Cùng năm, Phó chủ tịch Hội nhà văn Thượng Hải Triệu Trường Thiên kiêm
Tổng biên tập tạp chí Manh nha đã phát động cuộc thi Làm văn
theo khái niệm mới xuất phát từ việc tìm ra cách trả lại cho môn
Văn những gì nó vốn có, để môn này thực sự trở thành môn cơ sở nâng
cao tố chất tổng hợp của học sinh, bao gồm tính nhân văn, tính thẩm
mỹ, tính linh hoạt, tính sáng tạo và tính lý tưởng. Sang năm 1999,
bảy trường đại học trọng điểm trong toàn quốc là Bắc Kinh,
Phúc Đán (Thượng Hải), sư phạm Hoa Đông, Nam Kinh, Sơn Đông, Hạ Môn cùng
liên kết với Manh nha. Sau đó, các trường đại học khác là Thanh
Hoa, sư phạm Bắc Kinh, Vũ Hán, Trung Sơn, Chiết Giang, Nhân dân Trung
Quốc tham gia tuyển chọn, đánh giá bài thi. Năm 2012, Học viện hý
khúc Thượng Hải cũng gia nhập. Cho đến nay đã có 14 trường dại học
cùng chung sức chấm thi.
Người
dự thi được chia thành ba nhóm :
Nhóm A gồm học sinh lớp 11, 12 (kể cả trường trung cấp chuyên nghiệp)
Nhóm B gồm học sinh lớp 10 và lớp 9 trung học cơ sở.
Nhóm C gồm thanh niên dưới 30 tuổi.
Hội đồng chấm thi gồm nhà văn, biên tập viên nổi tiếng, học giả nhân
văn và giáo sư khoa Văn trường đại học. Bài thi hạn trong ba giờ, 5000
chữ (sau có thể viết dài) phải qua hai vòng : sơ khảo và phúc khảo,
ai được vào vòng phúc khảo sẽ tới Thượng Hải dự cuộc thi chung tại
hiện trường. Ba năm đầu, người đoạt giải Nhất cuộc thi có thể
được vào thẳng đại học (sau đó, Bộ giáo dục đã xóa bỏ vì giáo
dục được cải cách và cũng vì ưu huệ này gây nên rất nhiều điều
tiếng). Dù sao, vinh dự ấy cũng rất có lợi cho các em khi ghi tên vào
danh sách chiêu sinh tự chủ của các trường đại học nổi tiếng. Ngoài
ra, bài văn được đăng trên Manh nha, sau đó được gộp in thành
sách và sách bán rất chạy.
Lấy “khái niệm mới” làm chủ đích, cuộc thi nhằm đề xướng :
a.
Tư duy mới, tức tính sáng tạo.
b.
Biểu đạt mới tức dùng ngôn ngữ có cá tính để biểu đạt, không bị
gò bó bởi đề tài, thể tài. Chống lối văn sáo rỗng, ai cũng giống
ai.
c.
Có thể nghiệm thực sự, có quan tâm quan sát cuộc sống thực sự, có
cảm thụ chân thành.
Cuộc thi có ảnh hưởng sâu rộng chủ yếu tới học sinh trung
học. Các em đã vứt bỏ lối làm văn theo công thức. Một số người trong
giới giáo dục tỏ ra lo ngại, nhưng cuộc thi không ảnh hưởng trực tiếp
đến việc giảng dạy ngữ văn và làm văn tại bậc trung học ở đại lục.
Người dự thi đương nhiên là người yêu văn học và mong ước dệt mộng văn
chương. Đề ra cho một vài lần thi như sau :
Lần
thứ nhất (1999) : Một hành vi nghệ thuật.
Lần thứ hai (2000) : Cái quạt.
Lần thứ ba (2001) :
a. Dựa vào dữ liệu sau đây, có thể liên tưởng, tưởng tượng, luận
bàn, viết thành bài, đầu đề tự đặt. Dữ liệu : một nơi phát hiện
có mỏ kim loại, trữ lượng rất lớn, mọi người đổ xô đến, nhưng con
sông lớn chắn ngang.....
b. Có một loài hoa hướng dương không trồng được, đó là hoa hướng dương
trong bức danh họa Hoa hướng dương ; có một chiếc lều mà người
khác không dựng được, đó là Chiếc lều của bác Tôm.
c. Giả sử ngày mai không có mặt
trời.
Cuộc thi lần thứ 10 với đề thi “ Âm thanh mà bạn chưa thể để ý đến”
do giáo sư khoa Văn trường đại học Phúc Đán là Uông Dũng Hào ra đề.
Ông nói, “chủ ý khi ra đề này của tôi là những em ra đời vào những
năm 90 có rất nhiều tiếng nói mà người ta chưa biết đến. Tôi muốn
thông qua đề mục này để các em tự do biểu đạt những ý nghĩ trong
lòng, cũng là để chúng ta lắng nghe tiếng lòng của các em. Đương nhiên
đây là đề thi mở, có thể viết về những âm thanh và quan điểm khác
mà người ta bỏ qua”. Sau đó ông cũng cho biết, số bài văn dự thi bám
sát đề chưa được một nửa, và “đáng tiếc là một số thí sinh chuẩn
bị sẵn một câu chuyện , tới lúc phúc khảo tại chỗ thì thay đổi ít
nhiều đem nộp. Một số em lại coi cuộc thi viết này là cuộc khảo
thí, chứ không phải là dịp để các em biểu đạt sự cuồng hoan của tâm
hồn”.
Sau đây, không biết có bao nhiêu em đoạt giải Nhất còn kiên trì theo
đuổi sáng tác ? Chỉ biết cuộc thi đã làm thay đổi số phận của
nhiều em học sinh, làm nảy nở lứa nhà văn “sau 80” từng khiến văn đàn
kinh ngạc và sau đó là vì nể. Nhà văn thành danh Hàn Hàn là người
đoạt giải Nhất cuộc thi lần đâu và giải Nhì cuộc thi lần hai với
tác phẩm Nhìn người từ trong cốc, Ba lần cửa, Cuộc sống mà tôi
hiểu ; Quách Kính Minh đoạt giải Nhất cuộc thi lần ba và tư với
tác phẩm Giả thử ngày mai không có mặt trờ, Hoa rụng trong mộng
biết bao nhiêu, Tòa thành ảo; Trương Duyệt Nhiên đoạt giải Nhất
cuộc thi lần ba với tác phẩm Chiếc bình gốm rơi vỡ, Anh đào đã
xa. Mèo đen không ngủ ; Nhan Ca đoạt giải Nhất cuộc thi lần tư với
tác phẩm Cẩm sắt, Quan hà ; Quách Giai Âm đoạt giả Nhất cuộc
thi lần mười với tác phẩm Trời hửng dưới tán ô, được
chủ biên Manh nha khen : “Thế giới tình cảm của giới trẻ dưới
bút của cô đặc biệt tinh tế, thanh tân”.
Cho đến năm nay, 2013,
cuộc thi đã là lần thứ 15 và còn tiếp tục ở những năm sau. Người
dự thi dần dần hầu hết là lứa “sau 90” mà theo Phó chủ tịch Hội
nhà văn Thượng Hải Triệu Trường Thiên thi ở các em có càng nhiều
điểm sáng hơn nữa. Ông nói : “Các tác giả nhỏ tuổi trước đây chỉ
quanh quẩn viết về công nhân mất việc, bị sa thải, bố mẹ ly dị, còn
lứa trẻ ngày nay hầu hết viết về phẩm vị cuộc sống vật chất.. Hơn
nữa, tôi cảm thấy lượng đọc của họ không hề ít như chúng ta tưởng
tượng”. Trương Duyết Nhiên ngày nào còn là học sinh dự thi, này đã
là Ủy viên hội đồng chấm thi. Chị cho biết, khi chấm các bài văn dự
thi, chị đã thấy nhiều em “ ngả mũ chào Kapka, Nabukốp v.v...và mô
phỏng họ, Điều đó nói lên lượng đọc của các em rất rộng. “Hơn nữa ,
tôi vẫn nghĩ ngôn ngữ của lứa trẻ này hẳn đã bị hỏng cả,
thậm chí tôi còn lo trong bài văn của họ xuất hiện lời lẽ của người
sao Hỏa mà tôi không hiểu được. Nhưng tôi đã thấy họ vận dụng ngôn
ngữ rất tốt”.
Đó là cơ sở để Ban tổ chức cuộc thi, nhà văn các lớp trước vui mừng
chào đón lứa nhà văn “sau 90” với nhiều tác phẩm “khái niệm mới”
xuất sắc./.
Phạm Tú Châu tổng thuật.
***
Một số bài thi đoạt giải Nhất
cuộc thi Khái niệm mới
Nhìn
người từ trong cốc
(Theo đề thi : Một hành vi nghệ thuật)
Hàn Hàn
Điều tôi nghĩ đến là tính người, nhất là những tính xấu xa
của dân tộc Trung Quốc. Lỗ Tấn tiên sinh nói chưa hết.Tôi có cach nhìn
của tôi.
Tam tự kinh đời Nam Tống có câu Nhân chi sơ, tính bản thiện, ấy
là nói con người khi mới sinh ra chẳng khác gì mảnh vải vo viên còn
khô nguyên, có thể nghiêm ngặt, cẩn thận khép mình vào luật. Nhưng khi
đã tiếp xúc với xã hội là nước, cho dù là nước trong, cũng không
thể tự chủ, chẳng khác gì lá cây Xấu Hổ bị chạm vào, sự nghiêm
ngặt, cẩn thận vốn có sẽ dần dần lơi lỏng, sẽ dần dần bị nước
thấm xuyên, tư tưởng bèn tiếp cận với Liệt Tử.
Phẩm tính người Trung Quốc vốn như thép, cho nên ai đã giữ mình trong
sạch thì cố giữ đến mức mấy chục năm sau khi sinh ra đời vẫn trong
sáng, thuần khiểt gớm ghê. Những người trong sáng, thuần khiết ấy
không thấm nước nên không được xã hội dung nạp, bởi thế quân tử mới
cố cùng (1).
Người viết tạp văn là như vậy. Nhiều bài tạp văn vạch trần cái ác
trên các báo Tạp văn, Văn hối đọc thấy rất khoái, tưởng rằng
tác giả ghét cái ác như kẻ thù. Thật ra không phải thế. Cần phải
đọc kỹ, đọc kỹ thì sau đó mới nhận biết sự phẫn uất của tự thân tác
giả : “ Sao ông đây lại chẳng phải là quan nhỉ ?”. Nhưng nếu những
người mắng chửi quan bỗng nhiên được một chức quan, không khéo lại
giống như Lý Bạch, là cảm thấy vinh dự được quen biết quan. Tiếc
rằng bây giờ đang lúc tranh giành chức quan, không đến lượt những ai
chửi quan rồi lại muốn làm quan, cho nên họ đành chửi quan ngày một
nhiều.
Viết đến đây thì mảnh vải đã như người mệt đứt hơi, duỗi thẳng lưng
nằm trên giường, đầy cả cốc. Tiếp xúc lâu rồi ắt không tránh khỏi
nở ra kỳ hết,
Tôi lại nghĩ đến đạo trung dung và đạo khiêm tốn của Nho gia mà người
Trung Quốc tin giữ. Là người Trung Quốc, thật bất hạnh khi trước hết
phải học khiêm tốn. Một người lúc đầu dù cuồng ngạo đến đâu thì
dần dần cũng trở nên khiêm tốn. Tiền Chung Thư ̣(3) lúc đầu cũng vậy,
nhưng đáng thương thầy của ông là Ngô Bí, Diệp Công Siêu bị chê là
“quá đần” và “quá lười ( theo Tôn Khánh Mậu : Truyện Tiền
Chung Thư và Tiền Chung Thư ra khỏi gương ma) nên sau đó tiếc
thay không được đọc những lời ngạo nghễ “duy ngã độc tôn” (2) nữa, như
thế cũng là bị ngấm nước rồi. Lý Ngao (4) thì may hơn. Quốc dân đảng
tạm thời chưa mài nhẵn được ông nên ông “giết” hết những gì ông thấy
chướng mắt, đối với Quốc dân đảng cũng “giết” không tha. Nghe nói
muốn tìm một người đáng tôn sùng, kính nể, ông liền soi gương, nhưng
Trung Quốc có thể có được mấy nhân tài phản nghịch về viết văn và
làm người ngoài “nhị thập tứ phẩm” (5) ? Ở Trung Quốc, làm một
người nói thẳng được về trình độ của mình quả thật không dễ. Một
số chuyện
của
người không khiêm tốn được đưa vào sách Thiệt hoa lục. Thiệt hoa
lục là sách thế nào ? Là sách chép chuyện cười. Bởi vậy mới
có người dạy con như sau : “Con ngoan của ta ơi, khi nào con già, giả
sử tài hoa cùng mình thì hãy nhớ kỹ, đừng làm như thế nhé ! Con
có đọc chuyện của những người cao ngạo trong Thiệt hoa lục thì
chớ cho đó là chuyện cười !”. Thế là người Trung Quốc bèn ngoan
ngoãn hòa mình vào xã hội, làm người khiêm tốn. Trung Quốc coi khinh
những ai khoác lác, còn theo tôi, chém gió cũng không sao, chẳng khác
gì phụ nữ đời xưa quen bó chân, thấy những đôi chân bình thường thì
gọi đó là “chân to”. Người Trung Quốc quen nói khiêm, nghe những lời
bình thường thì đương nhiên cho đó là nói khoác. Người dám nói khoác
thường bị xui xẻo, khiến người đời sau sợ hãi, từ không nói khoác
trở thành im hơi lặng tiếng luôn. May mà Hồ Thích ̣̉(6) ốm rồi qua
đời, nếu không, khi thấy tình cảnh ấy, ông ắt uất lên mà chết ! Kết
quả là người không nói khoác được xã hội tiếp nhận.
Viết đến đây, mảnh vải ngấm nước đã ngầm đến mức sắp chìm, thế là
đụng đến vấn đề phạm tội vì ngấm quá mức vào xã hội. Tỉ lệ phạm
tội ở Mỹ hùng cứ ngôi đầu trên thế giới. Tôi đã đọc rất nhiều sách
phê phán và ngợi khen nước Mỹ. Ấn tượng của tôi về nước Mỹ chẳng
hay ho gì, nhưng có một điểm đáng được khẳng định. Ấy là một đứa
trẻ Mỹ dù có tiền đến đâu cũng không được phép bước vào rạp chiếu
phim chiếu phim heo. Người làm công tác giáo dục ở Trung Quốc phải
chăng có biêt điều đó gắn liền với việc phạm tội của thanh thiếu
niên ? Người chưa đến tuổi mà tiêm nhiễm xã hội quá mức thì ắt phạm
tội. Người làm công tác giáo dục ở Trung Quốc phân biệt quá rành
mạch giữa tình dục và phạm tội. Từ chữ viết có thể nhận ra người
Trung Quốc tạo chữ không tiên tri bằng người La Mã thời cổ. Trong chữ
Latinh có từ Corpusdelieti, có nghĩa là “thân thể, nhục thể “ và
“điều kiện phạm tội”, cho thấy người La Mã từ lâu đã nhận thức được
nhục thể là điều kiện phạm tội.
Viết đến đây chợt phát hiện mảnh vải đã chìm xuống đáy cốc rồi
(7)./.
Chú
thích của người dịch :
1.
Quân tử cố cùng : quân tử bền lòng khi không được toại chí.
2.
Duy ngã độc tôn : chỉ mỗi mình là tôn quí.
3.
Nhà văn hiện đại, nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng của Trung Quốc.
4.
Nhà văn, nhà tho, nhà sử học, nhà phê bình thời sự Đài Loan
5.
Nhà lý luận thơ cuối đời Đường là Tư Không Đồ viết sách Nhị thập
tứ thi phẩm, nghiên cứu phong cách mỹ học của thơ và quy nạp thành
24 phẩm cách, gồm hùng hồn, tinh tế, trầm lắng, điển nhã, cứng cáp,
tự nhiên, hàm súc, hào phóng v.v...., từ đó người ta cũng suy ra 24
phẩm cách của con người.
6.
Học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà sử học hiện đại của Trung Quốc
7.
Hôm thi Hàn Hàn đến muộn, được thi bổ sung. Biên tập viên Manh nha
bỏ một mảnh giấy vo viên vào cốc nước đầy làm đề. Trong bài thi,
Hàn Hàn lại viết thành “mảnh vải vo viên”. Dư luận ngờ trình độ một
học sinh lớp mười không thể viết được sâu sắc gồm cả tri thức đông
tây, kim cổ như vậy, hẳn phải do người có trình độ làm sẵn.v.v...
Chủ biên Manh nha và Hàn Hàn đã thanh minh.
II.
Chiếc bình gốm vỡ
(Theo đề
thi 1 : Căn cứ vào dữ liệu sau đây mà liên tưởng, tưởng
tượng, bàn luận viết thành bài, đầu đề tự đặt. Dư liệu : một nơi
phát
hiện có mỏ kim loại, trữ lượng lớn,
mọi người đổ xô đến, nhưng sông
lớn chắn ngang....)
Trương Duyệt Nhiên
Một đồ gốm là
một sinh mệnh. Khi bạn đứng trước lò nung chờ đợi đồ gốm tự tay bạn
làm ra lò thì chẳng khác gì bạn chờ đọi một hài nhi thuộc về bạn
ra đời—Đề
ký.
Mấy lời trên đây do Phạn Tiểu Cao nói với tôi. Trong lòng tôi, Cao là
siêu nhân và là người giỏi nhẫn nại. Dưới gầm trời này, chỉ một
mình tôi tin chắc Cao là nhà nghệ thuật. Tôi quen Cao hôm tôi đến quán
bar gốm chơi nặn đất. Cao làm công việc dạy khách nặn đồ gốm, dáng
vẻ bất cần đời.
Khi nặn đồ gốm, mặt Cao luôn lạnh lùng, hơn
nữa chẳng khi nào cúi đầu, cứ ngẩng cao vầng trán vừa nhìn đã nhận
thấy cao quí, những ngón tay thon mảnh vờn đất sét theo tiết tấu,
Không một chút xúc động nào trong khi làm, chỉ hai ba phút là Cao nặn
xong một cái bình đất không đặc trưng, không cá tính. Đấy là lúc lần
đầu tiên tôi nhìn thấy Cao, tôi thong thả tiến đến vì trên chiếc áo
thuần một màu Cao đang mặc có sáu cái cúc rất lạ. Sáu cái cúc
bằng đất nung, giữ nguyên màu đất sét, trên cúc có nhiều hình khác
nhau như hình mặt trăng lặng lẽ, hình con mắt buồn thương v.v...Mỗi
chiếc cúc đều có vẻ đẹp phóng khoáng, vời vợi. Khi tôi biết đó là
những kiệt tác tự tay Cao làm, tôi nhất quyết kết bạn với Cao.
Chúng tôi là bạn chơi với nhau rất thân, hai đứa đều thích quán bar
gốm. nơi thường xuyên mở nhạc của người da đen, máy xay cà phê và bàn
xoay làm đồ gốm cùng quay một điệu. Hai đứa cũng thích cà phê Lam Sơn
và rượu bạc hà xanh dịu ngọt, thích màn đêm và mèo con, thích tàu
điện ngầm và đèn nêông , thích phim của Vương Gia Vệ và truyện của
Murakami Haruki. Và cuối cùng, cả hai cùng thích đất sét và đồ gốm.
Nhưng không lâu sau đó, tôi phải chia tay với nhà nghệ thuật trẻ tuổi
ấy. Niềm kiêu ngạo và lòng ham muốn của Cao không ngừng lan rộng,
cuối cùng đã thiêu đốt trái tim vốn bình dị, ôn hòa của anh.
Sớm ròi bỏ trường học tràn đầy tình cảm thuần khiết, mười chín
tuổi, Cao muốn đến thành phố có tàu điện ngầm, có hoạt động ban
đêm, có công ty bách hóa mang tên Mùa Xuân Paris để tìm mộng. Còn tôi,
tôi phải ở lại thành phố nhỏ còn lạc hậu này để tiếp tục làm
những bài tập vĩ đại, bất hủ.
Hôm ấy là một chiều mùa đông khá lạnh giá. Quán bar gốm. Tôi ngồi
trước bàn xoay làm đồ gốm đang quay tít, nhìn thẳng vào người bạn đáng
yêu của tôi là Phạn Tiểu Cao. Nói theo Milan Condra thì chiều hôm
ấy là “cuộc tụ họp để chia tay”. Tôi nghĩ nguyên nhân Cao chọn
tôi làm người tiễn biệt vì lâu nay tôi sùng bái anh như một tín đồ,
hoặc anh chỉ muốn có một chút tình cảm lưu luyến khi từ biệt thành
phố này. Cao luôn nói lời an ủi để tôi bớt đau lòng. Cao nói anh sẽ
mua cho tôi một con gấu mũi bằng da thật nghe nói khá đắt tiền ở Mùa
Xuân Paris, Cao nói anh sẽ đón tôi đến chơi.....Tôi tê dại lắc đầu, hơi
nũng nịu nói :
-Làm cho em một đồ gốm lần cuối cùng đi nào !
Tôi cảm thấy tim tôi thấp thỏm rung lên hai từ nóng bỏng : Ái Tình.
Trong giây phút, tôi ngạc nhiên. Như một con mèo đang thích thú chén
cá, đúng vậy, hai chúng tôi chơi với nhau rất thích thú, thích thú
như con mèo đang hưởng thụ món cá, nhưng con mèo sướng quá hóa rồ ấy
chỉ một giây bất cẩn đã nuốt phải cái xương mang tên Ái Tình. Vấn đề
rất nghiêm túc là cái xương Ái Tình hoàn toàn bất ngờ ấy đã làm
đau con mèo non nớt.
Tôi nhìn ra ngoài cửa sổ, tự nhắc nhở đây là mùa đông khô cằn thích
hợp cho biệt ly. Tôi tự nhấn mạnh nhiều lần rằng Phạn Tiểu Cao chẳng
qua chỉ là ngôi sao đổi ngôi vụt lóe sáng rồi mất hút ngay bên cạnh
tôi, nhưng tôi không cách gì phủ nhận ánh sáng mãnh liệt của ngôi sao
đổi ngôi ấy đã làm tổn thương tôi.
Cả một buổi chiều, chúng tôi chung sức hoàn thành một chiếc bình
gốm rất có cá tính. Nó tròn xoe, bụng bự đến ngạt thở vì miệng
bình hình trái tim chỉ to bằng móng tay cái. Tôi yêu cầu vách bình
phải thật mỏng, bởi có mỏng thì khi gõ mới vang lên được thanh âm
khiên lòng người xúc động. Trong lúc bàn xoay làm bình gốm quay tít
mù, tôi lặng lẽ ứa một giọt nước mắt, nó cũng lặng lẽ rơi tọt vào
trong bình. Phạn Tiểu Cao dừng bàn xoay, kéo tôi đang ngây dại lại, hết
sức dịu dàng nói :
-Cô bé ngốc nghếch ơi, muốn bình mỏng nữa thì khi nung nó sẽ nổ mất
đấy !
Tôi đăm dăm nhìn chiếc bình, rụt rè hỏi :
-Cho em một cái cúc bằng gốm của anh
được không ?
Thế là tôi được cái cúc khắc hình chiếc xương cá đã trải qua một
đoạn biển dâu mà bấy lâu mơ tưởng. Tôi nắm chặt nó trong lòng bàn
tay. Đây là chiếc xương cá đã làm đau con mèo nhỏ hay sao ? Tôi lăm bẩm
tự hỏi.
Chiếc cúc được tôi cẩn thận gắn lên bình, chiếc bình lập tức
như được đeo huân chương, đứng ngạo nghễ trên bàn xoay. Đó là chiếc
bình do chúng tôi chung sức làm ra. Trong những ngày sau này, tôi có
thể dùng nó để ôn lại quá khứ, tôi có thể lắng nghe âm thanh của
tiếng sáo trời mỗi khi gõ nó. Tôi mân mê thân hình bằng đất sét của
nó để thần tượng mến yêu của tôi có thể kịp thời nhảy ra khỏi
những chuyện ngày xưa, đăm đăm nhìn vào mắt tôi như ngày nào. Chiếc
bình đó chứa đựng tình yêu của hai chúng tôi, một thể khí thơm ngát
không màu sắc và trong suốt. Có ai biết vì sao tôi cố hết sức làm
miệng bình nhỏ như vậy không ? Tôi sợ thể khí đó bay lên rồi thoát ra
khỏi bình đấy !
Đó là tất cả những gì tôi có thể làm cho tình cảm của tôi khi mười
bảy tuổi.
Từ lúc nặn xong bình đến khi đem nung phải chờ khoảng hai mươi
ngày.Trong thời gian đó, vào một buổi hoàng hôn màu hoa hồng nhạt,
Phạn Tiểu Cao ra đi. Tôi lặng lẽ ngồi bên cửa sổ, hết lần này đến
lần khác lẩm bẩm nói lời tạm biệt nhà nghệ thuật nửa mùa
trẻ tuổi trong hương cà phê Lam Sơn phảng phất lan ra như khói và trong
tiếng còi tàu ảo giác,
Trong thời gian chiếc bình yêu dấu của chúng tôi được nung, tôi lặng
lẽ ngồi bên lò nung chờ đợi. Phạn Tiểu Cao đã thu xếp sẵn để lò
chỉ nung một chiếc bình của chúng tôi, để nó long trọng được ra đời,
Trong thời gian chờ đợi dài dằng dặc, tôi tưởng tượng về chiếc bình
thanh khiết, thiêng liêng của
chúng
tôi. Nó có làn da màu đồng cổ, nó có cái bụng bự tròn xoe, trên
mình nó mang hơi thở của Anh.
Nhưng tất cả đã vụt tắt trong một tiếng nổ vang. Tiếng nổ phát ra
từ lò nung đang thai nghén chiếc bình Tình Yêu của chúng tôi.
Trên đời này, chiếc bình yêu dấu chỉ vang lên một thanh âm duy nhất.
Nó nổ rồi, nó nứt rồi, nó vỡ rồi, nó chết yểu rồi !
Cuộc tình mỏng manh dễ vỡ như vậy là cái chắc.
Tôi khóc òa lên, không sao kiềm chế nổi. Tình yêu của chúng tôi nổ
rồi, tan ra từng mảnh rồi. Tôi chạy bổ đến bên lò, bới tìm trong
đống thi hài còn sót lại.
Chiếc cúc áo.
Tàn khuyết,
Tôi đăm đăm nhìn đi nhìn lại cái xương cá sứt sẹo, ngắn ngủn và kinh
ngạc nhận ra nó giống hệt một vết thương trên trái tim !.
Phạm Tú Châu dịch
Nguồn: Phong Điệp/VNT
No comments:
Post a Comment