“Chỉ một bài thơ, Tuệ Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực Tây phương.” Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không đề:
Đôi mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
TUỆ SỸ TRÊN NGÕ VỀ IM LẶNG
Giữa thiên đường rong chơi lêu lổng
Cõi vĩnh hằng mờ nhạt
rong rêu
Ta đi xuống quậy trần
hoàn nổi sóng
Đốt mặt trời vô hạn cô
liêu
Tuệ Sỹ là ai mà thơ
hào sảng, hùng tâm tráng khí như thế ? Tuệ Sỹ quê Quảng Bình, sinh năm 1943,
nhỏ hơn Phạm Công Thiện 2 tuổi, cũng là một bậc thiên tài xuất chúng, làu thông
kinh điển Nguyên thủy, Đại thừa và nhiều thứ tiếng Anh, Pháp, Đức, Hán, Phạn,
Pali. Khi mới vừa 26 tuổi đã viết Triết học về Tánh Không làm chấn động giới
văn nghệ sĩ, học giả, thiện tri thức Việt Nam thời bấy giờ.
Cùng đứng tên trong
nhóm chủ trương tạp chí Tư Tưởng của Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn, trước năm 1975,
Tuệ Sỹ cũng là giáo sư giảng dạy Thiền tông, Trung quán luận ở Đại học Vạn Hạnh
và Cao đẳng Phật học viện Hải Đức, Nha Trang, nổi bật lên như một hiện tượng
độc đáo, gây bao nguồn cảm hứng cho những tâm hồn ưa thích thiền học, thi ca và
phiêu lãng.
“Chỉ một bài thơ, Tuệ
Sỹ đã trùm lấp hết mọi chân trời mới cũ từ Đường thi Trung Hoa tới siêu thực
Tây phương.”* Bùi Giáng đã nhận định như thế về Tuệ Sỹ qua bài thơ Không dề :
Đôi mắt ướt tuổi vàng
cung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh
mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy
mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể
chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển
im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt
muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày
sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa
hạ buồn chăng ?
Đếm tóc bạc tuổi đời
chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi
đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách
tường ủ rũ
Suối nguồn xa ngược
nước xuôi ngàn
Trừ thi sĩ Bùi Giáng
ra, khi nói về Tuệ Sỹ thì có lẽ không ai đủ tư cách, thẩm quyền bằng triết gia
Phạm Công Thiện : “Có sống bên cạnh Tuệ Sỹ và Lê Mạnh Thát từ ngày này qua ngày
khác, trong những hoàn cảnh khác nhau thì mới may ra cảm nhận đôi chút tác
phong thiền sư kín đáo toát ra một cách tự nhiên, một cách vô công dụng hạnh từ
đời sống thường nhật và tinh thần diệu nhập của hai vị. Tôi xin gọi hai vị này
là thiền sư với tất cả đắn đo thận trọng, với tất cả ý nghĩa cao đẹp và như
thực của một danh xưng xung thiên chí.”
Như vậy, chúng ta có
thể gọi Tuệ Sỹ là một thiền sư thi sĩ với ý nghĩa trọn vẹn, tốt đẹp nhất
của danh từ. Còn tiến sĩ kỳ tài Lê Mạnh Thát, bạn thân thiết, cận kề Tuệ Sỹ là
nhà Phật học, Sử học quảng bác, lão luyện, uyên thâm, một con người quán tuyệt
cổ kim, thông tuệ, siêu quần bạt chúng, cũng bằng tuổi Tuệ Sỹ.
Giống như Tuệ Trung
Thượng Sỹ thời Trần thuở xa xưa, Tuệ Sỹ bây giờ cũng là một thiền sư thi sĩ
đích thực. Điều đó chứng tỏ qua những tác phẩm thâm viễn, uyên áo, nhất là thể
hiện qua phong cách sống đạm bạc, đơn sơ giản dị mà rất nghệ sĩ phiêu bồng,
thong dong phóng khoáng, khai mở thông lộ tự do cho con người, biết mỉm cười vô
úy, “uy vũ bất năng khuất” trên tinh thần Đại bi tâm trầm hậu giữa muôn chiều
diệu dụng với đời sống thực tại cái đang là.
Năm 1973, Tuệ Sỹ vừa
đúng 30 tuổi, viết Tô Đông Pha những phương trời viễn mộng, một tác phẩm thâm
thúy tuyệt trù, trữ tình lai láng, tràn đầy chất nhạc và thơ, mở ra con đường
phong quang sáng tạo, ngạt ngào hương vị thi ca hòa chan cả trời thơ đất mộng
không cùng : “Đạt đến cõi thượng thừa của Thơ như người học Thiền chứng chỗ
Không tịch của Đạo, cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm đày đọa thân
tâm mà không thành. Phẫn chí bỏ đi, bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi Không
tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho thông. Cho
nên không thể nào lấy tay chỉ thẳng vào cõi thơ, rồi bảo đây là chân diện mục
của nó…
Thơ phát ra từ những
khổ lụy và những nguyện ước khơi vơi của cuộc tồn sinh, từ độ đó, Thơ đi vào
những thảm họa hoành sinh của lịch sử. Từ buổi bình minh, Thơ vang vọng những
lời tình tự thiết tha, từ tiếng chim thư cưu nơi cồn cát đến những đêm dài trằn
trọc... Thơ dấn bước đi vào cuộc lữ…
Thơ phát ra từ cuộc lữ
đọa đày rồi trở lại đọa đày cuộc lữ. Cuộc lữ là trường thể nghiệm lịch sử tồn
sinh thảm họa của Thơ và Thơ mở rộng những phương trời lữ thứ. Quê hương nguyên
thủy chỉ là những âm vang của lịch sử, vang dội ngân dài trong những phương
trời viễn mộng. Cho nên đất của Thơ là đất trích, là những vùng đày ải, đường
của Thơ là quán trọ, là những bước đường ngược gió. Mặn nồng nơi đất trích, lân
la nơi quán trọ, cuộc thể nghiệm dây dưa với hằng triệu vấn vương và cũng là
cuộc thể nghiệm cho khước từ tuyệt đối… Bởi cách điệu trầm trọng như thế, nên
Thơ là phong vận tài hoa, đẹp như những cụm mây trời trong nắng sớm.”**
Tuệ Sỹ nói về cõi thơ
Tô Đông Pha mà vô hình chung cũng dường như nói về cõi thơ của chính mình. Thật
vậy, cõi thơ Tuệ Sỹ bước đi bi tráng giữa dòng sử lịch kinh hoàng của thời hiện
đại. Đơn sơ mà kỳ vĩ, bi ai mà hùng tráng, im lặng mà sấm sét,tĩnh toạ mà phiêu
bồng, đó là cõi thơ trầm thống, khốc quỷ kinh thần của Tuệ Sỹ, một thi sĩ
thượng thừa, một tài hoa đủ điệu, một tâm hồn cô liêu cùng tuyệt với hồn thơ
thâm viễn, uyên mặc u ẩn, ngân dài trên giai điệu trầm tư lãng đãng :
Ngược xuôi nhớ nửa cung đàn
Ai đem quán trọ mà
ngăn nẻo về
Để cho trời thơ phiêu phưỡng, bước đi lồng lộng, độc hành ca giữa đỉnh cao và hố thẳm, làm kẻ rong chơi từ thuở hồng hoang hỗn độn, phiêu hốt tang bồng, rong rêu, lêu lổng trong cuộc mộng trần sa :
Ta làm kẻ rong chơi từ hỗn độn
Treo gót hài trên mái
tóc vào thu
Ngồi đếm mộng đi qua
từng đọt lá
Rủ mi dài trên bến cỏ
sương khô
Vì lêu lổng mười năm
trời nói mộng
Ôm tình già quên bẵng
tuổi hoàng hôn
Một sớm nọ nghe chim
buồn đổi giọng
Người thấy ta xô dạt
bóng thiên thần
Đất đỏ thắm nên lòng
người hớn hở
Đá chưa mòn sao lòng
dạ trơ vơ
Thành phố nọ bởi sương
mù nắng quái
Nên mười năm quên bẵng
mộng giang hồ
Cuộc rong chơi phiêu bạt, lãng tử giang hồ vô tận đến nỗi quên bẵng hết những chuyện mộng mị chiêm bao, hồn thi nhân chuếnh choáng, xuất thần lâng lâng rồi chợt bỗng hóa thân thành cánh chim én mùa xuân bay qua dòng sông chiều tàn hoang vắng hay làm cánh bướm chao nghiêng, tung lượn xôn xao giữa mưa nắng phong trần :
Một con én một đoạn đường lay lất
Một đêm dài nghe thác
đổ trên cao
Ta bước vội qua dòng
sông biền biệt
Đợi mưa dầm trong cánh
bướm xôn xao
Bóng ma gọi tên người
mỗi sáng
Từng ngày qua từng
tiếng vu vơ
Mưa xanh lên tóc huyền
sương nặng
Trong giấc mơ lá dạt
xa bờ
Người đứng mãi giữa
lòng sông nhuộm nắng
Kể chuyện gì nơi ngày
cũ xa xưa
Con bướm nhỏ đi về
trên cánh mỏng
Nhưng về đâu một chiếc
lá xa mùa ?
Năm tháng vẫn như nụ
cười trong mộng
Người vẫn đi như nước
chảy xa nguồn
Bờ bến lạ chút tự tình
với bóng
Mây lạc loài ôi tóc cũ
ngàn năm
Ngàn năm rồi mà sao vẫn còn mãi lạc loài hỡi mây trắng hoằng viễn miên du ? Nhà thơ chợt lặng thầm trầm tư thắc mắc, chẳng biết chiếc lá vàng úa rụng xa mùa kia sẽ về đâu giữa phong ba, bão loạn ? Nhưng rồi bỗng thấy “năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng” nên cứ để mặc nhiên cho dòng thơ trôi chảy qua nghìn bến bờ xa lạ nhòa nhạt hoang vu tận cuối bãi mịt mù. Thi nhân chạnh lòng trắc ẩn trong ngậm ngùi, khắc khoải, xót xa cho bao kiếp người phải hốt hoảng, kinh hoàng vượt trùng dương để tìm kế sinh tồn. Cưu mang nung nấu một nỗi niềm tâm sự mênh mông, không biết bày tỏ cùng ai nên chẳng biết nói gì hơn là để cho tiếng lòng ngân lên cung bậc sầu thương vô hạn trước những lượn sóng cuồng phong chìm nổi giữa sinh tử ba đào :
Một bước đường thôi nhưng núi cao
Trời ơi ! Mây trắng
đọng phương nào
Đò ngang neo bến đầy
sương sớm
Cạn hết ân tình nước
lạnh sao ?
Một bước đường xa xa
biển khơi
Mấy trùng sương mỏng
nhuộm tơ trời
Thuyền chưa ra bến
bình minh đỏ
Nhưng mấy ngàn năm
tống biệt rồi
Cho hết đêm hè trông
bóng ma
Tàn thu khói mộng
trắng Ngân hà
Trời không ngưng gió
chờ sương đọng
Nhưng mấy nghìn sau ố
nhạt nhòa
Cho hết mùa thu biệt
lữ hành
Rừng thu mưa máu dạt
lều tranh
Ta so phấn nhụy trên
màu úa
Trên phìm dương cầm
hay máu xanh
Hình ảnh máu màu xanh bầm tím rơi xuống như mưa mù thảm đạm thật khiếp đảm làm sao, gợi ra bao cảnh xiêu hồn lạc vía ở địa ngục âm u mù tăm tối. Ơi chao ! Địa ngục đó chẳng phải ở dưới lòng đất sâu kín kia mà lại ở ngay trên mặt đất trần gian này mới đâu đớn, rợn người khủng khiếp chứ ! Từ khi chứng kiến biết bao oan khiên, nghiệt ngã, biết bao khổ lụy đọa đày diễn ra một cách khốc liệt, tàn bạo, vô nhân đạo, vô lương tâm trên khắp mọi miền thế giới đó, nhà thơ nhạy cảm của chúng ta đã thấm thía một nỗi buồn vạn cổ sầu trong vô lượng xót thương :
Ôi nỗi buồn từ ngày ta lạc bước
Cố quên mình là thân
phận thần tiên
Cốt cách, phong vận của thi nhân vốn là ở cõi tự do tiêu sái, tiêu dao, bay bổng chất ngất một trời thần tiên huy hoàng tráng lệ. Thế mà cũng đành phải cố quên đi tất cả, vì ma quỷ A tu la tham sân si đã hiện hình như người, dùng bạo lực thâm độc, dốc hết tốc độ tham tàn, sân hận, si mê giáng xuống những tai ương thảm họa, trong cơn điên đảo loạn cuồng. Buồn quá phải không, buồn chết lặng quặn lòng đau tê tái giữa chập chùng bóng tối u mê :
Lửa đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một kiếp người ray rứt
bụi tro bay
Tôi ngồi mãi giữa tha
ma mộ địa
Lạnh trăng tà lụa
trắng trải rừng cây
Khuya rờn rợn gió vèo
run bóng quỷ
Quỷ run run hôn mãi
lóng xương gầy
Khóc năn nỉ sao hình
hài chưa rã
Để hồn tan theo đốm
lửa ma trơi
Khi tâm tư chưa là gỗ
mục
Lòng đất đen còn giọt
máu xanh ngời
Một khi đối diện với quỷ ma giữa ban ngày thì hầu hết chúng ta đều hãi hùng khiếp sợ, nhưng ở đây, kỳ lạ thay, nhà thơ vẫn hào hùng vô uý, khi biết mình đang giáp mặt với thập tử nhất sinh. Một mình lẫm liệt hiên ngang bất khuất, dấn bước lên đường dưới gầm trời bão loạn cuồng si. Đi về đâu hỡi Long Thọ, Mã Minh, Thế Thân, hỡi Tăng Triệu, Bồ Đề Đạt Ma, Huệ Năng, hỡi Tô Đông Pha, Lý Hạ, Vương Duy, hỡi Duy Ma Cật, Thiện Tài, Thắng Man, hỡi Suzuki, Nietzsche, Heidegger…giữa điêu tàn tan hoang trên mặt đất ? Rồi lặng hồn lắng nghe đồng vọng vang lên những lời kinh Hoa Nghiêm hùng tráng :
Trang phục bằng khôi giáp Nhẫn kiên cố
Thanh gươm Trí trong
cánh tay Đại bi
Nguyện đấng Đại Hùng
dũng mãnh hướng dẫn con
Trực diện chiến đấu
với ma quân
Với cánh tay Đại bi cầm
thanh gươm Đại trí, thi nhân còn mặc thêm áo giáp Vô sanh pháp nhẫn nữa thì
cũng thừa sức dấn mình vào địa ngục trần gian, trực diện đương đầu với đảo
điên, chuyển hóa ma vương, quỷ sứ đang quờ quạng, loạn cuồng trong bóng tối vô
minh. Cuộc thế trận sinh tử kinh hồn, một lần tận tường giáp mặt là một lần
thấu triệt lẽ vô thường huyễn ảo quá đỗi mong manh trong cõi người ta và cũng
chính từ đó, thi nhân mới phát Bồ đề tâm, phát đại nguyện thượng thừa, gánh vác
lên vai vô số khổ lụy đoạn trường của nhân gian như chính lời Tuệ Sỹ nhắc
nhở rạt rào : “Bồ đề tâm, đó là chí nguyện nóng bỏng của một chúng sinh tự thấy
mình đang sống trong cảnh tối tăm giữa đọa đày khổ nhục, mong tìm một con đường
sáng, không những để giải thoát bản thân khỏi những đe dọa áp bức mà còn là để
giải thoát cho tất cả những người cùng cảnh ngộ. Bồ đề tâm, đó là ý chí kiên
cường, bất khuất của một con người bị cột trói trên ngọn lửa rực cháy, bị chà
đạp dưới những sức mạnh tàn khốc bởi tham vọng điên cuồng của chính ta và của
một tập thể ma quái chung quanh ta. “Vui sướng gì, thích thú gì giữa ngọn lửa
tam độc không ngừng thiêu đốt ? Bị bao phủ trong bóng tối, sao không đi tìm bó
đuốc ?” Không có tâm nguyện đó, không có ý chí đó, Bồ tát đạo chỉ là một con
đường xa xôi, không tưởng, thần thoại hoang đường và Phật thừa không hơn một
tiếng nói suông của một người mê sảng trong giấc ngủ ngày.”*** Thi nhân thấy
như vậy bằng đôi mắt sâu thẳm rực lửa tam muội của chính mình nên vẫn thường vô
vi tùy duyên nhẹ bước vào ra giữa ta bà đây đó :
Đây khúc nhạc đưa hồn lên máu đỏ
Bước luân hồi chen
chúc cọng lau xanh
Xô đẩy mãi sóng vàng
không bến đỗ
Trời lênh đênh ma quỷ
rắc tro tàn
Vẫn khúc điệu tự ngàn
xưa ám khói
Ép thời gian thành
rượu máu trong xanh
Rượu không nhạt mà
thiên tài thêm cát bụi
Thì ân tình ngây ngất
cõi mong manh
Ôi tiết nhịp thiên tài
hay quỷ mị
Xô hồn ta lảo đảo giữa
tường cao
Trưa dài lắm ta luân
hồi vô thủy
Đổi hình hài con mắt
vẫn đầy sao
Từ vô thủy đến vô chung, cuộc luân hồi khởi sự từ đâu chẳng biết, chỉ hay rằng từ lúc nghe đồng vọng những trận gió phù trần tận chốn miền thiên thu vi vu thổi tới giữa vạn đại miên trường :
Đá mòn phơi nẻo tà dương
Nằm nghe nước lũ khóc
chừng cuộc chơi
Nghìn năm vang một nỗi
đời
Gió đưa cuộc lữ lên
lời viễn phương
Đan sa rã mộng phi
thường
Đào tiên trụi lá bên
đường tử sinh
Sinh tử là một việc trọng đại như thi nhân đã có lần nói tới trong lời tựa Vô môn quan của thiền sư Vô Môn, do Trần Tuấn Mẫn dịch : “Nơi đây, sa mạc vẫn cứ thiên thu cô tịch trong cơn gió bức bách của hư vô. Lẽ sống và lẽ chết cứ mãi bập bềnh trên hư ảo. Tâm hồn miệt mài nóng cháy, nhưng không cháy tan nổi những giấc mộng hãi hùng của hư vô và huỷ diệt.” Hư vô đã trở thành một thứ chủ nghĩa đang huỷ diệt mặt đất một cách trầm trọng đau thương, gây bao tang tóc não phiền, khiến thi sĩ nghe ra nghèn nghẹn tận đáy hồn :
Một ước hẹn đã chôn vùi tang tóc
Cánh chim trời xa mãi
giữa lòng sâu
Nghe một nỗi hao mòn
trong thoáng chốc
Một mùa thu một vạn
tiếng kêu gào
Khuya còn lạnh sương
mù và gió lốc
Thở hơi dài cát bụi
cuốn chiêm bao
Bên cửa sổ bên kia đồi
sao mọc
Một lần đi là vĩnh
viễn con tàu
Đi để nhớ những chiều
pha tóc trắng
Mắt lưng chừng trông
giọt máu phiêu lưu
Giọt máu nào phiêu lưu, lạc nẻo xa nguồn trôi tan tác, lao đao trong nỗi hao mòn tàn tạ, trong cơn gió lốc kinh hồn rờn lạnh buốt xương da ? Đi là đi mất, đi biền biệt, biến tan như sợi khói mỏng manh giữa bầu trời gió lộng, không bao giờ trở lại nữa, nhưng vừa đi vừa ngoái nhìn để lắng nghe những tiếng gào kêu thống thiết của nhân gian, của thập loại chúng sinh đang quằn quại rên siết trong bao đổ nát đoạn trường, dâu bể tan hoang đầy thảm hoạ tồn sinh bức bách rợn ngần :
Tiếng ai khóc trong đêm trường uất hận
Lời ai ru trào máu lệ
bi thương ?
Hồn ai đó đôi tay gầy
sờ soạng
Là hồn tôi tìm dấu cũ
quê hương
Ai tóc trắng sững sờ
trên tuyết lãnh
Bước chập chờn heo hút
giữa chiều sương
Viên đá nhỏ mấy nghìn
năm cô quạnh
Hồn tôi đâu trong dấu
vết hoang đường ?
Hoang đường nào còn in trên dấu vết lênh đênh ? Tên tuổi nào cô liêu đến bạc trắng cả mái đầu ? Sầu thế kỷ điêu linh nào cứ ngân dài mãi trong não nề thê thiết :
Tang thương một dải tóc huyền
Bãi dâu ngàn suối mấy
miền hoang vu
Gởi thân gió cuốn xa
mù
Áo xanh cát trắng trời
thu muộn màng
Chênh vênh hoa đỏ nắng
vàng
Gót xiêu dốc núi vai
mang mây chiều
Tóc huyền loạn cả
nguyên tiêu
Lãng du ai ngỡ cô liêu
bạc đầu
Cô liêu, cô đơn, cô độc, cô lữ là bước đi kỳ cùng của người thi sĩ dị thường. Bước đi chênh vênh, khập khễnh bên này cát bụi phù du, bên này bờ Thị Ngạn Am xao xác cọng lau gầy sậy yếu lặng phất phơ. Thở cùng hương trái đắng và hương nắng buồn trong mắt biếc nhiều diệu vợi uyên tư :
Gà xao xác gọi hồn ta từ quá khứ
Về nơi đây cùng khốn
với điêu linh
Hương trái đắng mùa
thu buồn bụi đỏ
Ôi ngọt ngào đâu mái
tóc em xinh
Từng tiếng lẻ loi buồn
thống thiết
Nghe rộn ràng từ vết
lở con tim
Từ nơi đó ta ghi lời
vĩnh biệt
Nắng buồn ơi là đôi
mắt ân tình
Còi xa vắng giữa trưa
nào lạc lõng
Môi em hồng ta ước một
vì sao
Trưa dài lắm nhưng
lòng tay bé bỏng
Để vươn dài trên vầng
trán em cao
Em ở đây chính là hình ảnh cuộc đời. Cuộc đời nếu nhìn từ chân đế, vốn là tuyệt trần Chơn mỹ, vốn là Vô sinh bất diệt, vốn là Niết bàn, Tịnh độ như thị như nhiên. Biết được điều đó, cho nên lòng thi nhân tự bao giờ vẫn vô cùng khoan dung rộng lượng, thương yêu nhân loại trong vô ngôn lặng lẽ, trong tận cùng dung nhiếp âm thầm, chia sẻ với muôn loài vạn vật trần ai :
Ta sống lại trên nỗi buồn ám khói
Vẫn yêu người từng
khoảnh khắc chiêm bao
Từ nguyên sơ đã một
lời không nói
Như trùng dương ngưng
tụ ánh hoa đào
Nghe khúc điệu rộn
ràng đôi cánh mỏi
Vì yêu người ta vói
bắt ngàn sao
Vô biên vô lượng thương yêu con người tha thiết mà không bao giờ nói mình yêu thương gì hết cả, đó mới chính là thương yêu đích thực nhất. Phải chăng chỉ có những tấm lòng Bồ tát mới có thứ tình yêu vô điều kiện, vô phân biệt như vậy ? Một tình yêu rộng rãi Đại bi tâm nhập diệu, kết tinh thành bản tình ca mà thi sĩ thường lắng nghe từ hun hút biển ngàn, sông núi giữa trời đất mênh mang :
Ngọn gió đưa anh đi mười năm phiêu lãng
Nhìn quê hương qua
chứng tích điêu tàn
Triều Đông hải vẫn thì
thầm cát trắng
Chuyện tình người và
nhịp thở Trường Sơn
Mười năm nữa anh vẫn
lầm lì phố thị
Yêu rừng sâu nên khóe
mắt rưng rưng
Tay anh vói trời cao
chim chiều rủ rỉ
Đời lênh đênh thu cánh
nhỏ bên đường
Mười năm sau anh băng
rừng vượt suối
Tìm quê hương trên vết
máu đồng hoang
Chiều khói nhạt như
hồn ai còn hận tủi
Từng con sông từng
huyết lệ lan tràn
Mười năm đó anh quên
mình sậy yếu
Đôi vai gầy từ thuở
dựng quê hương
Anh cúi xuống nghe núi
rừng hợp tấu
Bản tình ca vô tận của
Đông phương
Bản tình ca vô tận ấy, thi nhân vẫn nghe hoài rung ngân bất tuyệt trên những dặm dài long đong lữ thứ ở dọc đường quán trọ bơ vơ, bên làng mạc, thôn ấp đìu hiu, cạnh ven rừng sơn dã hay quanh triền sông thị trấn tiêu điều hoặc trên ghềnh suối truông ngàn hoang vắng tịch liêu giữa những chiều sương khói chơi vơi bềnh bồng trống trải :
Em trải áo trên hoa rừng man dại
Để hoa rừng nước cuộn
biết yêu nhau
Nhưng nước cuộn xóa
đời ta trên bãi
Để hoa rừng phong nhụy
với ngàn lau
Em xỏa tóc cho cây khô
sầu mộng
Để cây khô mạch suối
khóc thương nhau
Ta cúi xuống trên nụ
cười chín mọng
Cũng mơ màng như phố
thị nhớ rừng sâu
Ta chiến đấu nhọc nhằn
như cỏ dại
Thoảng trông em tà áo
mỏng vai gầy
Ôi hạnh phúc chợt thấy
mình nhỏ bé
Chép tình yêu trên
trang giấy thơ ngây
Ta cúi xuống trên chân
người bụi đỏ
Để nhìn sâu trong vết
tích hoang đường
Ta sống lại trên môi
cười rạng rỡ
Để nhìn sâu trong ngọn
nên tàn canh
Bằng ánh mắt từ tâm thâm cảm, nhà thơ bi tráng của chúng ta nhìn sâu vào lòng đời với nụ cười bao dung rạng rỡ. Thở cùng điệu hát bản tình ca nhã nhạc vang lừng trên núi rừng cô tịch hay giữa ngày hội lễ rộn ràng dưới phố thị xôn xao, nhà thơ đều im ắng lắng nghe trong từng khoảnh khắc lặng trầm, cảm nhận sâu xa vì biết chỉ là chiêm bao huyễn mộng trong khói bụi chập chờn :
Em mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe môi cười nắng
quái cũng gầy hao
Như cò trắng giữa đồng
xanh bát ngát
Ta yêu người vì khoảnh
khắc chiêm bao
Em là nàng thơ, là hình ảnh cuộc sống. Cuộc sống nếu nhìn từ tục đế thì đầy những thăng trầm, điêu linh khổ lụy từ nghìn xưa đến ngày nay. Khổ đế là sự thật thứ nhất mà Đức Phật đã chỉ bày cách đây gần ba nghìn năm rồi. Giống như đại văn hào Hermann Hesse phát biểu : “Dù có bị đau đớn quằn quại, tôi vẫn yêu thương trần gian điên dại này” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng vậy, cũng hết lòng thương yêu con người, dù kiếp người có tàn xiêu hiu hắt :
Ai biết mình tóc trắng
Vì yêu ngọn lửa tàn
Rừng khuya bên bếp lửa
Ngồi đợi gió sang canh
Một hình một bóng cô đơn ngồi trên tuyệt đỉnh núi lạnh xanh rờn, sẵn sàng chờ đợi một điều gì có thể xảy đến, đôi mắt thi nhân cúi nhìn xuống cuộc đời đang chìm trong bóng tối mù sa mà cảm thương một nỗi u buồn xót xa sầu khôn tả :
Ta không buồn còn ai buồn hơn nữa
Người không đi sông
núi có buồn đi
Tia nắng mỏng soi mòn
khung cửa
Để ưu phiền nhuộm
trắng hàng mi
Ta lên bờ nắng vỗ bờ
róc rách
Gió ở đâu mà sông núi
thì thầm
Kìa bóng cỏ nghiêng
mình che hạt cát
Ráng chiều xa ai thấy
mộ sương dầm ?
Ráng chiều xa bảng lảng bóng hoàng hôn nhân loại đang phủ trùm vàng vọt xuống khắp vùng sông núi Đông phương. Cho dẫu đường đời giăng bẫy đầy hầm hố cách ngăn, khó khăn trắc trở gì gì đi nữa, thi nhân vẫn nhận diện, tỉnh thức trước những sự kiện đang diễn biến, vì đã bừng ngộ thấy : “Ngay trong phiền não tức là Bồ đề, ngay trong những nguy hiểm đáng sợ hãi của sinh tử cũng chính là Niết bàn an ổn. Sợi dây bị tưởng lầm là con rắn, nhưng không phải hủy diệt sợi dây để diệt trừ ảo giác gây nên sợ hãi. Ngoài những gì vô thường được thấy, được kinh nghiệm bằng chính mắt, tai, mũi, lưỡi này, không tồn tại một thế giới chân thường, đại lạc hay đại ngã nào khác. Đó chính là thực tại Nhất nguyên tuyệt đối.”****
Phải chăng, đó là cái thấy bằng Trí tuệ siêu việt ? Một khi nhà thơ có cái nhìn tuệ giác đó rồi thì những sầu khúc thê lương kéo dài trong đợi chờ não nuột suốt mười lăm năm trường đọa đày viễn mộng như lời thơ tiên tri trước cuồng phong bão tố mịt mùng cũng chẳng hề dao động mà vẫn như như tự tại vô ngại :
Tôi vẫn đợi những đêm xanh khắc khoải
Màu xanh xao trong tiếng
khóc ven rừng
Trong bóng tối nỗi gì
tha thiết mãi
Một vì sao bên khóe
miệng rưng rưng
Tôi vẫn đợi những đêm
đen lặng gió
Màu đen tuyền ánh mắt
tự ngàn xưa
Nhìn hun hút cho dài
thêm lịch sử
Dài con sông tràn máu
lệ quê cha
Tôi vẫn đợi suốt đời
quên sóng vỗ
Quên những người xuôi
ngược Thái Bình Dương
Người ở lại giữa bàn
tay bạo chúa
Cọng lau gầy trĩu nặng
ánh tà dương
Rồi trước mắt ngục tù
thân bé bỏng
Ngón tay nào gõ nhịp
xuống tường rêu
Rồi nhắm mắt ta đi vào
cõi mộng
Như sương mai như ánh
chớp mây chiều
Chút thân bé bỏng dù bị tù ngục lưu đày vì sự ngộ nhận của thế lực vô minh, nhưng ngay trong dầu sôi lửa bỏng, trong đêm dài sinh tử đó, thi nhân đã nhập thần, đại thiền định, thấu thị tất cả vạn pháp “như sương mai như ánh chớp mây chiều” làm vỡ bùng rơi rụng bóng tối để rực ngời lên ánh phong quang, hiển lộ vô ngần thần lực vô vi. Một câu thơ khiến bay dậy âm vang sấm sét, mặc như lôi từ trong kinh Kim Cang làm phấn chấn bất khả tư nghì :
Tất cả pháp hữu vi
Như huyễn mộng bọt
nước
Như ánh chớp sương mai
Thường quán tưởng như
thị
Trùng trùng vạn pháp muôn loài vạn vật núi sông, rừng biển, thiên nhiên vũ trụ và con người đều như mộng như huyễn , như bọt nước như sương mai…Phải thường xuyên thấy rõ ràng như thế. Tuệ Sỹ cũng nhiều lần nói : “Tất cả giáo pháp của Phật đều hướng đến diệt trừ tự ngã. Tôi đang tồn tại, đó là một hiện thực, đồng thời cũng là một ảo ảnh. Đau khổ là một sự thực. Cái tôi đang đau khổ ấy lại là ảo ảnh. Cái ta ảo ảnh được bọc trong vỏ trứng vô minh, nó được định hình bằng vọng tưởng thành thân thể ta, linh hồn ta, sở hữu của ta, tài sản của ta, cho đến núi sông này là của ta, tài sản này là của ta, ta là tài sản này, sông núi này là của ta, ta là sông núi này. Cho nên, khi tán gia bại sản, khi sông núi sụp đổ, cái ta vọng tưởng cũng sụp đổ thì có kẻ trầm mình xuống sông hoặc treo cổ trên cành. Vì thế, khi nghe nói cái ta này là ảo ảnh, là không thực, người nghe có thể kinh hoàng như nghe sét đánh ngang tai. Tiếng sét đó là từ Kim Cang Bát Nhã. Duy có điều, mọi người đều mù, chỉ thấy bóng tối, mọi người đều điếc, chỉ nghe tiếng vo ve. Làm sao có thể thấy cái ta chỉ là ảo ảnh ? Làm sao nghe được tiếng sấm từ kinh Kim Cang ? Với những ai có mắt để thấy, có tai để nghe, kinh Kim Cang sẽ chỉ đường để đối diện với ảo ảnh của cái tôi và chỉ cách vận dụng kim cang xử đập vỡ vỏ trứng vô minh bao bọc tự ngã.”
Khi thi nhân lãnh hội, quán chiếu sâu xa, thấy tất cả vạn pháp như ảo ảnh, mộng huyễn như vậy thì hoát nhiên hiển lộ, bừng sáng lên một phương trời Tánh Không lồng lộng nên hết thảy mọi khổ nạn điêu linh trầm thống đều chuyển hóa thành lửa tịch mịch, tự nhiên đốt cháy hết những kinh hoàng khủng khiếp của địa ngục trần gian và sầu khúc thê lương trở thành “Bản tình ca vô tận của Đông phương” hay biến thành Những điệp khúc cho dương cầm thâm thúy dưới ngàn trăng sao xao xuyến lặng bồi hồi :
Nỗi nhớ đó khát khao luồn sợi tóc
Vòng tay ôm cuộn khói
bâng khuâng
Uống chưa cạn chén trà
sương móc
Trên đài cao em ngự
mấy tầng
Lên cao mãi đường mây
khép chặt
Để xoi mòn ảo tượng
thiên chân
Ồ, nguyệt quế ! Trắng
mờ đôi mắt
Ồ, sao Em ? Sao ấn mãi
cung đàn ?
Giai điệu cổ thoáng
buồn u uất
Xưa yêu Em xao động
trăng ngàn
Từ xưa đến nay vẫn điệp khúc cung đàn trường ca Đại bi tâm trầm lặng ngân rung trên cung bậc Bất nhị giữa cõi người ta vô thủy vô chung. Chúng ta hãy lắng nghe, thưởng thức những giai điệu tài hoa của nhạc sĩ tế nhị cảm giao hòa :
Ta nhận chìm thời gian trong khóe mắt
Rồi thời gian ửng đỏ
đêm thiêng
Đêm chợt thành mùa
đông huyễn hoặc
Cánh chim bạt ngàn từ
quãng Vô biên
Từ đó ta trở về Thiên
giới
Một màu xanh mù tỏa Vô
biên
Bóng sao đêm dài vời
vợi
Thật hay hư chiều nhỏ
ưu phiền
Chiều như thế cung
trầm khắc khoải
Rát đầu tay nốt nhạc
triền miên
Ôm dấu lặng nhịp đàn
đứt vội
Anh ở đâu khói lụa
ngoài hiên ?
Ngoài hiên chiều phất phới bay qua những vệt nắng nhạt nhòa phôi pha trong bóng tà huy thấp thoáng lan dần nhẹ tỏa xuống mềm mại những sợi khói mênh mang :
Nắng lụa đỏ phủ tường rêu xám bạc
Lá cây xanh nghiêng
xuống mắt mơ màng
Người có biết mặt trời
kia sẽ tắt ?
Ta yêu người từ vết
rạn thời gian
Thời gian và không gian trộn lẫn hòa quyện tan vào trong cùng một tấu khúc rung cảm, bồng tênh lênh láng, dạt dào du dương, vi vu vi vút nguồn cảm xúc khôn dò của người em thi ca quá tuyệt diệu trong tự tình khúc rung động chan hòa :
Tự hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay em rung trên những
phím lụa ngà
Thôi huyễn tượng xô
người theo cát bụi
Vùng đất đỏ bàn chân
ai bối rối
Đạp cung đàn sương ứa
đọng vành môi
Đường xanh xanh phơn
phớt nụ ai cười
Như tơ liễu ngại ngùng
lay nắng nhạt
Lời tiễn biệt nói gì
sau tiếng hát
Hỏi phương nào cho
nguyện ước Trường Sơn
Lời em ca phong kín
nhụy hoa hờn
Anh trĩu nặng núi rừng
trong đáy mắt
Mờ phố thị những chiều
hôn suối tóc
Bóng ai ngồi so phím
lụa đàn xưa
Tiếng đàn miên man réo rắt lặng hồn dưới bàn tay phấn chấn thân yêu, dìu dặt vọng vang bàng hoàng qua những điệp khúc cho dương cầm thâm tình thấm thiết mãi ngân nga từ cõi mộng không lời, hỡi vầng trăng gầy tịch nhiên soi chiếu trong vườn sương khuya mờ ảo lung linh ngời lấp lánh long lanh :
Nhà đạo nguyên không khách
Quanh năm bạn ánh đèn
Thẹn tình trăng liếc
trộm
Bẽn lẽn núp sau rèm
Yêu nhau từ vạn kiếp
Nhìn nhau một thoáng
qua
Nhà đạo nguyên không
nói
Trăng buồn trăng đi xa
Chao ơi ! Yêu thương nhau đã từ muôn triệu kiếp rồi, hỡi vầng trăng thanh thoát vàng hoa mộng như nàng thơ gầy yểu điệu, lặng lẽ chia phôi. Thôi buồn làm chi nữa phải không ? Thôi cứ thản nhiên để cho hồn thơ dệt phím nhạc ngàn đời những tơ đàn diệu âm trầm bổng ngát xanh huyền :
Tóc em bay trong sương chiều khói biếc
Dệt tơ trời thành khúc
hát bâng khuâng
Tình hay mộng khi
Trường Sơn xa hút
Đến bây giờ mây trắng
gởi tin sang
Hồn tôi đi trong rừng
lang thang
Cọng lời ru từ ánh
trăng tàn
Mắt em nhỏ ngại ngùng
song cửa
Nghe tình ca trên giọt
sương tan
Gót chân em nắng vàng
xưa viễn phố
Những ngón hồng ngơ
ngác giữa đường chim
Ôi ta nhớ như đêm dài
thượng cổ
Sợi tóc mềm lơi nhịp
hát trong tim
Trong tim hồn rộn ràng bao nhịp hát hoang sơ từ thượng cổ vọng về, nghe như điệu hát Trang Tử Tiêu dao du, bên bờ sông xa mù Dương Tử, hay như lời thơ ngâm nga của Milarepa trên tuyệt đỉnh ngàn cao Hy Mã Lạp Sơn chập chờn sương khói tỏa thiên thu hoặc như khúc hát nghêu ngao Phóng cuồng ca của Tuệ Trung Thượng Sỹ, trong cơn xuất thần nhập diệu, đại hòa điệu chơi cùng nhật nguyệt, thiên địa tuần hoàn.
Thế là, bát ngát bồng tênh trên ngõ về im lặng, tiếng thơ trầm hùng Tuệ Sỹ như ánh trăng huyền nguyên thủy, chiếu diệu xuyên qua ngút ngàn bóng tối vô minh làm bừng hiện rực ngời lên trên cung bậc ngôn ngữ thi ca đầy sáng tạo và sáng tạo tân kỳ như Tuệ Sỹ từ thuở thanh xuân đã nghe tận thần hồn : “Ngôn ngữ không còn là một hình ảnh héo hắt của Thực tại sai biệt và sai biệt. Nó không đi chơi vơi trên Thực tại mà đóng vai trò truyền thông như tiếng gọi từ trên một đỉnh trời Tuyệt đối vô tri, từ trên một đỉnh núi ngàn đời bất khả xâm phạm, luôn luôn thách đố bước tiến của con người. Nó đánh mất đi cái cụ thể nghèo nàn trong tầm mắt thường nghiệm của phàm phu để dẫn đến một chân trời rực rỡ của sáng tạo.”*****
Con đường mây trắng thênh thang sáng tạo đã vượt qua những mộng tàn năm tháng cũ, dù vẫn cỏn chút dư hương của một thời đọa đày viễn mộng u sầu :
Màu nắng xế ôi màu hương tóc cũ
Chiều chơ vơ chiều dạt
mấy hồn tôi
Trời viễn mộng đọa đày
đi mấy thuở
Mộng kiêu hùng hay
muối mặn giữa trùng khơi
Vén thanh sắc đổ mù
khơi về đối diện
Cuộc ân tình lơi lả
vội chia phôi
Trăng nằm xuống duỗi
dài hai bến hẹn
Một dòng sông vồn vã
động chân trời
Ơi chao ! Đã chia phôi, từ biệt cuộc ân tình nhân thế từ dạo đó, kể từ ngày như Nguyễn Du xa xưa từng chứng kiến giữa trần ai : “Trải qua một cuộc bể dâu. Những điều trông thấy mà đau đớn lòng” nhà thơ Tuệ Sỹ cũng đi về theo thể điệu phiêu nhiên, quy hồi Vĩnh cửu với nụ cười sâu lắng tự tri :
Khói ơi ! Bay thấp xuống đi
Cho ta nắm lại chút gì
thanh xuân
Ta đi trong cõi Vĩnh
hằng
Nhớ tàn cây nhỏ mấy
lần rụng hoa
Vĩnh hằng chẳng ở đâu xa mà ngay trong từng sát na hiện tại, ở đây và bây giờ, ngay trong tiếng ve sầu hay từng nhịp thở nhẹ nhàng giữa lòng phố bụi lao xao :
Ve mùa hạ chợt về thành phố
Khóm cây già che nắng
hoang lương
Đám bụi trắng cuốn lên
đầu ngõ
Trên phím đàn lặng lẽ
tan hương
Tiếng ve dội lăn tăn
nốt nhỏ
Khóc mùa hè mà khô cả
đại dương
Ngôn ngữ thi ca thường chứa nhiều ẩn dụ, tượng trưng hàm súc như vậy, chúng ta tha hồ suy diễn, lãnh hội, cảm nhận theo đủ cách điệu riêng tư của mình thôi. Đọc thơ Tuệ Sỹ là lang thang bước dạo chơi vào một thế giới diêu mang kỳ ảo vô vàn :
Một ngày chơi vơi đỉnh thác
Nghe bồn chồn tiếng
gọi hư không
Giai điệu nhỏ dồn lên
đôi mắt
Mặt hồ im ánh nước
chập chờn
Mặt hồ im tảng màu man
mác
Ảnh tượng mờ một chút
sương trong
Quãng im lặng thời
gian nặng hạt
Tôi nghe đời trong tấu
khúc Thiên hoang
Tấu khúc Thiên hoang vang rền, đồng vọng trong tận đáy lòng Không tánh vô biên, khiến cho thi nhân tự mình thưởng thức hương vị cô liêu của cuộc sống. diệu thường :
Tự tâm tự cảnh tự thành chương
Tự đối bi hoan diệc tự
thưởng
( Cô độc cảnh tâm thơ
tự xuất
Tự ngắm buồn vui tự
thưởng thức )
Thế thì, tuyệt cùng ẩn ngữ thi ca Tuệ Sỹ là gì ? Làm sao chỉ ra được, khi ngôn ngữ cứ lấp lánh ẩn hiện trong ánh sáng phát ra từ tâm cảm thâm trầm ? Có ai nắm giữ được những tiếng dương cầm âm thanh thánh thót, phiêu diêu, dịu dàng vang ngân bất tận từ giữa lòng bàn tay của người nghệ sĩ tài hoa ?
Đã rời khỏi Thị Ngạn Am ở Sài Gòn gần 2 năm nay rồi, bây giờ Tuệ Sỹ sống lang thang đúng nghĩa lang thang, hoàn toàn rỗng rang vô sự. Vô sự là thong dong tự do tự tại giữa đang là, không còn chạy theo nắm bắt bất cứ một cái gì nữa cả, dù đó là Phật, là Tổ như thiền sư Lâm Tế nói : “Con người vô sự là người đã dừng lại, không còn dính mắc vào một lý thuyết, một giáo pháp, một đường lối nào nữa hết. Con người vô sự có tự do, có khả năng sống hạnh phúc ngay trong giờ phút hiện tại, không bị bất cứ một cái gì có thể kéo đi, kể cả lý tưởng độ sinh cứu đời. Bởi vì lý tưởng độ sinh cứu đời cũng có thể bắt mình chạy đi tìm cầu, bỏ mất giây phút hiện tại, bỏ mất cái tâm sáng chói và sáu đạo thần quang đang có mặt, vốn là nguồn gốc của tất cả chư Phật.” Lẫn vào cát bụi phù du “hòa kỳ quang đồng kỳ trần” Tuệ Sỹ giống như thiền sư thi sĩ Nhật Bản Basho xuống núi, phiêu bồng thõng tay vào chợ làm thơ và làm thơ giữa ngày tháng lưu linh cùng sương khói bồng bềnh.
Trên ngõ về im lặng, lúc thì tiêu dao với mây trắng trên núi rừng Madagoui huyền ảo, lúc thì lên đồi Phương Bối ở vùng Đại Lão, Bảo Lộc uống trà với nhà thơ Nguyễn Đức Sơn, bồng tênh xuôi về phố hoa Đà Lạt, ghé bên cầu sông nước Đại Ninh cùng những ẩn sĩ tâm tình, rồi thênh thang xuống miền biển khơi Vạn Giã, Nha Trang muôn trùng bát ngát…Hát khúc vô thanh siêu thoát làm hồi phục những tiêu điều, hiu hắt dọc khắp ven đường thi sĩ đi qua.
Hòa trong nhịp bước vân du, người viết chợt bỗng nghe văng vẳng lời nói của Phạm Công Thiện, một người bạn thâm tình chí cốt của Tuệ Sỹ : “ Một con người vừa là thi sĩ vừa là thiền sư, vừa là nhà hành động nhập thế với tinh thần vô công dụng hạnh của bậc Bồ tát. Hành động tích cực, mãnh liệt toàn triệt mà vẫn giữ cảm thức viễn ly và viễn mộng, vì không tham vọng, ích kỷ mù quáng, cho nên nuôi dưỡng cảm thức viễn ly, vì không bị kẹt dính vào tham sân si của thế tục, cho nên mới hàm dưỡng viễn mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít đạo sĩ thi nhân với pháp khí phi thường là Trí tuệ Bát nhã cùng với lòng Đại bi thơ mộng, Tuệ Sỹ là một trong số ít thể hiện được ý nghĩa trọn vẹn của ý thức chính trị toàn diện, ý thức hành động Bi Trí Dũng, dẫn đường soi sáng Thể mệnh của Sử tính quê hương…
Anh không thể cảm thơ người ta thì anh hãy im lặng, còn nếu cảm được thì anh hãy tha thiết ca ngợi, đừng e dè giữ gìn gì cả. Không nên có những kẻ phê bình thơ mà chỉ nên có những người ca tụng thơ. Thơ là của riêng từng người, không có ai làm thầy ai cả.”
Bắt chước Phạm Công Thiện, người viết cũng muốn ca ngợi tán thán Tuệ Sỹ, một thiền sư thi sĩ vĩ đại, một trái tim Kim Cang bất hoại vô úy nhưng ngợi ca làm chi nữa, khi mà tiếng thơ của thi nhân đã làm chấn động rung chuyển cả thế giới hoàn cầu và lan tỏa lạ thường ra khắp vũ trụ mười phương rồi. Thôi thì chỉ xin kính tặng một bài thơ bình dị :
Những phương trời viễn mộng đi
Thi ca tư tưởng bước
kỳ ảo qua
Đọa đày một thuở ta bà
Nỗi đau rực cháy thấy
ra tột cùng
Ôi ! Giấc mơ Trường
Sơn rung
Rúng hồn tim máu chợt
bùng vỡ mơ
Kinh thiên động địa
sững sờ
Đâu chân diện mục của
thơ với thiền ?
Mặc như lôi ngồi tịch
nhiên
Nghe ban sơ vọng ngân
huyền diệu âm
Những điệp khúc cho dương
cầm
Từ vô tận ý vang thâm
thiết niềm
TÂM NHIÊN
___________________
* Bùi Giáng. Đi vào
cõi thơ. Nhà xuất bản Ca Dao, Sài Gòn 1969
** Tuệ Sỹ. Tô Đông Pha
những phương trời viễn mộng. Tái bản lần thứ ba. Nhà xuất bản Văn Hóa Sài Gòn
2008
*** Tuệ Sỹ. Thắng Man
giảng luận. Nhà xuất bản Phương Đông, 2012
**** Tuệ Sỹ. Huyền
thoại Duy Ma Cật. Nhà xuất bản Phương Đông, 2007
***** Tuệ Sỹ. Triết
học về Tánh Không. Nhà xuất bản An Tiêm. Sài Gòn 1970
Thơ Tuệ Sỹ, trích
trong 2 thi phẩm :
Giấc mơ Trường Sơn.
Nhà xuất bản An Tiêm, Paris 2002
Những điệp khúc cho
dương cầm. Nhà xuất bản Phương Đông 2009
No comments:
Post a Comment