Cho đến
tận năm 1949, tôi thú nhận không biết Hữu Loan là ai cả. Về văn cũng như thơ,
những cây bút ở ngoài kháng chiến vẫn là những cây bút cũ như Lý Văn Sâm, Bùi
Hiển, Phan Du, Kim Lân, Nguyễn Tất Thứ, Lê Tam Kính, Thâm Tâm, Vĩnh Lộc, Hoàng
Cầm, Trần Huyền Trân, Tô Hoài …Phần thì tin như thế, phần lại được nghe thấy
các vị cao cấp, hồi đó bảo rằng muốn tạo một lớp thợ chỉ cần năm năm, chớ tạo
một lớp văn nghệ sĩ phải mười năm là ít, tôi lại càng tin rằng các văn nghệ sĩ
“mới lên” chưa có gì lạ lắm, cho nên thỉnh thoảng có đọc họ mà không mấy chú ý
tìm cái hay của họ.
Phần nhiều tôi chỉ đọc lướt qua cho biết đại khái ra sao. Tai hại là cái thành kiến của người ta : chính vì cái thành kiến ấy tôi đã đọc nhiều bài bây giờ mới biết là hay, nhưng chính vào lúc đó thì lại cho là xoàng không đáng kể. Nói riêng về thơ, tôi yên trí chỉ có thơ Thâm Tâm, Hoàng Cầm, Trần Huyền Trân, Lưu Trọng Lư … đọc được, nên mỗi khi xem “Văn Nghệ” hay các tờ báo khác thấy những tên như Hữu Loan, Trần Dần, Yên Thao tôi chỉ đọc phớt qua. Những bài thơ như : Quách Văn Kỳ, Cô gái Triều Tiên, Nhà tôi, Tình mi tau, những kịch như kịch Tây Thi … thuộc vào loại tôi đọc rồi quên ngay, không buồn nhớ làm gì .
Phải đợi đến 1950, 1951, nhân một sự tình cờ,
tôi mới biết đến hai nhà thơ nổi tiếng là Hữu Loan và Yên Thao. Chính Tạ Tỵ,
một hôm ngồi ở một trụ sở trông ra hồ Hoàn Kiếm đã đọc bài Yên Thao cho tôi
nghe và tôi đã xúc cảm một cách thực thà. Còn ai đã nhắc cho tôi nhớ bài “Màu
Tím Hoa Sim” của Hữu Loan hiện nay thì tôi quên mất. Đặc biệt là lúc ở hậu
phương tôi đã đọc bài “Quách Văn Kỳ” và cả bài “Mầu Tím Hoa Sim”, nhưng phải
nói thật rằng phải đợi đến năm 1951 tôi mới thấy Hữu Loan là một thi sĩ “của
một bài thơ” đã làm cho lòng tôi rung động.
Nhớ lại một câu chuyện cũ của
Một anh bạn kháng chiến nói về HỮU LOAN.
Một anh bạn kháng chiến nói về HỮU LOAN.
“ Ngày hợp hôn …
Nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân.
Đôi giày đinh bết bùn hành quân.
Nàng không đòi may áo cưới,
Tôi mặc đồ quân nhân.
Đôi giày đinh bết bùn hành quân.
Nàng cười xinh xinh.
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về.
Cưới nhau xong là đi “
Bên anh chồng độc đáo.
Tôi ở đơn vị về.
Cưới nhau xong là đi “
Lúc ấy, tôi mới đem thơ “Mầu Tím Hoa Sim” của
Hữu Loan ra đọc lại và cũng đến lúc ấy tôi mới thấy quả tôi là một thằng ngu và
bướng, nạn nhân của chính thành kiến của mình. Đến cái địa hạt văn nghệ, âu là
mình cứ thành thật là hơn, nguyên hồi đó tôi vẫn tự phụ là người xem văn sành.
Tôi yên trí rằng mình đọc một bài văn mà cho là hay thì thiên hạ cũng sẽ cho là
hay, mà mình đọc một bài văn hay một bài thơ mà chữ xoàng thì thiên hạ chắc
chắn sẽ không buồn để ý. Sau khi đọc lại bài “Mầu Tím Hoa Sim” của Hữu Loan,
tôi tỉnh hẳn và thấy rằng “thiên hạ” đọc văn mới sành và chính tôi tưởng tượng
là mình sành thơ văn, mà hóa ra đi sau thiên hạ, đợi cho thiên hạ bảo là thơ
hay, văn hay mình mới cảnh giác mà biết là hay, là đẹp.
Rất có thể có người cho như thế là “ không có
lập trường vững chắc, a dua, ba phải “ và cứ nhất định kiên trì trong ý kiến
nguyên thủy của mình, không chịu theo ai. Những người như thế có ý nghĩ riêng
của họ và chưa biết chừng cứ bướng như thế cũng có lẽ phải riêng của họ. Riêng
tôi không thế : biết là mình ngu, mình lầm thì nhận ngay; mặt khác thơ văn mà
hay thật thì mình phải nhận là hay chứ không phải vì lòng tự ái của riêng mình
mà nhất đản chê là dở. Phải nói thật : tôi không chịu thơ Xuân Diệu. Thơ, theo
tôi, phải có hình tượng, phải cô đọng chớ không thể lòng thòng, thơ Xuân Diệu
nhiều lời mà ý ít, nhưng tôi chịu Xuân Diệu đã bình phẩm thơ Hữu Loan rất đúng
: “thơ của Hữu có hơi thơ Đổ Phủ”.
“ Từ chốn xa xa nhớ về ái ngại,
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại .
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê …
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh,
Lấy chồng thời chiến chinh
Mấy người đi trở lại .
Lỡ khi mình không về
Thì thương người vợ chờ bé bỏng chiều quê …
Nhưng không chết người trai khói lửa
Mà chết người gái nhỏ hậu phương
Tôi về không gặp nàng
Má tôi ngồi bên mộ con đầy bóng tối
Chiếc bình hoa ngày cưới
Thành bình hương tàn lạnh vây quanh,
Trong suốt bài “Màu Tím Hoa Sim”, cũng như
trong bài Quách Văn Kỳ, Tiếng Chuông Nhà Thờ, Hữu Loan đều nói một giọng mộc
mạc, thật thà như thế, gần như không gọt rũa, đó đã tạo cho thơ của Hữu Loan
một nét độc đáo, một chất thành thật lạ thường, khiến cho người đọc thấy lòng
tê tê, thương cảm. Giá trị thơ của Hữu Loan chính là ở chổ đó và cái giá trị đó
còn đáng lưu ý hơn lên một tầng nữa là văn anh thành thật như óc của anh vậy “
nông dân y như người anh vậy “.
Danh từ nông dân mà tôi dùng đây không phải là
của tôi nhưng là do hai người bạn rất thân với Hữu Loan đã dùng khi nói chuyện
với tôi về tác giả Màu Tím Hoa Sim : một anh chàng cùng quê, cùng học và cùng
sống với Hữu Loan trong thời kỳ tiền kháng chiến chống Pháp và một anh đã sống
với Hữu Loan trong thời kháng chiến và đã được Hữu Loan tự tay viết bài Màu Tím
Hoa Sim lên một cây quạt để tặng đem về thành …
Vậy Hữu Loan là người thế nào ?
Tình tiết đúng nhau cả, chỉ có tuổi thì lơ mơ
.
Cũng như đa số các anh em văn nghệ khác, hai
anh bạn, khi nói đến tuổi Hữu Loan không nói đến tuổi tây, nhưng lại tính theo
thập nhị can : tí, sửu, dần, mão … Theo anh L.K.T. Hữu Loan tuổi Dậu (năm nay
51) bằng tuổi Trần Quang Dũng, còn anh H.S.T. thì lại cho biết Hữu Loan tuổi
Mùi (năm nay 53), dù là Dậu hay Mùi thì Hữu Loan năm nay cũng hơn 50 rồi, đầu
hai thứ tóc, chớ không thuộc vào cái lớp “lớn lên trong kháng chiến” như một số
người yêu thơ vẫn tưởng.
Anh cao chừng 1 thước 65, nước da bánh mật,
hai răng cửa rất thưa, cử chỉ hiền lành một cách lạ, tiếng cười, tiếng nói hoàn
toàn nhà quê không phân biệt rõ rệt được dấu hỏi và dấu ngã. Cái vật chất ấy đã
tạo cho anh một tinh thần kiên nhẫn mà anh em đều mến phục, kiên nhẫn học hỏi,
kiên nhẫn chịu nghèo đói chớ không mảy may nghĩ đến chuyện xoay xở hay lợi dụng
thời cơ, kiên nhẫn chịu đựng các thử thách của nhiều người chung quanh, vì
không kham được tính thành thực đến ngổ ngáo của anh đã tìm các cách để đày ải
anh, hãm hại anh, mong cho anh chết trong thời kỳ kháng chiến.
Ngồi trên chổi lúa ăn cám mà vui như ăn cỗ .
Tự học đến bằng thành chung, rồi đậu Tú Tài
phần thứ 1, Hữu Loan phải nghỉ học, không thi nốt phần 2 chính là tại gia đình
anh nghèo quá. Lấy nghề dạy học kiếm tiền nuôi gia đình, anh dạy Pháp văn ở
trường Nhà Chúng (sau trường nầy đổi tên ra là trường Lê Bảo Tịnh) ở Thanh Hóa,
cùng lần với Phan Ngọc Hoan (Chế Lan Viên) dạy Việt văn. Trong thời gian nầy
theo anh bạn chí thiết của Hữu Loan mà tôi nói ở trên kia Hữu Loan có 2 điểm
đặc biệt : một là dạy tiếng Pháp thì lúc nào cũng đề cao La Fontaine là nhất
thế giới không có nhà thơ nào tài bằng, hai là dạy học kiếm được tiền mà lúc
nào cũng túng thiếu, nếu không muốn nói là đói khổ.
Ta đã biết cái đói khổ của Vũ Trọng Phụng, Nam
Cao, Khổng Dương, Vũ Trọng Can ra sao rồi. Đến cái đói khổ của Hữu Loan hồi năm
1945 thì có thể nói là “vượt bực”. Một anh bạn chơi thân thiết với anh từ lúc
nhỏ bây giờ vẫn kể chuyện mà không cần dấu diếm vì cái nghèo có phải là cái xấu
đâu !
- Rằng có một hôm đến thăm Loan đã thấy anh ngồi trên một cái chổi lúa ăn cám thay cơm, thấy bạn vào anh vẫn ăn như thường và nói đó là cơm kê vàng “ngon lắm”, nói một cách thành thực tin tưởng chớ không phải nói để thi vị quá cái nghèo của mình, nói để che đậy nổi khổ của mình. Anh nói thế và ăn tiếp, ăn một cách ngon lành, ăn một cách thú vị như một người nhà quê đi ăn cỗ lòng dấm vậy.
- Rằng có một hôm đến thăm Loan đã thấy anh ngồi trên một cái chổi lúa ăn cám thay cơm, thấy bạn vào anh vẫn ăn như thường và nói đó là cơm kê vàng “ngon lắm”, nói một cách thành thực tin tưởng chớ không phải nói để thi vị quá cái nghèo của mình, nói để che đậy nổi khổ của mình. Anh nói thế và ăn tiếp, ăn một cách ngon lành, ăn một cách thú vị như một người nhà quê đi ăn cỗ lòng dấm vậy.
Độc đáo, cái gì cũng muốn độc đáo .
Đó là một người chất phác, không có mặc cảm
một ly ông cụ. Nghĩ cái gì, nghĩ thế nào thì cứ nói huỵch toẹt ra như thế, chứ
không có đắn đo chi cả. Chính điểm đó làm cho anh thành một người độc đáo như
anh đã viết trong thơ :
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Nàng cười xinh xinh
Bên anh chồng độc đáo.
Hữu Loan độc đáo từ cái tên ký ở dưới các bài
anh viết. Trong báo “Đời Mới” số 99-100 Minh Đăng Khánh viết một truyện ngắn về
“Cánh Hoa Sim” với một giòng đề tặng : “Anh Hữu – mến tặng tình anh trong Màu
Tím Hoa Sim “ chính đã gọi cái tên cúng cơm của Hữu Loan ra. Hữu Loan tên
thật là Nguyễn Hữu Loan, nhưng trong các bài thơ, văn, truyện ngắn anh viết đều
chỉ ký một chữ cụt lủn là chữ HỮU.
Hỏi tại sao lại thế thì anh nói :
Văn nghệ sĩ các anh không độc đáo tí nào. Cái
gì cũng bắt chước Tàu, ký bút hiệu bao giờ cũng dùng hai chữ : Mai Nhại, Thượng
Chi, Nhượng Tống, Minh Viên … tôi không bắt chước ai cả, tôi ký là Hữu. Về sau
nầy, có một vài bài của Loan ký là Phương Hữu (2 chữ) nhưng không phải là anh
thay đổi ý kiến, mà chỉ vì hồi đó anh hợp tác với một người bạn tên là Phương,
bút hiệu Hùng Nguyên.
Độc đáo từ cái tên, tất nhiên làm văn, viết
thơ, anh cũng đi tìm cái gì độc đáo và anh tin rằng mình độc đáo mới “đúng lý”
vì nói cho thực Hữu Loan là một típ người tin tưởng ở mình không chê được, tin
tưởng đến cái mức không coi những người có quyền thế lúc bấy giờ không ra cái
nỡm gì, hơn thế tin tưởng ở lẽ phải, ở lòng ngay thẳng của mình đến cái độ
không sợ chết, thách người khác dám giết mình, thách người khác dám “chơi”
mình.
Có một lúc Hữu Loan sau những giờ dạy học,
thường đến viếng một vài người bạn làm tờ “Tiến” và “Ngày Mai” ở Thanh Hóa có
khi ngủ lại đêm ở tòa báo. Hữu Loan đọc văn, thơ gửi đăng hai báo đó, nói “toạt
móng heo” mà không sợ anh em buồn “
“Viết thế nầy thì ai chẳng viết được.
Tao viết còn hay bằng mấy … Còn thơ nữa ! Dở ẹt ! Để tao làm thơ cho chúng mày
coi.”
Về nhà Loan làm bài thơ thứ nhất chìa cho 2
anh chủ bút và chủ nhiệm coi, thì cả chủ bút lẫn chủ nhiệm cười hô hố bảo :
“Thơ mẹ gì lại tích tịch tình tang như là
truyện Thạch Sanh. Thôi mầy về, dạy Fables de la Fontaine đi ,chớ làm thơ thế
nầy thì có khi mầy gây ra án mạng vì có người cười mà chết.”
Uất quá, Hữu Loan đi về, nhưng không nản chí,
cứ làm thơ, viết văn cho tới ngày Việt Minh khởi nghĩa, anh thủ một vai trò
quan trọng với mấy anh em thân thiết khác ở Thanh …
Độc đáo cả cách chửi .
Cái tính cách độc đáo của anh không vì lẽ phải
hòa mình vào tập thể mà bị tiêu ma hay giảm thiểu. Hữu Loan ở với kháng chiến
vẫn cứ độc đáo như thường.
Trong thời gian nầy, người quen biết Hữu Loan
còn nhớ ba vụ chửi độc đáo của Hữu Loan.
Một là vụ Hữu Loan chửi anh L.T.Đ. giử một
chức lớn ở Thanh Hóa lúc bấy giờ, nguyên L.T.Đ xuất thân chỉ là một thư ký hạng
bét, nhân cách mạng làm to. Thấy Hữu Loan túng thiếu Đ. mời Loan lại biếu tí
tiền xài đỡ. Cứ tưởng thầm là Loan sẽ nhận liền và cảm ơn vạn bội, không ngờ
Loan vứt tiền xuống đất chửi Đ. một trận ê chề :” Mầy bất quá chỉ là tên ký
quèn, tao chẳng ra gì cũng là giáo sư, đừng có lên mặt. Cách mạng mẹ gì mầy !
Chưa làm đã đớp tiền của dân, rồi còn làm mặt bảnh thi ân, thi nghĩa ! “
Hai là việc Hữu Loan chửi một ông Đại Tá chính
ủy liên khu 4. Nguyên lúc đó Hữu Loan làm báo “Chiến Sĩ” một tờ báo của quân
đội liên khu 4 . Chủ nhiệm tờ “Chiến Sĩ” là Đ.V.V. con rễ ông K.H.K. em của
Thượng tọa T.M.C. bây giờ, bấy giờ Loan làm chủ bút . Vinh là bạn của tướng
N.S., vì muốn tăng giá báo một hôm Loan đem một bức thư đến cho T.V.Q. lúc ấy
là Đại tá chính ủy liên khu 4 . Vì tính Loan ngay thẳng, không quỵ lụy, bợ đỡ
Q. không bằng lòng, lấy tay gạt lá đơn của Loan rớt xuống đất.
Thế là Loan “sửng cồ” chửi luôn không nể nang
gì cả, mà cũng bất cần cả hệ thống quân giai. Q. rút ngăn kéo lấy súng ra dọa
bắn, Loan càng chửi hăng hơn, chửi với đủ thứ danh từ nặng nề, chửi có sách, có
vần như đàn bà. Bao nhiêu người đứng ở đó đều sợ xanh mặt và lôi Loan ra ngoài,
nhưng anh không chịu, còn phanh ngực áo ra và bảo Q. :
“Mày là quan lớn, tao là thằng lính, tao thách
mầy dám bắn tao, mầy không dám bắn tao thì mầy chỉ là con chó ăn cứt !”.
Thế mà Q. không dám bắn thực. Những người biết
Loan quả quyết nếu Q. bắn chết anh, anh không cầu, chết thì thôi, nhưng cần
nhất là phải chửi cho thật sướng.
Hữu Loan nổi tiếng vì chửi dai, chửi tục, chửi
văng mạng. Chính vì chửi L.T.Đ. anh biết mình không thể làm to, nên bỏ chức
Trưởng Ty Thông tin đi làm lính quèn. Sau vụ chửi T.V.Q. Loan bị đày vào liên
khu 5 đi tác chiến ở những nơi đèo heo hút gió, ma thiêng nước độc, nhưng chính
nhờ vậy mà thi tứ anh dồi dào, ý thơ anh hàm súc , do đó viết được một tiểu
thuyết có tiếng về Thượng nhan đề là “M’nong” và nhiều thơ khi ở Dakto, Daksut,
trong đó có bài Đèo Cả, có nhiều câu bi hùng như thơ Đổ Phủ mà tiếc đến nay
không ai nhớ hết.
Ba là vụ Hữu Loan chửi tướng N.S., lúc ấy Loan
làm báo, một hôm tướng S. mời sang ăn cháo gà, ở ngoài đó đãi ăn cháo gà là
nhất. Có vài bạn văn nghệ dự, trong đó có H.T.N., ĐT.M. Đến nơi H.L. hỏi S. :
- Hôm nay có việc gì mà anh cho gọi tôi
sang ?
- Sang nói chuyện và ăn cháo, chớ không có gì lạ cả !
- Sang nói chuyện và ăn cháo, chớ không có gì lạ cả !
Thế là Loan sa sầm mặt lại nhất định không
ngồi thêm một phút. Về đến nhà, Hữu Loan nói với H.T.N. :
“Tôi không ngồi ăn với đồ chó ấy được. Lính
thì mỗi ngày quần một ngắn, đói bỏ cha , bỏ mẹ đi ấy thế, mà chúng ăn cơm phè
phởn chưa đủ, lại còn ăn cháo gà ! Anh có trông thấy vợ nó không ? Mặc sang như
bà hoàng, còn cửa sổ nhà nó thì treo toàn nhung lụa … không biết nhục !
Về sau nầy H.T.N. lúc vui chuyện nhắc lại vụ
nầy cười mà bảo : “Thực ra thì nhà S. có cái gì là nhung lụa đâu, có mấy miếng
vải hoa che cửa sổ cho người lạ khỏi nhìn vào. Nhưng Hữu Loan tính nó như thế,
nó trông thấy thế, không chửi không được, chứ đừng nói ngồi lại mà ăn …
Thì ra chửi cũng là một “đặc trưng “ một
cái gì độc đáo của Hữu Loan. Cố nhiên một người như thế không thể nào sống theo
nguyên tắc qui củ được. Bởi vậy người ta hiểu tại sao lúc làm Trưởng ty Thông
tin, anh được đề nghị làm Chính ủy Trung đoàn 77 lại nhất định không chịu, lại
cứ nhất định xin làm lính.
Đó lại là một cái khía cạnh độc đáo khác, mà
anh em đến bây giờ … dù cách trở núi sông đến ngần nào vẫn nhớ anh và thương
anh chất phác, nóng tính nhưng đáng yêu hết sức, vì thành thật.
MÀU TÍM HOA SIM là sự thật từ đầu đến cuối .
Bài thơ MÀU TÍM HOA SIM là điển hình cho tính
chất chất phác. Thành thật đó. Suốt từ chữ đầu cho tới chữ chót Hữu Loan đã nói
lên cái đau khổ của người chết vợ, chết mà không được nhìn mặt nhau :
Tóc nàng xanh xanh.
Ngắm chưa đầy búi.
Em ơi ! giây phút cuối .
Không được nghe em nói.
Không được trông thấy nhau một lần …
Ngắm chưa đầy búi.
Em ơi ! giây phút cuối .
Không được nghe em nói.
Không được trông thấy nhau một lần …
Người vợ chết mà “không được trông thấy nhau
một lần” nói trong bài Màu Tím Hoa Sim là cô L.T.N. con gái ông L.Đ.K. tham tá
thủy lâm, lúc ấy làm ủy viên tỉnh, đại diện huyện Quãng Xương, biết Hữu Loan
túng thiếu, ông K. tìm cách giúp đỡ bằng cách nhờ kèm hai con ông (sau khởi
nghĩa hai người con nầy làm Trung đoàn trưởng). Ông bà K. không hơn tuổi Hữu
Loan bao nhiêu, ông vẫn kêu ông bà K. là anh chị. N. là học trò của Hữu
Loan. Lúc lấy chồng N. mới có 17 tuổi, lấy chồng được hai hôm thì chồng lên
Việt Bắc, để vợ ở nhà, hai người anh của N. đi chiến đấu xa, cho nên trong thơ
mới có câu :
Một chiều rừng mưa …
Hai người anh từ chiến trường xa vắng
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về, rờn rợn nước sông .
Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng trông ảnh chị .
Hai người anh từ chiến trường xa vắng
Biết tin em gái mất
Trước tin em lấy chồng
Gió sớm thu về, rờn rợn nước sông .
Đứa em nhỏ lớn lên ngỡ ngàng trông ảnh chị .
Tôi không biết tên cả hai người anh đó, chỉ
nhớ một người tên là Khôi. Theo anh bạn L.K.T. thì cô L.T.N. vợ Hữu Loan đã mất
trong khi ngồi giặt trên một bờ sông trên con đường từ đập Bái Thượng về Thanh
Hóa.
Qua những đồi hoa sim.
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt …
Những đồi hoa sim
Những đồi hoa sim
Màu tím hoa sim
Tím cả chiều hoang biền biệt …
Về đến nhà , nghe tin vợ mất, Hữu Loan đã làm
bài thơ Màu Tím Hoa Sim và người được nghe đầu tiên bài thơ nầy do chính Hữu
Loan đọc một cách thực thà, không trầm bỗng chút nào, chính là H.T.N. Sau nầy
anh H.T.N. tả lại lúc Hữu đọc thơ nầy, cho biết là Hữu Loan vừa đọc vừa run cả
chân tay lên, tay cầm cốc sữa mà đổ cả hết ra ngoài không biết .
Còn anh L.K.T. thì được biết bài Màu Tím Hoa
Sim sau khi Hữu Loan đi thăm mộ vợ về. Hữu Loan ở lại chơi với L.K.T. một đêm,
sáng hôm sau dậy sớm đi, không nói, không năng gì cả, chỉ để lại cái quạt tự
tay chép bài Màu Tím Hoa Sim gửi anh chị L.K.T.
Loan nó còn một cái độc đáo nữa, anh có biết
không ? Là lúc nào trong ba lô của nó cũng có vài cái quạt giấy, nó viết thơ
của nó trên quạt, lặng lẽ để đấy, tặng bạn rồi đi, không nói với ai một lời.
Sau bài MÀU TÍM HOA SIM có gì lạ ?
Sau bài Màu Tím Hoa Sim được ít lâu, về ý thức
hệ Hữu Loan có thay đổi, nhưng chuyện đó không cần nói. Chỉ biết rằng hương hồn
người vợ bé nhỏ của anh đã đi vào trong văn học sử. Cơn sầu của nhà thơ Hữu
Loan được coi là tha thiết không kém chi cái sầu của Đường minh Hoàng sau cái
chết của Dương Quí Phi, một cái sầu “ mang mang vô tuyệt kỹ”, mặc dầu trước đó
anh đã có một mối sầu khác về tình duyên với cô L. ái nữ của bà Cai Lài bị bịnh
phổi mà mất trước khi làm lễ cưới và mặc dầu sau cô L.T.N. anh đã làm bạn với
một người vợ khác, em của anh P.N.T. làm cô giáo. Hữu Loan là con một. Đến năm
1952, lúc tôi rời kháng chiến về thành, Hữu Loan chỉ mới có một con gái. Không
biết bây giờ đã có con trai chưa và cũng không biết anh đã hết cái chặng đời
vất vả về tình duyên chưa ?
VŨ BẰNG
Nguồn:
Trần Nhương
No comments:
Post a Comment