Vĩnh biệt anh, NTT xin kính báo tới bạn bè gần xa của NS Đoàn Vĩnh Phúc và gửi lời chia buồn sâu sắc tới gia đình anh.
Dưới đây là bài viết gần nhất trên blog của LÊ VŨ (Vĩnh Phúc):
Từ trái qua: Vĩnh Phúc, Châu Đăng Khoa, Trương Nam Hương, Nguyễn Thanh Bình |
(Nhân nghe khúc nhạc Nghêu ngao của
Ns Châu Đăng Khoa phổ từ bài thơ Nghêu ngao chờ cơm của nhà
thơ Trương Nam Hương)
Lạp tạp ghi
Ngày lục xục, lạc xạc
và tôi nghe ai đó kêu lên… “Thi sĩ đã tự sát!”. Hỏi ra mới biết, đó là
những giả thi sĩ ngồi dưới chân giường phụng hiến thơ cho chân
dài, là những trí thức đội mũ thơ trang điểm thêm cho cái văn bằng dỏm, là
những tóc bạc vắt óc đến chảy cả nước mắt nước mũi nặn ra mấy câu tung hô…
Thi sĩ đã tự sát. Không, tôi không tin vì nhất định còn đó
những thi sĩthứ thiệt và thơ sẽ không có những uế khí, ám khí, tử
khí, không có kinh nguyệt và đờm dãi…
*
Buổi chiều, bắt gặp
bài thơ “ Nghêu ngao chờ cơm” của TNH, tôi tin là Thi sĩ
chưa bao giờ chết và đột nhiên nhớ bức tranh Con quỉ ngồi
của Vrubel (1). Quỷ ngồi, vóc thân một người khổng lồ trên đỉnh núi cô đơn, tay
buông thõng và chìm đắm trong suy tưởng, đang vận động để thoát khỏi xác
thịt của mình, thoát khỏi nỗi cô đơn vĩnh cữu… Bài thơ Nghêu ngao chờ
cơm chỉ có mấy câu, thậm chí mấy từ nhưng thấp thoáng bóng dáng cái
tứ của bức tranh. TNH như thế, đồng hành với Vrubel để vùng vằng vượt
thoát lên nỗi cô đơn thân phận làm người…Vrubel dùng sắc đỏ của hoàng hôn ám
ảnh, TNH mượn hình con giun cái kiến như những biểu tượng hèn mọn và đó là loại
thơ không khoa trương, không ồn ào như một sự nín lặng đến
tận cùng…
Này em con kiến/ Luận
về hạt cơm
Thân tôm phận tép/
Luận về cái nơm
Bài thơ chảy đi trên
những cặp đối xứng của tinh thần và thực dụng, lý và vô lý, thuận và nghịch,
nhỏ bé và vĩ đại, cập và bất cập…Chú kiến chỉ cần hạt cơm như một lẽ sống còn
và quẳng bỏ tất cả những chân lý định đề định nghĩa. Với kiến, Thượng Để đã
chết từ khởi thủy không đợi đến tuyên ngôn hiện sinh của Heideiger. Ngược lại,
tôm tép thì chỉ nói chuyện cái nơm như một lo âu nơm nớp, một
ám ảnh bị săn bắt đuổi tận giết tuyệt… Và ngày lạc xạc, lục xục không đi ra
khỏi hai phạm trù này: kiếm cơm và nỗi bất an triền miên dai dẳng…
Rồi câu chuyện bóng
núi sừng sững ngọn dựng lên với mây trời cô đơn đến bất tuyệt; một lòng biển
sâu đáy vực đang to nhỏ thầm thì thiệt hơn:
Núi cao chót vót/Luận
niềm cô đơn
Mênh mông biển biếc/
Luận điều thiệt hơn…
Bước về hồi cuối của
một tự sự, lời thơ bỗng đậm đậm lời nghi hoặc hỏi đoạn trường từ đâu
(2), và đời bỗng mở đến vô biên với nhòe nhoẹt, quền quệt nước mắt…
Ta luận về nhau/ Những
điều còn mất
Đời luận mãi đâu/ Cũng
về nước mắt
Tôi muốn nhấn mạnh,
đây là nước mắt thực, không phải nước mắt “cá sấu” vờ vịt thương
người, hay loại nước mắt lừa đảo tình ái, vẩn vơ yêu mịt yêu mòng. Vâng, cuộc
sống đang bị tha hóa, vô cảm thì một chútnhen nhúm nghĩ cho phận
người cũng hơn cả tấn thơ tình ái lăng nhăng xúc cảm nhầy nhụa làm vẩn đục thực
tại…
Trong chừng mực, Nghêu
ngao chờ cơm, như một góc ánh sáng soi chiếu vào những góc cạnh sần sùi của
đời sống, phơi bày để tinh khiết nó chứ không phải để phê phán
hay khóc than. Trong ý niệm này, TNH đã có một kết thúc có ý nghĩa…Tôi
loáng thoáng nghe tiếng động của xoong nồi va nhau. Anh đang đói…chờ cơm vợ và
hò.
Chờ em nấu bếp/ Nghêu
ngao anh hò…
Là đói …lòng hay đói
sống, đói những vần thơ sạch hay nung nấu cải táng những nhảm nhí, thơ nhảm
nhí…Tôi không biết. Mỗi chúng ta có thể tự tham vấn…
***
Buổi tối, lại may mắn
hơn khi nghe nhạc sĩ Châu Đăng Khoa nghêu ngaobài thơ Nghêu
ngao chờ cơm trong tiếng guitare của mình…Hình tượng thơ
im lìm lần này đã có dịp bay lên và phô diễn cuộc ngày chon von đi từ bé mọn
thấp hèn đến núi cao sông dài trời rộng, với những thuận nghịch xếp hàng …Tôi
mê man…Đêm lập phương và im lặng róc rách tiếng guitare mộc của người nghệ sĩ
tài hoa. Cái miệng móm mém những păm păm, í a í ới…Tiếng hát khàn đục và đêm
thành ra một dị kỳ với ê hề khi giễu nhại khi hào khí, khi lổn nhổn một tiếng
cười tịch mịch…Nói cho đúng, khúc nhạc không nằm trong dòng chảy giai điệu trữ
tình quen thuộc của Khoa; đây là một vận động của cảm xúc trực hiện để cùngnghêu
ngao, nghêu ngao đời, lang thang với cuộc ngày trên những gập ghềnh va
đập…
Bài hát phổ thơ xây
dựng ở chủ âm mi trưởng nhưng trường canh mở đầu đã có thêm
một nốt quãng 2 ( fa thăng) nên mi trưởng không lộng lẫy, không rộn ràng âm
vang mà như một hoặc nghi với Esus2. Này em con
kiến = sị mi fa si …Sị- si, chính thức là một quãng tám đủ dựng
hình chú kiến con lớn dậy thành một chủ thể sống động trong
cung bậc đời sống, cũng vĩ đại như con quỷ khổng lồ của Vrubel ở trên. Nhưng
nếu hình tượng chú kiến con chỉ là một ảo giác thì hạt cơm là
một thực tại, một thực dụng không thể chối bỏ và
được định vị bằng hợp âmF#m7. Đến thân tôm phận tép âm
nhạc càng lay lắt vực ngờ trong hòa âm Am6 với một nốt đô bình
treo lên như dấu hỏi. Khép lại khổ thơ, giai điệu có hương chuyển về chủ âm
nhưng nốt mi chủ lại biến mất, nhường đất cho một nốt quãng 3 ( sol thăng) để
day dứt …Cái nơm trở thành hung thần ác sát, móng vuốt cạm bẫy
giương ra. Không có nốt mi chủ để …bình yên. Một đoạn chuyển bằng tiếng đánh
miệng pùm pum trong hòa âm F#m chuyển đến Esus2.
Núi cao chót vót luận
niềm cô đơn. Thơ đã chuyển và nhạc
đã bắt kịp tứ thơ khi chủ âm mi trưởng cắm neo và ở trọ trong bậc 4. Là A6 –
phân biệt với A – để núi vẫn non nhưng lung lay mờ hoặc khi đối mặt với cô đơn
trên mấy nẽo mây trời. Vâng, nốt mi chủ vẫn …biến mất…nên đối thoại của biển về
điều thiệt hơn là không thể xác tín. Luận điều thiệt hơn= re sị sị
sol. Chân lý, Thượng đế khoan hãy nói, nói ngay thiệt hơn ở đời vẫn là bất
khả nan giải. Đen trắng, đúng sai…chỉ cách nhau một đường biên mỏng đến
mong manh nên tiến trình chuyển động hòa âm ở đây chính là những quãng
2, quãng 6, quãng 9 …Cái điêu luyện tài hoa của người nhạc sĩ hé lộ ở
đây, một tinh tế cảm nhận từ thơ đến nhạc…
Nhan sắc nửa mùa luận
về son phấn/ Sợi tóc nắng mưa luận về thời vận. Thơ đã chín và được âm nhạc
chưng cất thành một vật phẩm thượng hạng. Vẫn giấu mình trong chủ âm mi trưởng,
hai chi câu liên tiếp với 8 trường canh lại chốt chặt trong một hợp âm đơn
giản: Am . Vâng, là Amcủa cung mi trưởng nên nghe
ra cũng lắm não nề, vừa cà khịa những thui đen, vừa tở mở với những lạc lối của
cuộc ngày…Nhưng giả như dừng lại ở đây, tôi nghĩ cả bài thơ lẫn khúc nhạc đều
…thất bại. Thi sĩ Bùi Giáng vẫn tự tại ở đó với cái gọi là giải thực (decolonization),
giải thực cho cái tinh thần bị tha hoá của người Việt:
Gọi tên? Rằng một hai
ba/ Đếm là diệu tưởng đo là nghi tâm…
Thành ra khúc cuối của
thơ và nhạc đã chuyển động đến bất ngờ. Bỏ quách những triết luận, bỏ quách
những hoặc ngờ, chủ thể hay đối tượng, thực và phi thực có gì cần phân biết kia
chứ; và nỗi đau hay niềm tuyệt vọng có khác mấy với tiếng cười, với mồ hôi thơm
lừng của vợ bên bếp nấu…Thơ nhạc nói riêng và nghệ thuật nói chung không nhất
thiết phải tải đạo…Basho chẳng phải đã tuyên ngôn “văn chương vô
dụng” còn Tố Như tiên sinh cũng đã kêu lên “Văn chương tàn tích nhược như
ti”…Một giọng thơ, một tiếng đàn, một quãng giai điệu…cuối cùng là một chậu hoa
hồng thắp lên bình minh, một hương quỳnh để say trong đêm giả tưởng…
Nghêu ngao trong sự hòa tấu của thơ & nhạc có vẻ như
đã làm được điều đó khi
Chờ em nấu bếp/ Nghêu
ngao anh hò…
Và chủ âm mi đã phục
sinh trong đoạn out của khúc nhạc, những nốt mi cao liên
tiếp trải ra, mở rộng một vô biên đời, có cái kiến phận tép con tôm,
có biển lớn với nhan sắc nửa mùa… Đời thực như thế, nó là thế. (C’est la vie).
Không cần phải luận với lý giải phân vân.
Em ơi thôi ta vui ta
hò/Ta hò ta nghe chơi
Châu Đăng Khoa đang
vui nhưng tuổi tóc bạc không cho phép anh hát nốt mi cao mà dành hạ xuống một
quãng tám. Thành ra mi trưởng vẫn đầy những hòa âm quãng nghịch: E6- E9 và anh
đang chép miệng pum pùm pum đến lải nhải rối môi. Đêm bỗng kỳ dị hay đời dị kỳ.
Tôi không biết chỉ biết rõ nhất cái tin nhắn của vợ gọi về ăn cơm. Đói bụng rồi
và cái anh ngoại đạo thơ nhạc như tôi đành bỏ cả thơ nhạc chạy về : vợ muôn năm
và cơm vợ muôn năm …Sau cơm còn có cả hương hoa…Thiện tai thiện tai …!
Đêm Phú Nhuận 10/5/12
– LV
_______
1-
Mikhail Alexanderovich Vrubel (1856-1910) – Danh họa Nga không chỉ tiêu biểu
cho khuynh hướng dân chủ cách tân trong hội họa Nga cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX, mà tên tuổi còn sánh ngang tầm với nhiều danh họa thế giới vào thời kỳ đó.
2-
Thơ Bùi Giáng
Bài Nghêu
ngao chờ cơm của Trương Nam Hương (nguyên bản)
Này em con kiến
Luận về hạt cơm
Thân tôm phận tép
Luận về cái nơm
Núi cao chót vót
Luận niềm cô đơn
Mênh mông biển biếc
Luận điều thiệt hơn
Nhỏ như hạt cát
Luận đến vô cùng
Lớn như trái đất
Luận về dế giun
Nhan sắc nửa mùa
Luận về son phấn
Sợi tóc nắng mưa
Luận về thời vận
Ta luận về nhau
Những điều còn mất
Đời luận mãi đâu
Cũng về nước mắt
Nhìn em nấu bếp
Luận về đói no
Con dao mặt thớt
Luận nhau đến giờ
Chờ em nấu bếp
Nghêu ngao anh hò…
Nguồn: Nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo
No comments:
Post a Comment