Đọc Kinh Tuyến đen
của Lê Vũ (Vĩnh Phúc)
ĐẶNG VĂN SINH
“Kinh Tuyến đen” không đơn thuần chỉ là tập thơ mang màu sắc Hậu hiện đại phá vỡ kết cấu ngôn ngữ truyền thống như một cố gắng tìm tòi theo dòng Tân hình thức, mà còn có khả năng biểu đạt khá đa dạng những biến thái của xã hội công nghiệp chưa hoàn thiện nhưng đã có biểu hiện suy thoái.
Một trong những đặc
trưng của chủ nghĩa Hậu hiện đại là tính hoài nghi cộng đồng với những khái
niệm không phải bắt nguồn từ nhận thức lý tính mà mang tính đột biến, quy chiếu
từ những góc nhìn hiện sinh làm biến dạng hiện thực thành thứ hiện thực hư
vô hoặc hiện thực cực thực. “Kinh Tuyến đen “ tuy cũng xuất
phát từ nguồn nguyên liệu hiện thực nhưng cái hiện thực được phơi bày trước mắt
chỉ là thứ ảo giác. Hiện thực được ẩn tàng dưới lớp vỏ phi lý của loại tư duy
phi logic, lối suy tưởng ngược. Vì thế không thể tìm thấy sự dễ dãi trong ngôn
ngữ biếu đạt. Trong mỗi câu thơ, Vĩnh Phúc đều đặt vào đó một ý tưởng, một
triết lý nhân sinh. Các chất liệu cấu thành thơ ở đây vừa mang tính bình dân
lại vừa siêu hình, bí hiểm. Nó cũng là một dạng cấu trúc ngôn ngữ đặc trưng đại
diện cho một trường phái thơ ít nhiều mang tính nổi loạn.
Những hiện tượng đời
sống cùng vấn nạn nhân sinh trong một cộng đồng xã hội thiếu vắng điểm tựa tinh
thần, mù mờ về văn hóa, khủng hoảng nhân cách, được hình tượng hóa bằng ngôn
ngữ thơ thông qua những lát cắt bất chợt của một cây bút từng trải. Yếu tố
triết luận, cho dù đôi lúc thái quá vẫn là cái nền khá vững chắc hỗ trợ cho
những ý tưởng đột xuất. Cách tư duy của Vĩnh Phúc thường là đi từ khái quát rồi
đến cụ thể, từ vĩ mô đến vi mô mang tính chiêm nghiệm. Đặc điểm hiện sinh trong
thời Tiền công nghiệp Việt Nam nhưng lại là Hậu công nghiệp của thế giới văn
minh luôn có một khoảng cách. Sự không tương thích về những định chế dường như
đang tạo nên những giá trị khập khiễng, thiếu bền vững, là nguyên nhân của sự
mất ổn định. Công thức đi từ khái quát đến cụ thể, từ số phận cộng đồng đến
thân phận con người luôn được quán xuyến trong toàn bộ tập thơ. Về mặt logic
hình thức, Vĩnh Phúc không diễn đạt theo theo phong cách cổ điển dựa vào trình
tự đoạn mạch mà kết cấu thường bị phá vỡ, câu văn đảo ngược, ý tưởng thật lồng
trong ý tưởng giả, trật tự cú pháp đổi chiều, gây nên hiệu ứng thẩm mỹ khác
nhau trong tư duy đối tượng tiếp nhận.
Đọc “Kinh Tuyến
đen” phải biết gạt bỏ lớp sương khói lờ mờ phủ lên những dòng chữ phi lý,
bí hiểm. Khách thể và chủ thể, ý thức và vô thức, thời gian phi tuyến và hữu
tuyến, hiện thực và ảo giác luôn là những đại lượng biến động vô thường nhưng
tựu trung đều có cùng một hằng số văn hóa. Chúng là những vòng tròn đồng tâm
tạo nên những quỹ đạo lồng vào nhau chi phối các giá trị, điều tiết mọi quan
hệ.
Các phạm trù không
gian, thời gian, lịch sử, đạo đức, văn hóa, tình yêu, hôn nhân trong quan niệm nhân
sinh của Vĩnh Phúc đôi khi chỉ là những ý niệm giả tưởng. Con người Hậu hiện
đại có vẻ như đang bị đột biến gene, tiến hóa thêm vài bậc về sinh học nhưng
lại thụt lùi vài bậc về văn hóa, đạo đức. Nói cách khác, trong “Kinh Tuyến
đen”, con người không còn là cá thể đơn lập thuần túy mà não trạng đã bị
lập trình, tình yêu không còn thiêng liêng trong niềm đam mê vô vị lợi. Nền văn
hóa thứ cấp cùng với thứ ngụy thuyết được rêu rao như là chân lý Thượng Đế đã
biến con người thành những kẻ hoài nghi vĩ đại. Vậy mà cái không gian
hiện sinh nửa thiên đàng nửa địa ngục ấy, bằng phép thù thủy, vẫn còn đủ sức mê
hoặc những kẻ cuồng tín hoặc nhẹ dạ cả tin. Không còn nghi ngờ gì nữa, “Kinh
tuyến đen” là một cách nói mà ở đấy, người đọc có thể tìm thấy phiên bản không
mấy “nghiêm chỉnh” của mình có khi chỉ qua một cái hắt xì hơi hay nụ cười nhòe
nhoẹt của cô gái điếm sau một đêm ế khách.
Để thích ứng với hoàn
cảnh, con người mặc nhiên hình thành quán tính mặc kệ sự biến động của dòng
đời. Anh ta cần một không gian ảo, một trạng thái quán tưởng vô định hình mà
cái phông của nó là thiên nhiên trong dạng thức nguyên thủy (cánh đồng, cơn
giông, hạt mưa…) để tư duy về ý nghĩa của tình yêu, xem tình yêu là nơi trú ẩn
an toàn cuối cùng :
mặc kệ những những mưu
đồ lũng đoạn
mặc kệ ngụy tín
ngụy biện
tôi vác tôi đi, về
quê, chân trần, lòng chân thật
vệt nắng xiên ngang
vườn ổi
lưng áo mẹ mồ hôi,
cánh tay trần em thắp trắng
tham nhũng ở rất xa,
tham quyền như mây lặng
chú ve không nhả điệu
sầu của bất cập…
(Từ cánh đồng, dưới cơn giông)
Ký ức về cuộc chiến
hai mươi năm trong “Bên ni một cuộc chiến” cũng nằm trong mạch tư duy
trên. Hình ảnh bà mẹ thời hậu chiến cần mẫn ngồi khâu những vết thương “vá
vào chiều những tàn tích khúm núm” không xuất phát từ hiện thực khốc liệt
của máu và nước mắt mà được đẩy lên ở cấp độ tư tưởng. Mọi vết thương thời gian
có thể chữa lành, nhưng vết thương tâm hồn hằn vào ký ức bởi giấc mộng phiêu
lưu của những kẻ máu lạnh đẩy đồng loại vào những cuộc chiến huynh đệ tương
tàn, hủy diệt cả một nền văn hóa thì khó mà hàn gắn được. Hình ảnh đứa cháu
ngồi theo quán tính chiến tranh mà người bà không thể nào sửa được là một trạng
thái bệnh lý được khái quát thành triết lý.
Trong “Lạc”, “Ao
nhà”, “Nỗi buồn đất đá”…người đọc nhận ra trạng thái tâm lý con người biến
dạng đáng kể dưới áp lực cuộc sống pha tạp đủ màu sắc. Thời đại tiền công
nghiệp xuất hiện muộn song hành cùng với thể chế trái quy luật tự nó sinh ra
những hệ lụy. Ở đây các mối tương quan ở cả hai thái cực được xem như cân bằng.
Thói kiêu ngạo giai cấp, tập tính quen dùng giảo ngữ, trò chơi quỷ biện đang
trở thành thời thượng. Người ta có thể ngụy tạo ra đủ thứ giá trị, kể cả đạo
đức, trừ lương tâm, nên những mặt hàng như nịt ngực hoặc băng vệ sinh phụ nữ
được đặt bên cạnh những tuyên ngôn bịp bợm không có gì là nghịch lý. Thế giới
đang bị phân rã, tâm hồn bị đánh tráo, những mảnh vỡ của trật tự đan xen, va
chạm, chèn ép nhau trong sự vận động hỗn loạn là dự cảm cho một sự đổ vỡ trên quy
mô lớn. Thân phận con chim sẻ nâu bị cầm tù trong không gian ô nhiễm
chính là sự bế tắc của những công dân hạng hai, hạng ba suốt đời bị lường gạt
bởi những triết thuyết của một vài kẻ bệnh hoạn. Với “Nỗi buồn đất đá”,
“Dốc mài sắc đỉnh gió mù nhọn hoắt”, tác giả bắt đầu bằng một sa mạc cát
và kết thúc là nỗi cô đơn hoang tưởng. Đây là trạng thái siêu thực của một thế
giới hỗn độn, khô cứng, chết chóc. Tất cả những điềm gở đó đều lắng đọng trong
tiếng gà gáy báo hiệu một bình minh đau đớn. Tình yêu đi xuyên qua đất đá làm
đất đá chuyển động. Đây có vẻ như là hiện tượng đóng băng tâm lý, con người mất
niềm tin, nhìn thấy ảo ảnh trong cái nền siêu thực.
Quy luật của tình yêu
cùng cách diễn đạt nó được Vĩnh Phúc lặp đi lặp lại với tần số cao. Hình ảnh
bước nhảy của người thiếu nữ qua động tác nhón chân như là sự thăng hoa
của quá trình vận động tâm lý. Cái nhón chân cũng là điều kiện cần để
thay đổi lịch sử. Một khi cú nhảy thành công ( với người con gái điều này hoàn
toàn không khó), mọi bí mật cuộc sống được hé mở. Khúc valse luân vũ
chính là nhịp điệu hài hòa, là năng lượng cuộc sống mà nguồn nuôi dưỡng nó
chính là vẻ đẹp thanh xuân của giai nhân.
Thơ nghiêng về triết
luận, quan điểm hiện sinh của tác giả biểu hiện khá rõ trong mạch tư duy về cái
cô đơn, sự vô nghĩa của cuộc sống nhưng vẫn khao khát tình yêu như là cứu cánh
của kiếp nhân sinh. Yếu tố Hậu hiện đại trong phần lớn các bài trong “Kinh
Tuyến đen”, nổi lên như là phương tiện chuyển tải tư tưởng nghệ thuật
thông qua đặc trưng ảo hóa, số hóa hệ thống ngôn từ. Từ ngữ ở đây không chỉ
mang nội hàm cổ điển mà nó còn tiếp nhận những chức năng mới, khơi dòng chảy
tâm lý, định dạng những khái niệm mở rộng trường ngữ nghĩa. Cùng một từ “rỗng“,
tác giả liệt kê hàng loạt trạng thái: không gian rỗng, thời gian rỗng, một đám
nhân quần rỗng, và cuối cùng là tâm hồn rỗng. Đó chính là những dạng thức khác
nhau của sự vô cảm, bế tắc trong một xã hội mòn mỏi bởi căn bệnh trầm kha, vô
phương cứu chữa. Ở đấy, lớp trẻ, những chủ nhân ông tương lai sống không lý tưởng
bởi đã bị nhồi nhét quá nhiều thứ lý thuyết bánh vẽ. Hình ảnh” mẹ ngồi nhai
ký ức đồng trưa” và “Gió nam chạy trên bãi tha ma hoang phế” càng
khẳng định bức phác thảo nhợt nhạt, u buồn “ngày rỗng buồn lên mặt trống
rỗng” là sự suy kiệt của tư duy, thoái hóa tình yêu, tha ma hóa đạo đức.
Đi tìm ý nghĩa cuộc
sống luôn là khát vọng thường trực trong tâm tưởng. Bất chợt nhìn thấy bóng
khói lam chiều, nhà thơ liên hệ ngay đến bản chất thế giới với hàng loạt quy
luật đối nghịch nhau trong sự vận hành vĩnh cửu. “Khói lam chiều“,
“cánh cò nhúc nhắc” gợi nhớ về khung cảnh thanh bình của thời xa vắng,
đồng hiện cùng nhịp điệu nhốn nháo thời hậu chiến với những xung đột ý thức hệ,
những lý thuyết chắp vá lởm chởm, đang ngắc ngoải thở dài thở dài. Ở môi trường
hỗn tạp ấy, tư tưởng thối rữa, văn chương ba xu, tình yêu chụp giật là động lực
làm nhân cách nhanh chóng suy tàn :
khói lam chiều, khói
lam chiều
chân đi mấy dặm quan
hà nghi ngút
buồn con măt, khói lam
về đâu
mưa ướt mái hiên, mưa
đồng rơm rạ
…
chân mây khóc
thành lệ của đất, nóng
nước mắt người, bụi
cay
(Bóng khói em)
Với cái nhìn hoài
nghi, lại được ẩn dụ nhiều tầng qua các hiện tượng như mây, mưa, sương,
khói…,Vĩnh Phúc luôn biểu đạt một thứ hình ảnh phi truyền thống, phi tự nhiên.
Có thể đó là hiệu ứng của trạng thái cảm xúc siêu thực, chơi vơi trong màn
sương khói mông lung:
Hoàng hôn phi, lộ
thiên khúc nhạc sầu
Bỏ đi. Chân trời mẹ
ngân ngấn đáy mắt con
(Thu mưa)
Đó là thứ mùa thu phá
phách, phi nhân sinh, đầy huyễn tưởng nhưng biết đâu lại “tiệm cận” được cái
“Đạo” của thượng đế chăng? Vì lẽ đó, trong “Em ơi, mùa thu Hà Nội”, dưới
con mắt kẻ lãng du, tác giả nhìn được tâm hồn người đất kinh kỳ chỉ qua một
thoáng hồ Tây :
Hà Nội, ngày cứ phi,
Hồ Tây mưa lao đao
Áo căng buồm chạy
trắng một vai đầy
Anh lộ thiên, phím
tình kêu, ngần ngại
Hà Nội, rứt ruột anh,
mộng du xanh
…
Cuộc chữ chưa bày trăm
năm đã cạn
Heo may gầy, tóc xõa
ngọn gầy hao
Rõ ràng đó là một Hà
Nội được “siêu thực hóa” qua cách đảo trật tự chữ nghĩa, cú pháp, tạo được
chiều sâu suy ngẫm bởi sự kết hợp cả các động thái nghe, nhìn, cảm trong một
không gian thu lãng đãng, huyền ảo.
Tuy nhiên đôi khi hình
ảnh chỉ mang tính biểu tượng. Tác giả dùng thứ dơ bẩn để tẩy rửa dơ bẩn. Một ẩn
ức tâm trạng được mã hóa dưới dạng “tro”. Hiện thực biến dạng thành loại vật
chất trần trụi mang hình hài đạo đức, tín ngưỡng:
chữ trinh được cứu vớt
khi bụi tro rửa mặt
ta bảo em sạch trong…
( Khi bụi tro rửa mặt)
Đến “Tháng bảy hoa
hậu”, yếu tố triết luận trong mạch cảm hứng hiện sinh làm câu thơ không còn
giữ được tính chính xác ngữ nghĩa. Nó đã chuyển hóa, nhảy múa trước sức nặng
của đồng tiền. Cả một xã hội lên cơn co giật bởi những cuộc đấu xảo người đẹp
thật giả lẫn lộn:
những phiên bản trợn
trừng
tháng bảy, mưa lõa
thể, màu trời biến sắc
…
nhan sắc đánh bóng mạ
kền
nhân ái ngụy trang
lên ngôi hoàn vũ
Ở cấp độ sâu hơn,
trong không gian hiện sinh, tác giả cảm nhận về sự “rơi” qua những dạng thức
khác nhau nhưng đều có đặc điểm chung là trạng thái tâm lý được hình tượng hóa
bằng âm thanh. Con sóng rơi, người điên rơi, quy luật tự nhiên bị đảo lộn:
hồn nhiên em nói lời
đạo đức trên cái váy
ngắn cũn cỡn
trong quá khứ có thì
tương lai. Phật hiện
ma quỷ mặc áo gấm, búp
bê nhựa
hát tụng ca vô lý
những điều có lý
(Rơi)
“Rơi” thực chất là thứ
triết lý đổ vỡ về mặt hiện thực phi lý nhưng lại được nhận thức như là chân lý.
Man mác, lãng đãng như
sương mù lởn vởn trên đỉnh núi một sớm đầu xuân là đặc trưng của loạt bài thuộc
loại “Gió Vu Lan”, “Khúc xuân thổi hoang vu chi lạ“, “Cỏ non năm
mới”... Ở đấy, chất ảo lấn lướt chất thực, tâm lý phản ứng với khung cảnh
thiên nhiên :
gió bò dốc tháp ảo
tưởng
chốn vắng tư duy
…
tôi đuổi theo ngọn gió
gõ
boong boong chuông
chùa mùa Vu Lan trong suốt
(Gió Vu Lan)
Trong chốn vắng cô
liêu ấy, người ta thông cảm hoàn cảnh bê bối của chàng nghệ sĩ lãng du không
thể tự nuôi sống mình bằng sáng tạo nghệ thuật. Người tình bỏ đi, anh ta bơ vơ
trong chính căn phòng ổ chuột của mình:
mắt em xua gã đàn ông
tôi khỏi bậc thềm
tay em xô thằng nghệ
sĩ tôi nhào xuống vực
đàn với địch, văn với
vẻ, bày trò
đói rách
tôi ôm đàn khúc xuân
thổi hoang vu chi lạ
gãy canh
cạn đời…
(Khúc xuân thổi hoang vu chi lạ)
Trong cái nhếch nhác
đến tận cùng, người nghệ sĩ nhìn thảm “cỏ non năm mới” như là bức phác thỏa
nghịch lý hoặc khúc biến tấu nhạt nhẽo. Ngay cả ngày tết người ta cũng phải núp
sau mặt nạ để che đi sự thật không mấy tốt đẹp.
Khả năng tự đánh mất
nhân cách của con người bởi những cơn mê sảng là hiện thực. Khi trật tự thế
giới bị đảo ngược, con sâu tượng trưng cho sự tha hóa của nhân tính chẳng khác
gì con sâu trong “Biến dạng” của Franz Kafka. Những cặp phạm trù đối lập trong
mối tương quan hiện sinh thực chất chỉ là những giả thuyết không bền vững. Con
sâu cũng là quán tính, là thứ nhân cách giả tạo trong đời sống cộng sinh. Hình
ảnh lũ kiến vong thân bên ly cà phê úp ngược chính là một dạng thức vật chất
được cách điệu thành thứ tư tưởng bạc nhược:
dòng đời chảy dưới mây
trôi
buồn đôi môi
chú gà trống gáy vỡ
mặt trời
…
ly cà phê đáy cạn
đủ cho lũ kiến vong
thân
khoái lạc khép mình
khói thuốc bạc nhược
này chú sâu
chú vẫn đi tìm nhân
tính đó ư?
Thái độ hoài nghi là
đặc trưng phong cách của “Kinh tuyến đen “. “Bình minh và vết sẹo”
là giấc mơ của một kẻ hoang tưởng. Anh ta mơ thấy bầy quạ xâm chiếm thế giới
loài người. Giấc mơ kéo theo vô số hình ảnh chết chóc trong nghi thức tang lễ
cộng đồng. Ma quỷ và ảo giác biến con người thành những kẻ tâm thần. Những xung
đột gây nên ấn tượng khủng khiếp đến nỗi hằn thành vết sẹo trên bình
minh…
“Chú gà trống gáy
vỡ mặt trời”, đó chính là thông điệp của cuộc sống được trình bày dưới dạng
Hậu hiện đại. “Kinh tuyến đen” là vô hướng, vô định hình, nhưng nội hàm
của nó có giá trị nhận thức trong một tổng thể nghệ thuật giầu tính khám
phá.
Chí Linh, 12 / 10 / 2009- Đặng Văn Sinh
- Chữ in đậm là tên Tập thơ và các bài thơ trong tập
- Chữ in nghiêng là các câu thơ trích
No comments:
Post a Comment