Vũ Hoàng
Chương từng học chữ Nho nhiều năm, thuộc loại uyên bác. Còn Lê Cung Bắc lại
xuất thân trong một gia đình khoa bảng, mấy đời ông cha liên tục đỗ đầu các đại
khoa dưới triều Nguyễn. Do đó, anh cũng rất tinh thông Tứ Thư, Ngũ Kinh,… từ
hồi còn rất trẻ. Đặc biệt, Lê Cung Bắc thuộc làu rất nhiều bài Đường thi, và cả
những bài từ, bài phú. Thế là một già, một trẻ, hết đọc rồi bình thơ Lý Bạch,
Đỗ Phủ, đến Bạch Cư Dị, Thôi Hiệu… say sưa cho đến sẩm tối. Vũ Hoàng Chương
nói, ông tuy đã già nhưng tâm hồn còn rất trẻ, nên rất thích chuyện trò với
những người bạn trẻ có được kiến thức như Bắc.
Ông dặn tôi, thỉnh thoảng nhớ rủ Lê
Cung Bắc đến thăm ông, để chuyện trò cho đỡ buồn. Khi chia tay, ông rời đi văng
bước ra cửa tiễn chúng tôi bằng những bước đi không vững, để bày tỏ lòng mến
khách. Ông nói: “Lâu lắm không bước ra đường, chẳng biết phố xá dạo này ra
sao?”. Lê Cung Bắc trả lời: “Phố xá thì vẫn thế. Có điều, càng ngày các cuộc
xuống đường của những lực lựơng tranh đấu càng nhiều hơn. Ngựa sắt, hàng rào
kẽm gai và khẩu hiệu, biểu ngữ xuất hiện khắp nơi”. Ông lại hỏi: “Người ta viết
gì trên đó?”. Tôi đáp: “Thì đại loại chế độ của Tổng thống Thiệu muôn năm, hoan
hô cái này, đả đảo cái kia”. Lập tức thi sĩ Vũ Hoàng Chương ứng khẩu, đọc liền
hai câu:
Thế mà cứ chúc muôn năm mãi
Nó sống lâu thì nước chết non.
Nó sống lâu thì nước chết non.
Ra đầu đường, Lê Cung Bắc nói với
tôi, quả thật, nếu cứ nhìn vào cái thân xác gầy còm, yếu ớt đó, không ai ngờ
tiềm ẩn trong tim là ngữ khí ngất trời.
Điều làm tôi cảm động nhất, là vào
một buổi chiều cuối năm 1974, khi tôi đến với ông như thường lệ đã thấy trước
mặt ông là một tập sách mỏng. Ông cầm lên đưa cho tôi và nói: “Đây là quà của
tôi biếu anh, một trong những người rất hiếm hoi mà tôi quý mến”. Tôi lật ra,
cứ tưởng như mơ. Đó là một tập thơ của Vũ Hoàng Chương, do chính ông viết bằng
đầu tăm, chấm mực tàu viết lên giấy bổi. Tập thơ có cái tựa là Song Kiều, ngoài
bìa Vũ Hoàng Chương viết tặng đích danh tôi, có chữ ký và triện son hẳn hoi,
nhưng chỉ dày hơn 20 trang, mỗi trang có 4 câu lục bát, vì nét chữ rất to. Dĩ
nhiên là tôi vô cùng sung sướng. Cái công mỗi ngày tôi vẫn mang báo đến tặng
ông rõ ràng không bỏ.
Đầu năm 1975, khi chuyển nhà đi nơi
khác, vì không ổn định chỗ ở, tôi đã mang tập thơ quý giá, với chỉ một ấn bản
duy nhất đó, cùng một ít tư liệu riêng, gởi gắm cho nhà thơ Huy Tưởng trên
đường Huỳnh Tịnh Của. Về sau tôi hỏi, thì Huy Tưởng nói đã nhiều lần cố lục tìm
trong đống sách vở và đồ đạc lỉnh kỉnh trong nhà anh, nhưng chẳng biết thất lạc
ở đâu. Thế là mất!
Một thời gian sau, thi sĩ Vũ Hoàng
Chương rời khỏi “gác mây”, dọn về Vĩnh Hội. Từ đó, cho đến lúc ông qua đời vào
năm 1976, vì bộn bề công việc, tôi không đến với ông được nữa. Ngay cả khi
ông nhắm mắt, tôi lại ở thật xa thành phố, nên cũng không thể đến
thắp cho ông một nén nhang như lòng tôi mong ước.
Tôi nghĩ, cho dù quá nhiều thăng
trầm ở đời này, hạnh phúc thì ít, khổ đau thì nhiều, nhưng có lẽ thi sĩ Vũ
Hoàng Chương cũng đã mỉm cười ra đi bởi ông đã thấm đẫm tinh thần Phật giáo như
lời thơ ông:
Biển khổ mênh mông sóng ngập trời
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng, ai xuôi sóng
Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.
Khách trần chèo một mái thuyền chơi
Thuyền ai ngược sóng, ai xuôi sóng
Cũng chỉ trong cùng biển khổ thôi.
Bình Trưng Đông, tháng Chạp - năm
Tân Mão.
Đoàn
Thạch Hãn
No comments:
Post a Comment