Thân
sinh của Cao Bá Quát là ông đồ Cao Hữu Chiếu - một danh nho tuy không đỗ đạt
gì. Ông hướng con cái vào đường khoa cử với rất nhiều kỳ vọng. Đời Chu có 8 kẻ
sĩ : Bá Đạt - Bá Quát, Trọng Đột - Trọng Hốt; Thúc Dạ - Thúc Hạ, Quý Tuỳ
- Quý Đa. Tám hiền sĩ đời Chu này đều là bốn cặp sinh đôi. Ông chọn hai
tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình: Cao Bá
Đạt, Cao Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những bậc hiền tài giúp nước.
Cao Bá Quát đặt tên tự cho mình là Chu thần (quan nhà Chu) cũng ngụ ý
đó.
Về nhân vật kiệt xuất này trong bộ Giai thoại Kẻ sĩ việt Nam, NXB Văn hoá Dân tộc, Hà Nội 1997, tôi (TDH) đã viết “Cao Bá Quát (1808-1855) là nhà thơ lớn của dân tộc. Anh hùng thời nhà Nguyễn. Tự Chu Thần, hiệu Cúc Đường và Mẫn Hiên. Quê làng Phú Thị, Gia Lâm, xứ Kinh Bắc (nay thuộc Hà Nội). Xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo, thanh liêm. Họ Cao là một cự tộc ở làng Phú Thị, nhiều đời khoa bảng. Anh ruột là Cao Bá Đạt đỗ cử nhân, làm tri huyện Nông Cống, một huyện giàu nhất tỉnh Thanh Hóa. Cao Bá Quát là chú ruột Cao Bá Nhạ, tác giả Trần tình khúc.
Thuở nhỏ, Cao Bá Quát nổi tiêng thần đồng. Năm
1831 (Minh Mệnh thứ 12), ông đỗ á nguyên kỳ thi hương ở Thăng Long, nhưng về sau
bộ duyệt lại đánh xuống cuối bảng. Những năm về sau (1832-1835) hai phen ông
vào Huế thi hội đều bị đánh hỏng vì lời văn phóng đạt, “ngông” không chịu khuôn
phép song tiếng tăm đã lẫy lừng. Từ đó, Cao thường ngao du đó đây, lấy văn
chương phúng thích chính trị làm lẽ sống ở đời. Năm Thiệu Trị thứ nhất (1841),
theo lời đề cử của quan đầu tỉnh Bắc Ninh, ông được cử vào kinh sung chức hành
tẩu bộ lễ. Cao có chân trong Mặc vân Thi xã nổi tiếng của Tùng Thiên
công Miên Thẩm và Tuy Lý công Miên Trinh. Đây là thời kỳ Cao Bá Quát và Phương
Đình Nguyễn Văn Siêu được nổi danh “Thần Siêu, Thánh Quát”.
Năm 1841, nhân một khoa thi hương – ân khoa
của Thiệu Trị, Cao được cử làm sơ khảo kỳ thi Thừa Thiên. Vì mến tài một số sĩ
tử, ông lấy muội đèn chữa quyển của thí sinh phạm húy. Việc bại lộ, Cao bị tra
tấn, suýt bị tội chết, sau phải đi làm lao dịch theo một đoàn thuyền của hoàng
gia đi mua hàng xa xỉ ở Indônêxia. Từ nước ngoài trở về, Cao bị thải về Hà Nội,
sống nhờ vợ bên hồ Trúc Bạch. Năm 1847, ông được triệu vào kinh, đến năm Tự Đức
thứ ba 1850, ông ra làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây), gần như bị đuổi khéo
về Bắc.
Năm 1853, Cao Bá Quát lấy cớ mẹ già, thôi chức
giáo thụ và năm sau !854 làm quân sư cho Lê Duy Cự dấy nghĩa ở Mỹ Lương (Mỹ
Đức, Hoà Bình) chống lại triều đình nhà Nguyễn. Bọn phong kiến gọi là giặc Châu
Chấu. Khởi nghĩa thất bại, Cao hy sinh ngay trong trong trận đánh cuối cùng ở
huyện Yên Sơn. Tự Đức đã tru di ba họ nhà ông 1855 (1).
Cao Bá Quát sáng tác nhiều, cả Hán lẫn Nôm : Tài
tử đa cùng phú, Cao Bá Quát thi tập, Cúc Đường thi thảo, Cao Chu Thần di cảo,
Mẫn Hiên thi tập (4 tập). Tất cả có trên 1.000 bài.
Thơ Cao Bá Quát nổi tiếng hay, tài năng thi
hào được người đương thời và đời sau xem như thần thánh che mờ cả thời
Tiền Hán và Thịnh Đường. Đức độ của người được muôn đời kính trọng, xót thương.
Thương ai bảy nổi ba chìm
tấm lòng phản kháng vẫn còn sáng soi.
(Sóng Hồng)”
*
Trên con đường viễn du Phú Thị - kinh đô Huế,
Cao Bá Quát thường ghé thăm anh trai Cao Bá Đạt làm tri huyện Nông Cống. Tại
huyện đường của ông anh có một viên thư lại là Hoàng Văn Đồng. Ông này có một
người vợ tuyệt thế giai nhân, giỏi thi phú. Người đẹp Mỹ Lệ thường xướng họa
rất tâm đắc với Bá Quát. Một số bài thơ viết về phong cảnh Thanh Hóa như Vịnh
Thanh Hoá Miêu Tử sơn (Vinh núi Con Mèo ở Thanh Hoá), Vọng phu thạch
(Hòn Vọng Phu Thanh Hóa)…còn lại trong di cảo của Cao là ra đời trong hoàn cảnh
đặc biệt này. Ở đây, đã nẩy nở một thiên tình sử giữa danh sĩ với giai nhân.
Mối tình của họ kéo dài 5 năm từ 1848-1853, để lại biết bao huyền thoại. Áng
thơ tình diễm tuyệt dưới đây là của nàng Mỹ Lệ gửi người tình Chu Thần Cao Báo
Quát:
THẤT
THẬP DẠ THỪA NGUYỆT,
TẨU
BÚT KÝ HỮU NHÂN
Thiên cao chúng tinh hy
Minh nguyêt tĩnh như thủy
Tứ tức hậu trùng minh
Sắt sắt kim phong khỉ (khởi)
Đường thượng hữu giai nhân
Ỷ lan sầu bất ngữ
Khởi thị dạ hà kỳ
Bộ bộ hành phục chỉ
Bất ưu trường dạ hàn
Đãn tích nguyệt tương mỹ
Thiếp niên thị bát thời
Doanh doanh chính tương tị (tự)
Trưởng đại ái dư nghiên
Thượng tưởng dung nhan mỹ
Noa y hiệt kỳ quang
Bất nhẫn nhàn phao trí
Tài tác hợp hoan thư
Ký tử tâm trung sị (sự)
Dịch nghĩa :
ĐÊM
MƯỜI BẢY DƯỚI ÁNH TRĂNG
VIẾT
CHẠY BÚT GỬI BẠN
Trời cao, sao lác đác
Trăng sáng trong như nước
Lạnh lùng tiếng sâu mùa kêu
Sàn sạt gió vàng nổi dậy.
Trên nhà có một người đẹp
Ngồi tựa lan can buồn không nói
Bỗng đứng dậy xem đêm đã khuya chưa
Bước một bước lại dừng một bước
Không lo đêm dài lạnh
Chỉ sợ đêm sắp tàn
[Nghĩ lại} khi thiếp tuổi đôi tám
Cũng đầy đặn như trăng
Lớn lên vẫn yêu cái đẹp xưa
Những tưởng giữ mãi được như thế
Kéo áo bọc lấy ánh trăng
Không nỡ dễ dàng bỏ phí
Xén ra thành bức thư hợp hoan
Gửi cho chàng những điều tâm sự.
Dịch thơ :
Trời cao sao lác đác,
Trăng sáng trong như nước,
Sâu mùa kêu tỉ tê,
Gió thu thổi hiu hắt.
Có người đẹp trên lầu,
Tựa lưng buồn nín bặt.
Dậy xem canh mấy rồi,
Dạo quanh lại dừng bước.
Chẳng lo đêm dài lạnh,
Chỉ tiếc trăng hầu khuất.
Thiếp thuở đôi tám xưa,
Vẻ so trăng chẳng khác,
Lớn lên tưởng vẫn còn,
Sắc đắm người như trước.
Túm áo bọc ánh trăng,
Chẳng nỡ hoài bỏ dứt
Xén làm bức thư tình,
Gửi bạn lời tâm phúc !
KHƯƠNG HỮU DỤNG
Tình cảm quá đẹp giữa hai người qua bài thơ
đã thật nặng gánh trần duyên. Năm 1850, điều mà Cao Bá Quát mãi mãi không
thể ngờ tới là đôi tài tử có với nhau cậu con trai Hoàng Văn Khải – theo
khai sinh họ bố chính thống hiện thời. Sau này, khi cả hai ông bố đẻ và bố nuôi
không còn trên thế gian nữa, bà mẹ mới gọi con trai 18 tuổi lại, tiết lộ
bí mật này trước khi cậu đậu cử nhân ân khoa 1868 dưới triều Tự Đức - cùng khoa
với Phan Đình Phùng. Cậu Khải rất đỗi kinh ngạc, đành chấp nhận sự thật kinh
hoàng, không ngờ mình là một giọt máu của bậc kỳ tài nổi loạn, xin đổi khai
sinh lấy chữ Cao ghép vào giữa thành HOÀNG CAO KHẢI !
Hoàng Cao Khải mới đỗ cử nhân, bổ làm
huấn đạo, rồi tri huyện Thọ Xuân (Thanh Hóa). Tuy quan tước ở hàng tam phẩm
nhưng theo năng lực vẫn được Nguyễn Hữu Độ dẫn dắt, tiến cử phong lên làm Tổng
đốc Lạng Sơn, tổng đốc Hải Dương, tổng đốc Bắc Ninh... Với thành tích
đánh dẹp phong trào Cần vương ở Bắc bộ, và giải giáp cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy,
Hoàng Cao Khải đã được Triều đình nhà Nguyễn tấn phong đến chức Khâm sai
Kinh lược sứ Bắc Kỳ (người Pháp gọi là Phó vương - vice), quyền uy nghiêng ngửa
thiên hạ. Cuối đời, ông được triệu về Kinh giữ chức Thượng thư bộ Binh. Nhìn
chung, Hoàng Cao Khải là nhân vật lịch sử công ít tội nhiều.
Dòng họ Hoàng Cao ở làng Đông Thái, Tùng Ảnh,
huyện La Sơn (nay là Đức Thọ) Hà Tĩnh từ ngày có Hoàng Cao Khải (1850-1933) là
nhà văn, nhà sử học, đại thần dưới triều Thành Thái mới khởi đầu một dòng khoa
bảng thật sự với hàng loạt những tên tuổi văn hóa lừng lẫy.
Phải chăng gien di truyền của bậc thiên tài
Cao Bá Quát đã lai tạo biến một dòng họ tầm thường trở thành danh gia vọng tộc
!?
THÁI
DOÃN HIỂU
---------------------
(1) Nhưng
theo dã sử thì lại khác. Cao không chết mà sống ẩn vào dân gian một thời gian
dài. Nhà văn Xuân Cang bảo tôi: “Cao Bá Quát tuổi con rồng, mà lại là rồng đất
trốn trong hang thì có trời bắt được”. Điều Xuân Cang nói ứng với lệnh truy nã
Cao Bá Quát của triều đình nhà Nguyễn vẫn có hiệu lực vào năm 1858 và mãi về
sau.
No comments:
Post a Comment