Gần đây, chúng tôi phát hiện được một số di vật gốc đời Tây Sơn và thu thập được một số tư liệu cho phép xác minh một tướng Tây Sơn được Quang Trung giao cho trọng trách đánh thắng trận Đống Đa là đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông.
*
Gia phả các chi họ
Đặng, đặc biệt là bộ Đặng gia phổ hệ toản chính thực lục cho biết khá rõ
ràng ngày sinh, quê quán và gia thế của Đặng Tiến Đông. Bộ Đặng gia phổ
hệ toản chính thực lục gồm 6 quyển[3],
do chính Đặng Tiến Đông biên soạn vào đời Tây Sơn và Ngô Thì Nhậm đề tựa.
Đặng Tiến Đông sinh
vào giờ Sửu (khoảng từ 1 đến 3 giờ sáng) ngày 2 tháng 5 năm Mậu Ngọ niên hiệu
Vĩnh Hựu thứ tư, tức ngày 18 tháng 6 năm 1738 tại xã Thịnh Phúc, huyện Phú
Xuyên (Hà Tây) thuộc chi trưởng dòng họ Đặng gốc ở làng Lương Xá (nay thuộc xã
Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).
Theo gia phả và bài
tựa của Ngô Thì Nhậm thì họ Đặng xưa vốn họ Trần, tương truyền thuộc dòng dõi
Trần Hưng Đạo. Đến đầu đời Lê, Trần Văn Huy đỗ tiến sĩ, lấy tự là Đặng Hiên nên
từ đó, con cháu lấy tự của cha làm họ rồi chuyển từ họ Trần sang họ Đặng. Ngoài
cách giải thích đó, một số con cháu họ Đặng còn lưu truyền thuyết cho rằng, vào
đời Mạc họ này có nhiều người “phù Lê diệt Mạc” nên bị nhà Mạc truy lùng và từ
đấy, đổi ra họ Đặng. Điều chắc chắn là từ đời Đặng Huấn có công phù Lê, dòng họ
Đặng trở thành một dòng họ lớn có nhiều người đỗ đạt và làm quan to trong suốt
thời Lê - Trịnh. Vùng Chương Mỹ còn lưu hành nhiều câu hát về dòng họ Đặng ở
Lương Xá như:
Giàu thì Quảng Bị, Bối
Khê,
Làm quan Lương Xá,
ngoại đê Đại Từ
hay:
Bao giờ chợ Chúc hết
người,
Sông Ninh hết nước,
Đặng này hết quan.
Đặng Tiến Đông là con
trai thứ tám của Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và bà vợ lẽ thứ năm Phạm Thị Yến.
Vào thời Lê mạt, cả gia đình ông từ ông cha đến anh em, chú bác đều là những
quan lại, tướng soái cao cấp giữ nhiều chức tước quan trọng trong triều ngoài
trấn. Nhận xét về họ Đặng và con cháu Đặng Huấn, nhà sử học Phan Huy Chú đã
viết: “Ngôi kiêm cả tướng văn, tướng võ; một nhà quý hiển ít ai sánh kịp”
[4].
Đặng Tiến Cẩm (1679 -
1749) là con trai thứ năm Yên quận công Đặng Tiến Thự. Đặng Tiến Thự đã từng
làm trấn thủ Nghệ An, phong đến chức thái phó, được chúa Trịnh ban cho họ tên
là Trịnh Liều và sau khi chết được truy tặng thái tể. Đặng Tiến Cẩm đã từng giữ
các chức quyền trấn thủ xứ Nghệ An kiêm trấn thủ châu Bố Chính, trấn thủ các xứ
Hải Dương, An Quảng; trấn thủ Sơn Tây, đốc lãnh Hải Dương, lưu thủ kinh thành,
hai lần làm đề điệu kỳ thi bác cử (thi võ) và phong đến chức Điện tiền kiểm
điểm ty đô kiểm điểm. Anh em của Đặng Tiến Cẩm tức chú bác ruột của Đặng Tiến
Đông, đều nắm giữ nhiều chức vụ cao cấp của chính quyền họ Trịnh. Gia quận công
Đặng Tiến Lân làm đến đại tư đồ. Lại quận công Đặng Đình Sở giữ chức trấn thủ
Sơn Tây. Bốc quận công Đặng Tiến Luận làm đốc phủ Sơn Tây, Hải Dương. Đặc biệt
Ứng quận công Đặng Đình Tướng đã giữ những chức tước cao nhất của phủ chúa như
bồi tụng, tả đô đốc, thiếu phó, thái phó, đại tư mã, đại tư không và - như Phan
Huy Chú nhận định - “trong khoảng 70 năm, là một bậc kỳ cựu trải qua mấy
triều, công danh phẩm giá hơn cả các quan; ba con và một cháu của ông đều lấy
quận chúa, một nhà quý thịnh, người bấy giờ gọi là ông Tiên quốc lão”[5].
Đặng Tiến Đông thuộc
một dòng họ thế phiệt, xuất thân trong một gia đình quý tộc đời đời ăn lộc vua
bổng chúa. Nhưng ông sinh ra và lớn lên vào một hoàn cảnh hết sức biến động và
đảo lộn của xã hội.
Năm 1747, lên 9 tuổi,
Đặng Tiến Đông bắt đầu theo học thầy Doãn Xá tại chùa Thủy Lâm (hay chùa Lương
Xá, tại xã Lam Điền, Chương Mỹ, Hà Tây).
Năm 1749, Đặng Tiến
Đông 12 tuổi thì mồ côi cha. Mười năm sau, năm 1759, mẹ ông cũng qua đời.
Đặng Tiến Đông bước
vào đời đã phải chứng kiến cảnh đổ nát, tàn tạ của chế độ phong kiến, đời sống
lầm than cực khổ của nhân dân và những cuộc đấu tranh rung trời chuyển đất của
quần chúng. Những cơn bão táp của chiến tranh nông dân ở Đàng Ngoài đã đang lay
động tận nền tảng cơ đồ thống trị của vua Lê chúa Trịnh xây dựng đã mấy trăm
năm nay. Cha anh và chú bác của Đặng Tiến Đông đã từng cầm quân đàn áp những
cuộc khởi nghĩa nông dân đó và nhiều phen bị thất bại thảm hại. Trong gia phả
họ Đặng do ông viết, ông đã ghi chép một cách khá đầy đủ và trung thực hành
động của cha anh, chú bác, kể cả những lần bị quân nông dân đánh cho thất điên
bát đảo. Dưới ngòi bút của ông có thể nhận thấy, hình như ông đã bước đầu cảm
thấy trong những cuộc “nổi loạn” của quần chúng một sức mạnh quật khởi khó lòng
chế ngự. Nhiều thủ lĩnh nông dân khởi nghĩa, ông vẫn gọi là “nghịch”, là “giặc”
nhưng qua một số hành động do ông ghi lại thì không phải là kẻ hung ác, tàn bạo
mà là người có tình, có nghĩa. Trong gia phả, ông có kể lại hai trường hợp Quận
He Nguyễn Hữu Cầu đã tha chết cho cha ông là Dận quận công Đặng Tiến Cẩm và anh
cả của ông là Tri trung hầu Đặng Đình Trí.
Thực tế lịch sử đau
thương và quật cường những năm giữa thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đã dần dần tác
động đến cách nhìn, tư tưởng và tình cảm của Đặng Tiến Đông. Nhưng phải đến
phong trào nông dân Tây Sơn cùng với những chấn động mãnh liệt của nó đối với
toàn bộ cơ cấu xã hội, mới mở ra cho Đặng Tiến Đông cũng như một số sĩ phu tiến
bộ ở Bắc Hà, một chân trời mới.
Giữa năm 1786, nghĩa
quân Tây Sơn dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Huệ, ào ạt vượt sông Gianh, tiến ra
Bắc Hà. Trong chốc lát, nền thống trị của họ Trịnh bị lật nhào. Trật tự chính
trị ở Bắc Hà trải qua một cơn đảo lộn. Trước sự ruỗng nát và sụp đổ của chế độ
họ Trịnh, phong trào Tây Sơn tiêu biểu sức mạnh phi thường, một sức sống đang
vươn lên. Hơn một tháng sau, đoàn quân “áo vải cờ đào” và người anh hùng của họ
rút về Nam, trao trả quyền hành lại cho nhà Lê. Nhưng rồi triều đình vua Lê mà
bấy lâu nay nhân dân và sĩ phu Bắc Hà vẫn còn kỳ vọng, lại có dịp bộc lộ tính
chất nhu nhược, bất lực hoàn toàn của nó. Chiếc ngai vàng ọp ẹp của nhà Lê vốn
đã rệu rạo, nay càng ngả nghiêng trước tình trạng cực kỳ hỗn loạn của Bắc Hà.
Quân Tây Sơn vừa rút, Lê Chiêu Thống đã cảm thấy “một nước trống rỗng”
và vội “viết thư triệu hết những người thế gia và bầy tôi cũ dấy quân vào
bảo vệ hoàng thành”. Nhân đấy “bọn hào mục các nơi chiếm giữ châu quận,
chiêu tập binh mã, đều mượn danh nghĩa “bảo vệ”. Những hạng vô
lại đánh giết lẫn nhau; trong nước thành ra rối loạn”[6].
Bọn con cháu chúa Trịnh như Trịnh Lệ, Trịnh Bồng, bọn tướng tá cũ như Đinh Tích
Nhưỡng, Hoàng Phùng Cơ, Dương Trọng Tế... đều nổi dậy tranh giành, đánh giết
nhau và ức hiếp nhân dân thậm tệ. Vua Lê lại bị đặt vào địa vị bù nhìn. Dưới sự
hoành hành của bọn tướng quân phiệt, “ngay giữa ban ngày, thủ hạ ra sức cướp
bóc dân cư gần kinh thành, không có hiệu lệnh ngăn cấm. Mọi người đều cho là
không còn hy vọng gì cả”[7].
Nhân cơ hội đó, cuối năm 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh lấy danh nghĩa tôn phò vua Lê,
chiêu tập binh mã ở Nghệ An rồi kéo ra Thăng Long. Đến lượt Nguyễn Hữu Chỉnh
lại thâu tóm mọi quyền hành ở Bắc Hà, “quyền Chỉnh thật ngang với nhà vua,
thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước”[8].
Từ một phần tử phong kiến thất thế ở Bắc Hà, Nguyễn Hữu Chỉnh phải theo Tây Sơn
để gây dựng lực lượng, nay lại phản bội Tây Sơn âm mưu làm bá chủ ở Thăng Long.
Dưới sự chuyên chế của Chỉnh, tình hình Bắc Hà càng rối loạn: “Lòng người
lìa tan, quan văn quan võ ai cũng chán nản... Bọn hào mục gian ác ở đâu thì tụ
họp ở đấy, rồi đi cướp bóc lẫn nhau. Ngoài thành vài dặm, đều là hang ổ của bọn
trộm cướp”[9].
Trong vòng hơn nửa năm
kể từ khi quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long (tháng 7 năm 1786), tình hình Bắc Hà
đã trải qua những biến động dồn dập. Những biến động đó càng chứng tỏ sự bất
lực, sụp đổ không gì cứu vãn nổi của các thế lực phong kiến cũ và càng làm cho
nhân dân Bắc Hà hướng về phong trào Tây Sơn. Diễn biến lịch sử đó cũng đã ảnh
hưởng quyết định đến chí hướng và hành động của một số sĩ phu tiến bộ, thức
thời ở Bắc Hà, trong đó có Đặng Tiến Đông. Ông đã sớm tìm thấy ở phong trào Tây
Sơn và sự nghiệp của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ, một niềm tin và một
phương hướng mới của cuộc đời.
Khoảng nửa đầu năm
1787, Đặng Tiến Đông lặn lội vào tận Quảng Nam, tìm đến quân doanh yết kiến
Nguyễn Huệ khi Nguyễn Huệ đang đóng quân ở đây. Có hai văn bản và di vật gốc
đời Tây Sơn xác nhận sự kiện này. Đó là bài văn bia đề là “Tông đức thế tự
bi” do Phan Huy Ích soạn, Ngô Thì Nhậm nhuận sắc và đạo sắc do Nguyễn Huệ
phong chức tước cho Đặng Tiến Đông.
Bài văn bia được khắc vào một tấm bia đá dựng trước chùa
Thủy Lâm thôn Lương Xá (nay thuộc xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà Tây).
Bia cao 1,72m, bề ngang 0,85m, dày 0,34m. Nội dung bài văn bia, ngoài phần nói
về Thế phả họ Đặng, có một đoạn ngắn nhưng rất quan trọng tóm lược công lao, sự
nghiệp của Đặng Tiến Đông kể từ khi theo Tây Sơn cho đến khi lập chiến công
trong cuộc kháng chiến chống Thanh. Bài văn bia khắc vào ngày 15 tháng 6 năm
Đinh Tị niên hiệu Cảnh Thịnh thứ năm, tức ngày 9 - 7 - 1797. Cuối bia ghi rõ
ngày, tháng và niên hiệu:
“Hoàng triều đệ nhị
đế...,... (hai chữ Cảnh Thịnh bị đục) vạn vạn niên chi ngũ tuế, tại Đinh
Tị lục nguyệt thập ngũ nhật”.
Cùng chức tước, họ tên
người soạn và nhuận sắc bài văn bia là:
“Đương triều dực
vận công thần, sắc thụ đặc tiến vinh lộc thượng đại phu, thị trung ngự sử, khâm
sai khánh hạ bố chính sứ, Thụy nham hầu Phan Huy Ích chi Dụ phủ, kính soạn”.
“Đương triều dực
vận công thần, sắc thụ đặc tiến Vinh lộc thượng đại phu, thị trung đại học sĩ
kiêm binh bộ thượng thư quản lĩnh bí thư thự, Tình Phái hầu Ngô Thì Nhậm, Hy
Doãn phủ, kính nhuận”.
Phan Huy Ích quê ở Sài
Sơn, huyện Quốc Oai (Hà Tây). Ngô Thì Nhậm quê ở làng Tả Thanh Oai (Hà Tây).
Hai người đỗ tiến sĩ, đã từng làm quan cho họ Trịnh và tháng 5 năm 1788, khi
Nguyễn Huệ tiến ra Thăng Long lần thứ hai, đều theo Tây Sơn. Đối với Đặng Tiến
Đông, Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những người bạn thân thiết cùng quê, cùng
triều và cùng chí hướng.
Về việc Đặng Tiến Đông
tìm vào Quảng Nam theo Nguyễn Huệ, bài văn bia ghi rõ: “Thái tổ Vũ hoàng đế
của hoàng triều, nghĩa thanh vang dội, đóng quân ở Quảng Nam, ông (tức Đặng
Tiến Đông - TG) đến cửa quân xin yết kiến, được đón tiếp và đãi ngộ riêng, rồi
được tin yêu ban cho ấn kiếm, giao cho thống lĩnh việc quân...”.
Đạo sắc phong chức
tước cho Đặng Tiến Đông đề
ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười, tức ngày 15 - 8 - 1787. Văn bản viết trên
giấy sắc khổ 138 x 50cm, hiện do chi trưởng của dòng họ Đặng ở Lương Xá giữ và
đặt thờ trên bàn thờ của chi họ này. Đây là nguyên bản sắc phong chức tước đời
Tây Sơn còn giữ được đến nay. Trên tờ sắc có dấu son hình vuông khổ 7,8 x 7,8cm
đóng trên dòng chữ đề niên hiệu “Thái Đức thập niên” và hai dấu kiểm
hình bầu dục eo ở giữa, khổ 3,4 x 2,5cm đóng trên dòng chữ ghi họ tên và chức tước
của Đặng Tiến Đông.
Thái Đức là niên hiệu
của “Hoàng đế” Nguyễn Nhạc. Nhưng tờ sắc này không phải do Nguyễn Nhạc mà do
Nguyễn Huệ phong chức tước cho Đặng Tiến Đông. Lúc đó Nguyễn Huệ còn là Bắc
Bình Vương, chưa lên ngôi hoàng đế, đặt niên hiệu riêng nên tờ sắc còn dùng
niên hiệu Thái Đức của Nguyễn Nhạc.
Tờ sắc có đoạn biểu
dương Đặng Tiến Đông là người có “khí khái của trượng phu, tấm lòng của nam
tử, đường làm quan gặp gỡ, dựng nên công lớn vua tôi, trước sau báo đền, không
quên điều hiểu biết của kẻ sĩ trong nước, trải qua mùa đông mà không chịu khuất
như cây tùng lúc giá rét...”. Đặng Tiến Đông được Nguyễn Huệ đón tiếp niềm
nở, tin cẩn và lập tức được ban ấn kiếm, phong chức tước. Theo tờ sắc, Nguyễn
Huệ phong Đặng Tiến Đông làm đô đốc đồng tri, tước Đông Lĩnh hầu và sai giữ
chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Từ đó, Đặng Tiến Đông trở thành một tướng soái cao
cấp của quân đội Tây Sơn dưới quyền thống lĩnh của Nguyễn Huệ.
Hiện nay, gia phả của
họ Đặng và những tư liệu có liên quan chưa cho biết rõ trước khi theo Nguyễn
Huệ, Đặng Tiến Đông đã đỗ đạt như thế nào, đã giữ những chức tước gì trong
chính quyền họ Trịnh, rồi rời bỏ Bắc Hà vào Quảng Nam vào lúc nào?. Điều chắc
chắn là Đặng Tiến Đông đã tìm đến yết kiến Nguyễn Huệ trước ngày 15 - 8 - 1787.
Và chính cuộc tri ngộ đó đánh dấu một bước ngoặt căn bản trong cuộc đời và sự
nghiệp của Đặng Tiến Đông. Như vậy, trong số quan lại, sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà
đi theo Tây Sơn, phải kể Đặng Tiến Đông là người đầu tiên. So với Ngô Thì Nhậm,
Phan Huy Ích... theo Tây Sơn vào giữa năm 1788, hành động của Đặng Tiến Đông
sớm hơn gần một năm. Hơn nữa Đặng Tiến Đông lại tự mình tìm vào Quảng Nam xin
yết kiến Nguyễn Huệ, thể hiện một thái độ thức thời, kiên quyết và mạnh dạn.
*
Theo tờ sắc phong chức
tước thì từ ngày 15 - 8 - 1787, Đặng Tiến Đông đã được phong làm đô đốc đồng
tri, tước Đông Lĩnh hầu, giữ chức trấn thủ xứ Thanh Hoa. Nhưng thực ra, lúc đó
quân Tây Sơn chỉ kiểm soát trấn Nghệ An trở vào, còn trấn Thanh Hoa vẫn thuộc
phạm vi cai quản của nhà Lê. Cuối năm 1787, khi Vũ Văn Nhậm theo lệnh Nguyễn
Huệ, chỉ huy quân Tây Sơn tiến ra Bắc diệt Nguyễn Hữu Chỉnh thì tướng trấn thủ
Thanh Hoa là Nguyễn Duật [10].
Duật là bộ tướng thân cận của Nguyễn Hữu Chỉnh, được Chỉnh cử vào làm trấn thủ
Thanh Hoa trước đó mấy tháng. Trước thế mạnh của quân Tây Sơn, Nguyễn Duật
không dám chống cự, rút quân về giữ Trinh Giang (Hoằng Hóa, Thanh Hóa). Vũ Văn
Nhậm sai Ngô Văn Sở đem quân đánh úp mặt sau, giết chết Nguyễn Duật. Từ đó, xứ
Thanh Hoa mới thuộc quyền kiểm soát của quân Tây Sơn. Theo Đại Nam chính
biên liệt truyện sơ tập (q. 30) và đặc biệt là bài ký khắc trên biển gỗ ở
đền Đồng Cổ (làng Đan Nê, Yên Định, Thanh Hóa) do Tuyên Công Nguyễn Quang Bàn
làm và khắc vào đầu mùa hè năm Bảo Hưng thứ hai (năm 1802) thì từ mùa xuân năm
1790 đến năm 1802, Nguyễn Quang Bàn giữ chức đốc trấn trấn Thanh Hóa[11].
Vậy Đặng Tiến Đông chỉ có thể làm trấn thủ xứ Thanh Hoa trong khoảng thời gian
từ cuối năm 1787 đến đầu năm 1790.
Nhưng tại sao trong
sắc phong chức tước đề ngày 3 tháng 7 năm Thái Đức thứ mười (ngày 15 - 8 -
1787), Nguyễn Huệ đã cử Đặng Tiến Đông làm trấn thủ xứ Thanh Hoa?. Nguyên văn
lời trong đạo sắc là: “Khả gia đô đốc đồng tri chức, Đông Lĩnh hầu, nhưng
sai Thanh Hoa xứ trấn thủ” nghĩa là “Nên gia phong chức đô đốc đồng tri,
[tước] Đông Lĩnh hầu, vẫn sai làm trấn thủ xứ Thanh Hoa”. Theo lời văn của
đạo sắc, thì có thể trước đây Đặng Tiến Đông đã từng làm trấn thủ Thanh Hoa và
nay Nguyễn Huệ lại giao cho ông chức vụ đó. Nhưng phải đến cuối năm đó, khi
trấn Thanh Hoa thuộc về quân Tây Sơn thì Đặng Tiến Đông mới có thể thực hiện
chức vụ trấn thủ của mình.
Cuối năm 1788, quân
Thanh tràn sang xâm lược. Quân Tây Sơn ở Bắc Hà phải tạm rút về giữ phòng tuyến
Tam Điệp - Biện Sơn. Trong cuộc kháng chiến chống Thanh, xứ Thanh Hoa[12]
giữ vai trò một địa bàn chiến lược quan trọng. Đó là vùng đất nằm ngay sau
phòng tuyến của Tây Sơn, tiếp giáp với vùng kiểm soát của quân địch (từ phía
Bắc phủ Trường Yên trở ra). Đó cũng là vùng cực Bắc hậu phương an toàn của quân
Tây Sơn và là nơi tập kết các đạo quân chủ lực của Tây Sơn trước khi xuất phát
bước vào cuộc phản công chiến lược đập tan cuộc xâm lược của quân Thanh. Với
cương vị là trấn thủ xứ Thanh Hoa, hẳn đô đốc Đặng Tiến Đông có góp phần cùng
với Ngô Văn Sở xây dựng, bảo vệ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn vốn thuộc địa
phận và hải phận xứ Thanh Hoa, và nhất là chuẩn bị mọi điều kiện cần thiết để
đất Thanh Hoa có thể trở thành khu vực tập kết và bàn đạp phản công của đại
quân Tây Sơn do Quang Trung Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Tiếc rằng chính sử
cũng như gia phả họ Đặng và các tư liệu thu thập được không ghi chép gì về
những hoạt động của trấn thủ Đặng Tiến Đông trong khoảng cuối năm 1788.
Đầu năm 1789, khi từ
Tam Điệp - Biện Sơn mở cuộc tập kích chiến lược giải phóng kinh thành Thăng
Long, Quang Trung giao cho đô đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy một đạo quân tiên
phong tiến ra bất ngờ tập kích tiêu diệt đồn Đống Đa (hay Khương Thượng, khu
Đống Đa, Hà Nội). Bài văn bia của Phan Huy Ích tóm tắt vũ công của đô đốc Đông
như sau: “Năm Mậu Thân (năm 1788 - TG), đầu đời Quang Trung (hai chữ
Quang Trung bị đục - TG) quân Bắc xâm chiếm nước Nam, ông (tức Đặng Tiến
Đông - TG) phụng chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc
tan vỡ, ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm”. Con
cháu nhiều chi họ Đặng ở Chương Mỹ (Hà Tây) còn ghi nhớ và truyền tụng công lao
của “quan đô” - tức đô đốc Đông, theo cách gọi phổ biến của các cụ già họ Đặng
- là đã vâng mệnh vua Quang Trung đánh thắng trận Đống Đa, tiêu diệt hàng vạn
quân Thanh.
Như vậy là mờ sáng
ngày 5 tháng Giêng Tết Kỷ Dậu (ngày 31 - 1 - 1789), khi Quang Trung chỉ huy đạo
quân chủ lực tiến đánh đồn Ngọc Hồi ở phía Nam Thăng Long thì đô đốc Đông, theo
kế hoạch của Quang Trung, chỉ huy một đạo quân Tây Sơn khác tiến đánh đồn Đống
Đa.
Từ Tam Điệp, đạo quân
của đô đốc Đông đi theo con đường “thượng đạo” qua Phố Cát ra Thiên Quan (Nho
Quan, Ninh Bình) rồi xuyên qua Chương Đức (Chương Mỹ, Hà Tây) là quê hương của
Đặng Tiến Đông, tiến lên Đống Đa. Đó là một con đường giao thông đã có từ lâu
đời nhưng đến thế kỷ XVIII, như Lê Quý Đôn nhận xét, “Đường núi đã bế tắc,
không đi được nữa”[13].
Hành quân theo con đường núi đã bế tắc như vậy, quân Tây Sơn phải mở lấy đường
đi, khắc phục nhiều trở ngại của núi rừng. Điều đó đòi hỏi tướng chỉ huy không
những phải có năng lực tổ chức mà còn phải am hiểu cặn kẽ địa hình trong vùng.
Đặng Tiến Đông sinh trưởng ở vùng Chương Mỹ nằm trên con đường giao thông ấy,
hẳn đáp ứng được những yêu cầu trên.
Khoảng canh tư ngày 5
Tết Kỷ Dậu, vào lúc trời còn tối, quân Tây Sơn áp sát đồn Đống Đa rồi bất ngờ
tiến công vào doanh trại giặc. Một sự kiện cần đặc biệt chú ý là vừa lúc đó,
nhân dân 9 xã chung quanh đem những con cúi bện bằng rơm rạ, tẩm dầu, đốt lửa
bao vây đồn giặc, tạo thành một hàng rào lửa dày đặc, đó là “trận rồng lửa”
(hỏa long trận) mà nhà thơ Ngô Ngọc Du còn ghi lại trong bài thơ Long thành
quang phục kỷ thực. “Trận rồng lửa” đã phát huy tác dụng to lớn của nó, góp
phần bao vây, uy hiếp quân địch, tạo điều kiện cho quân Tây Sơn nhanh chóng
tiêu diệt đồn giặc. Hành động đó chứng tỏ lòng yêu nước, tinh thần mưu trí và
sự tham gia tự nguyện của nhân dân; nhưng mặt khác cũng đòi hỏi sự vận động và
tổ chức trước của quân Tây Sơn. Theo lời kể của con cháu họ Đặng thì “quan đô”
đã “bày ra mưu kế” diệt đồn Đống Đa. Phải chăng “trận rồng lửa” nằm trong mưu
kế của đô đốc Đông?. Vốn là người quê ở Chương Mỹ, có nhiều bạn bè, bà con thân
thuộc và ảnh hưởng rộng lớn trong vùng, Đặng Tiến Đông có nhiều điều kiện thuận
lợi để vận động và chuẩn bị một kế hoạch phối hợp với nhân dân địa phương như
vậy.
Trận Đống Đa là một
trận đánh tiêu diệt chớp nhoáng. Trận đánh bắt đầu lúc canh tư và kết thúc lúc
trời chưa sáng. Sau khi tiêu diệt đồn Đống Đa, đô đốc Đông đưa đạo quân tiền
phong vượt qua cửa ô Thịnh Quang, tràn vào thành Thăng Long. Rồi như một mũi
dao nhọn, đô đốc Đông dẫn đầu đoàn quân lao thẳng về phía cung Tây Long, tạo
nên mối uy hiếp hết sức bất ngờ đối với đại bản doanh của chủ soái quân Thanh.
Phan Huy Ích còn ghi lại trong bài văn bia, mũi tiến công thọc sâu lợi hại đó
qua hình ảnh: "Ông một mình một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung
cấm”.
Mũi tiến công như vũ
bão của đạo quân chủ lực do Quang Trung đích thân chỉ huy ở mặt nam Thăng Long
cùng với mũi vu hồi thọc sâu bất ngờ sắc bén của đô đốc Đông ở mặt tây nam, đã
giáng những đòn quyết định nghiền nát cuộc xâm lược của quân Thanh, buộc Tôn Sĩ
Nghị và bọn tàn quân phải tháo chạy thảm hại.
Sáng ngày mồng 5 Tết,
đạo quân của đô đốc Đông tiến vào thành Thăng Long trước hết. Trưa ngày hôm đó,
Quang Trung cùng với đại quân tiến vào kinh thành giữa sự đón chào của đô đốc
Đông và sự hoan nghênh của nhân dân các phố phường Thăng Long. Bài văn bia của
Phan Huy Ích còn ghi công trạng của đô đốc Đông và sự ban thưởng của Quang
Trung với ông: “Vũ hoàng đế vào Thăng Long, tiến hành khen thưởng, ban riêng
cho ông xã quê hương là Lương Xá làm thực ấp vĩnh viễn, phàm các khoản binh
phân, hộ phân, sưu sai đều cho miễn trừ”.
*
Không còn nghi ngờ gì
nữa, đô đốc Đặng Tiến Đông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Thanh và là một vị tướng chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa lịch
sử. Ở đây, có vấn đề đặt ra là đô đốc Đông có phải là đô đốc Long hay đô đốc
Mưu được ghi chép trong sử cũ không?. Hiện nay, chưa tìm thấy tài liệu nào nói
rõ đô đốc Đông là đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhưng phân tích và đối chiếu các
tư liệu, các sự kiện có liên quan thì theo tôi, có nhiều khả năng Đặng Tiến
Đông là tên thật của đô đốc Long hay đô đốc Mưu. Nhận định đó dựa trên những cơ
sở sau đây:
- So sánh các loại tài
liệu thì những sự việc mà sử sách trước đây chép là của đô đốc Long (hay Mưu),
theo những tư liệu mới phát hiện và thu thập được lại là của đô đốc Đông. Ví dụ
tướng Tây Sơn được Quang Trung giao cho chỉ huy đạo quân diệt đồn Đống Đa (hay
trại Khương Thượng) theo Hoàng Lê nhất thống chí là đô đốc Long, theo Đại
Nam chính biên liệt truyện là đô đốc Mưu, theo những tư liệu mới trình bày
ở trên lại là đô đốc Đông. Đội quân Tây Sơn đầu tiên tiến vào thành Thăng Long,
theo Hoàng Lê nhất thống chí và Minh đô sử là đội quân của đô đốc
Long, theo bài văn bia do Phan Huy Ích soạn lại là đô đốc Đông. Hoàng Lê
nhất thống chí chép: “Sáng hôm ấy, Long đã đánh tên thái thú Điền Châu ở
trại Khương Thượng thuộc huyện Quảng Đức. Quân Thanh tan vỡ bỏ chạy, Long liền
tiến trước vào thành[14].
Có thể so sánh với đoạn văn bia của Phan Huy Ích: đô đốc Đông “phụng
chiếu cầm đạo quân tiên phong, tiến đánh làm cho quân Bắc tan vỡ, ông một mình
một ngựa tiến lên trước, dẹp yên nơi cung cấm". Ngay cả hình ảnh đô
đốc Đông cưỡi ngựa chỉ huy quân sĩ đánh giặc mà Phan Huy Ích ghi lại trong văn
bia cũng phù hợp với một đoạn văn của Minh đô sử mô tả đô đốc Long phi
ngựa ra đón tiếp Quang Trung. Những điều trùng hợp đó chứng tỏ đô đốc Long, đô
đốc Mưu, đô đốc Đông chỉ là một người. Đó là những tên ghi chép khác nhau về vị
đô đốc đã chỉ huy quân Tây Sơn đánh thắng trận Đống Đa và tiến vào thành Thăng
Long đầu tiên.
- Toàn bộ quân đội Tây
Sơn huy động vào cuộc phản công chiến lược có trên 10 vạn, chia làm 5 doanh
(hay 5 quân): Tiền, Trung, Hậu, Tả, Hữu. Như vậy mỗi doanh ước chừng dưới 2 vạn
quân. Đạo quân chủ lực do Quang Trung trực tiếp thống lĩnh tập trung đến 3
doanh: Tiền quân do nội hầu Phan Văn Lân chỉ huy, Trung quân do Đại tư mã Ngô
Văn Sở chỉ huy và Hậu quân do Hám Hổ hầu chỉ huy. Tả quân do đại đô đốc Lộc và
đô đốc Tuyết chỉ huy đảm nhiệm mũi tiến công vào Hải Dương và mũi bao vây vu
hồi chặn đường rút chạy của tàn quân địch. Hữu quân, theo Hoàng Lê nhất
thống chí do đại đô đốc Bảo và đô đốc Long chỉ huy, chia làm hai đạo: một
đạo tiến ra Đại Áng phối hợp với đạo quân chủ lực tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, một
đạo tiến ra Nhân Mục, tiêu diệt đồn Đống Đa. Đạo quân đánh đồn Đống Đa là một
bộ phận của hữu quân. Mũi tiến công đó rất quan trọng, nhưng về binh lực không
nhiều lắm. Đứng về tổ chức và phiên chế, chỉ huy một đạo quân như vậy là một đô
đốc, không có lý do gì phải giao cho hai hay ba đô đốc[15].
Ngoài đạo quân chủ lực, ba đạo quân kia mỗi đạo cũng chỉ do một đô đốc chỉ huy
(đô đốc Bảo, đô đốc Lộc, đô đốc Tuyết). Đô đốc Long hay đô đốc Mưu hay đô đốc
Đông chỉ là một người.
- Hơn nữa, qua đạo sắc
phong chức tước và bài văn bia của Phan Huy Ích, thấy rõ Quang Trung rất tin
cẩn và ưu đãi Đặng Tiến Đông. Không lẽ Quang Trung lại đặt đô đốc Đông dưới
quyền đô đốc Long (hay Mưu) nếu đó là hai người. Chính sách dùng người của
Quang Trung nói chung và thái độ đối xử với những sĩ phu tiến bộ theo Tây Sơn nói
riêng, càng chứng tỏ đô đốc Long chính là đô đốc Đông.
Nhưng là một người,
tại sao có tài liệu chép là đô đốc Long, có tài liệu chép là đô đốc Mưu, có tài
liệu chép là đô đốc Đặng Tiến Đông?. Cũng chưa có cứ liệu nào cho phép giải
thích rõ vấn đề này. Điều đáng lưu ý là những sách chép là đô đốc Long hay đô
đốc Mưu, không có một tài liệu nào ghi chú rõ nguồn gốc của nhân vật, ngay cả
họ hàng quê quán cũng không biết. Còn gia phả họ Đặng, đạo sắc phong chức tước
đời Tây Sơn, văn bia của Phan Huy Ích và Ngô Thì Nhậm là những tư liệu có giá
trị, ghi chép đầy đủ họ tên, quê quán và phản ánh những nét lớn thân thế, sự
nghiệp của Đặng Tiến Đông. Có thể do ghi chép sai lạc, phát âm chệch [16],
cũng có thể do một lý do nào đó, Đặng Tiến Đông giấu tên thật của mình và vì
vậy, đô đốc Đông trở thành đô đốc Long hay đô đốc Mưu.
Sau khi đánh tan quân
giặc ngoại xâm, Đặng Tiến Đông vẫn giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính
quyền Tây Sơn, tiếp tục đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng đất nước. Dưới
triều Quang Trung (1788 - 1792), ông giữ chức Vệ quốc thượng tướng quân trấn
thủ hai xứ Thanh Hoa và Nghĩa An (thời Tây Sơn gọi trấn Nghệ An là Nghĩa An hay
Trung Đô). Có lẽ ông giữ chức vụ đó cho đến năm 1790 là khi Quang Trung cử con
là Nguyễn Quang Bàn làm đốc trấn trấn Thanh Hóa và tướng Trần Quang Diệu làm
đốc trấn trấn Nghĩa An. Theo bài văn bia chùa Thủy Lâm do Phan Huy Ích soạn
khắc vào năm Cảnh Thịnh thứ năm (1797) và bài minh do Trần Bá Lam soạn khắc vào
chuông chùa Trăm Gian (thôn Tiên Lữ, xã Tiên Phương, huyện Chương Mỹ, tỉnh Hà
Tây) vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) thì trong thời Quang Toản (1792 - 1802),
ông giữ chức đại tướng thống vũ thắng vệ Thiên hùng hiệu.
Ngoài việc nước, trong
thời gian làm quan trong triều Tây Sơn, Đặng Tiến Đông còn chăm lo tu bổ một số
đền chùa ở quê hương. Trải qua nhiều năm biến loạn thời cuối Lê, dân làng Lương
Xá có một bộ phận lưu tán đi các nơi. Ông đã chiêu tập dân làng trở về quê
hương, khai khẩn đất đai, mở mang thôn xóm. Ông cúng cho làng 600 quan tiền và
17 mẫu ruộng tốt để tu bổ chùa Thủy Lâm, đền thờ họ Đặng và làm chi phí thờ
cúng hàng năm. Ông còn sửa sang lại chùa Trăm Gian, đúc chuông cho nhà chùa
(năm 1794) và cúng 80 quan tiền, 8 mẫu ruộng làm hậu Phật.
Chùa Trăm Gian còn giữ
được bức tượng Đặng Tiến Đông mà nhân dân địa phương thường gọi là “tượng quan
đô”. Bài văn bia “Đặng tướng công bi" dựng trong chùa và gia phả
một số chi họ Đặng cho biết bức tượng tạc vào năm Cảnh Thịnh thứ hai (1794) lúc
Đặng Tiến Đông 56 tuổi. Các tài liệu trên chép là “tượng truyền thần", tạc
vào lúc “sinh thời” của ông. Các cụ già làng Tiên Lữ tương truyền rằng,
tượng giống người đến mức độ khi rước tượng về chùa, tượng đặt trong kiệu đi
trước, “quan đô” ngồi trong kiệu đi sau, người xem không làm sao phân biệt được
người và tượng! Ngày nay, khó mà xác định bức tượng có giống người đến mức độ
như vậy không. Nhưng nghiên cứu bức tượng thì rõ ràng đấy không phải là một bức
tượng mang tính chất tượng trưng, ước lệ thường gặp trong các chùa đền. Bức
tượng nhằm diễn tả một con người cụ thể có dáng vóc, phong thái và cá tính
riêng.
Tượng bằng gỗ mít, cao
1,30m không kể bệ, tạc một võ tướng mặc võ phục đơn giản, trong tư thế ngồi,
hai tay vòng về phía trước. Tượng thể hiện một người có tuổi, dáng cao lớn, vai
rộng, khuôn mặt to, mồm hơi dô, môi dày, râu quai nón... Nét mặt trang nghiêm
nhưng có vẻ hiền lành, chất phác.
Bức tượng đã bị mọt
đục ruỗng đôi chỗ và đã bị sơn lại. Gia phả chi họ Đặng ở thôn Long Châu, xã
Phụng Châu (Chương Mỹ, Hà Tây) đề là Đặng gia phả ký cho biết năm Thành
Thái thứ 15 (1903), năm chi họ Đặng đã góp tiền, trùng tu bức tượng của tiên tổ
ở chùa Trăm Gian. Đó là một lần trùng tu có thể xác định được. Do những lần
trùng tu như vậy nên nước sơn và những trang trí trên áo quần, mũ đai không còn
giữ được phong cách đời Tây Sơn. Nhưng tính chất và giá trị chân dung của bức
tượng vẫn có thể nhìn nhận và đánh giá được. Đây không phải là một tác phẩm
điêu khắc thật đẹp, nhưng là một bức tượng chân dung rất hiếm có của nghệ thuật
thời Tây Sơn. Bức tượng cho thấy một hình ảnh cụ thể về đô đốc Đặng Tiến Đông,
vị tướng Tây Sơn đã có công lập nên chiến thắng Đống Đa lịch sử.
Đặng Tiến Đông mất
ngày 15 tháng 4 vào một năm khoảng cuối đời Tây Sơn (năm cụ thể chưa xác định được).
Mộ ông táng ở xứ Đồng Trê, nay thuộc thôn Đầm Dền, xã Đại Yên, huyện Chương Mỹ,
tỉnh Hà Tây.
*
Sử sách không ghi chép
một câu nào về Đặng Tiến Đông. Nhưng những tài liệu, di vật mới phát hiện cho
phép nêu cao công lao, sự nghiệp của đô đốc Đông Lĩnh hầu Đặng Tiến Đông và trả
lại cho ông vị trí xứng đáng cùng với cống hiến xuất sắc trong cuộc chiến tranh
bảo vệ Tổ quốc năm 1788 - 1789.
Đặng Tiến Đông là một
trong những sĩ phu tiến bộ ở Bắc Hà đã sớm tìm ra con đường đi đúng đắn của
mình trong tình hình đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc cực kỳ ác liệt và
phức tạp cuối thế kỷ XVIII. Ông đã kiên quyết và dũng cảm đi theo phong trào
Tây Sơn, đứng về phía nhân dân và dân tộc. Phương hướng đúng đắn đó đã mở ra
cho ông một cuộc đời mới, tạo điều kiện cho ông phát huy tài năng của mình, có
những cống hiến tích cực đối với lịch sử.
Đặng Tiến Đông đã sớm
trở thành một tướng soái tài ba của quân đội Tây Sơn. Dưới sự tổ chức và lãnh
đạo tuyệt vời của Quang Trung Nguyễn Huệ, đô đốc Đông đã chỉ huy quân Tây Sơn
đánh thắng trận Đống Đa, góp phần quan trọng tạo nên mùa xuân đại thắng của dân
tộc năm Kỷ Dậu 1789.
GS PHAN HUY LÊ
(Bài in trên Tạp chí Nghiên
cứu Lịch sử, số 154, 1974, tr.63-70)
No comments:
Post a Comment