Kim
Vân Kiều truyện của Trung Quốc được Thanh Tâm Tài Nhân viết
vào đời Thanh; truyện được mang sang nước ta từ lâu và Nguyễn Du đã mượn cốt
truyện mà viết nên Truyện Kiều bằng chữ Nôm. Việc này là bình thường,
nhất là khi tác phẩm viết sau lại nổi tiếng, hơn hẳn gốc ban đầu. Văn chương
thế giới đã có nhiều trường hợp tương tự. Trường hợp thường được nhắc đến nhất
là nhà soạn kịch tài danh của Pháp Corneille đã dùng Las Mocedades del
Cid của Guillen de Castro, người Tây Ban Nha để viết nên tuồng Le Cid
rất nổi tiếng…
Ở nước ta Truyện Kiều được
phổ biến rộng nên Kim Vân Kiều truyện cũng được các dịch giả chú ý dịch
ra quốc ngữ; trước sau có đến khoảng 4, 5 bản dịch khác nhau: có lẽ bản dịch
đầu tiên là của Hùng Sơn Nguyễn Duy Ngung do Phan Bá Cẩn xuất bản năm
1925, Tân Dân tái bản năm 1928, tiếp đến là bản dịch của Nguyễn Đức Vân
và Nguyễn Khắc Hanh do Viện Văn học in ronéo năm 1962, NXB Hải Phòng
tái bản năm 1994 và NXB Đại học Quốc gia Hà Nội năm 1999. Ở miền Nam, có
bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm được Phủ Quốc Vụ Khanh Đặc Trách Văn
Hóa xuất bản năm 1971. Gần đây có Tình sử Vương Thuý Kiều (Phong
Tình Cổ Lục) do Mộng Bình Sơn khảo dịch, NXB Văn học xuất bản năm 2000. Truyện
Kiều đối chiếu của Phạm Đan Quế, NXB Hà Nội xuất bản năm 1991, NXB Hải
Phòng tái bản năm 1999…
GIÁ TRỊ “TRUYỆN KIỀU” HƠN
HẲN “KIM VÂN KIỀU TRUYỆN”
Tuy mượn cốt truyện Kim Vân Kiều
truyện nhưng cách cải biên kì diệu của Nguyễn Du đã biến câu chữ tầm thường
trở nên tác phẩm kiệt xuất, được mọi người yêu thích lại được dịch ra nhiều
ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Nếu xét diễn biến của 2 truyện: từ khi Thúy
Kiều gặp Kim Trọng… trải qua 15 năm lưu lạc cho đến ngày Kim-Kiều tái hợp… cả
gia đình Vương Viên ngoại hạnh phúc đề huề, Kim Trọng, Vương Quan đỗ đạt, vinh
hiển v.v… là tương tự nhau, song sức sáng tạo của Nguyễn Du rất lớn: nhiều tình
tiết rườm rà, dung tục đã được lược bỏ, lại thêm vào nhiều đoạn kể chuyện, tả
cảnh, tả tình ý vị khiến cho truyện trở nên cân đối, hợp lí. Đặc biệt nhất là
tính cách của từng nhân vật trong Truyện Kiều khác nhiều so với Kim
Vân Kiều truyện.
Xin trích sau đây làm ví dụ một
trường hợp thể hiện sự chênh lệch khá rõ nét về trình độ của 2 tác phẩm: đoạn
Thúy Kiều báo oán:
* Xử bọn “bạc ác tinh ma”:
“… Nàng rằng: "Lồng lộng trời
cao!
Hại nhân, nhân hại, sự nào tại ta?
Trước là Bạc Hạnh, Bạc bà,
Bên là Ưng, Khuyển, bên là Sở Khanh.
Tú bà cùng Mã Giám sinh,
Các tên tội ấy đáng tình còn sao?
"
Lệnh quân truyền xuống nội đao,
Thề sao, thì lại cứ sao gia hình.
Máu rơi, thịt nát, tan tành,
Ai ai trông thấy hồn kinh, phách
rời.
Cho hay muôn sự tại trời,
Phụ người chẳng bõ khi người phụ ta!
Mấy người bạc ác, tinh ma,
Mình làm, mình chịu, kêu mà ai
thương!
Ba quân đông mặt pháp trường,
Thanh thiên, bạch nhật, rõ ràng cho
coi…”
* Xử Hoạn Thư:
“…Hoạn thư hồn lạc phách xiêu,
Khấu đầu dưới trướng, liệu điều kêu
ca.
Rằng: Tôi chút phận đàn bà,
Ghen tuông, thì cũng người ta thường
tình!
Nghĩ cho khi các viết kinh,
Với khi khỏi cửa, dứt tình chẳng
theo.
Lòng riêng, riêng những kính yêu,
Chồng chung, chưa dễ ai chiều cho
ai!
Trót đà gây việc chông gai,
Còn nhờ lượng bể thương bài nào
chăng.
Khen cho: thật đã nên rằng:
Khôn ngoan đến mực, nói năng phải
lời.
Tha ra thì cũng may đời,
Làm ra thì cũng ra người nhỏ nhen.
Đã lòng tri quá thì nên
Truyền quân lệnh xuống trướng tiền
tha ngay.”
Xem đoạn thơ trích từ Truyện Kiều
của Nguyễn Du tả cảnh báo oán khá nhẹ nhàng ở trên rồi đối chiếu với đoạn
văn xuôi rườm rà và ghê rợn sau đây do Thanh Tâm tài nhân kể trong Kim Vân
Kiều truyện của Trung Quốc:
“…Một tiếng trống vang lên, một
người cầm cờ lam gọi tên từng phạm nhân. Biện Báo (1) dẫn Hoạn
thị, Kế thị (2), Hoạn Ưng, Hoạn Khuyển, Bạc bà vào, tháo gông xiềng cho quỳ
dưới sân.
Phu nhân nói: Bạc bà đẩy người xuống
giếng, Bạc Hạnh bán người lương thiện vào nhà xướng ca. Nay theo đúng lời thề
trước của Bạc Hạnh, lấy dao vằm nát thân thể, rồi cho ngựa ăn, còn Bạc bà thì
đem chặt đầu bêu lên cây. Đao phủ nghe lệnh dạ ran một tiếng, tức thì lôi Bạc
bà ra chặt đầu, còn Bạc Hạnh thì dùng chiếu cỏ bó như bó củi, ngoài quấn dây
thừng thật chặt, rồi hai người giữ, một người cầm dao (3), chặt từ
chân lên đầu thành hơn trăm đoạn. Ghê thay một con người mới đó mà trong giây
lát biến thành một đống thịt như bùn, người coi ai cũng hoảng hồn chết ngất.
Bọn đao phủ vào bẩm đã thi hành xong, phu nhân truyền đem đống thịt trộn lẫn
với cỏ để cho ngựa ăn.
Kế đó, gọi đến Hoạn thị. Hoạn thị
run rẩy, kêu xin phu nhân tha mạng.
Phu nhân rằng: Hoạn tiểu thư, nhà
ngươi có nhiều kế sách và cũng thật nhẫn nại, ngươi lại thích lấy điều ác làm
vui. Vậy nhưng phàm việc gì cũng nên chừa lại một lối, để về sau có thể vui khi
gặp lại. Nay gặp nhau đây, nhất định ngươi chẳng sống được nữa rồi.
Hoạn thị khấu đầu lia lịa thưa rằng:
Phu nhân! tiện thiếp thật đáng muôn chết, chỉ xin phu nhân niệm tình cho ngày
trước lúc viết tờ cung trạng, lúc chép kinh… rồi khi phu nhân bỏ đi, thiếp cũng
chẳng hề tra xét. Thiếp không phải không tôn kính phu nhân mà chẳng qua vì thế
buộc chẳng thể đứng chung, cắt đôi tình yêu chia lòng sủng ái mà xui nên tội
lỗi oan gia, xin phu nhân nghĩ lại mà rộng lòng lượng thứ cho.
Vương phu nhân cúi đầu hồi lâu rồi
nói: Thực ta chỉ muốn ăn thịt, lột da ngươi, để tiêu mối hận hai năm trước.
Nhưng giờ đây, sở dĩ cho ngươi được khỏi tội chết là nhờ lúc ta bỏ đi, ngươi
chẳng đuổi theo, có ý mở lồng thả cho chim bay đi, nhưng còn tội sống thì ngươi
chẳng thể thoát được đâu. Hoạn thị thưa: Thiếp xin nhận tội, chỉ xin Phu
nhân phát lạc nhẹ cho. Phu nhân hỏi: Ngày trước, lúc bắt ta ở Lâm Tri,
thuộc hạ của ngươi là những tên nào? Hãy nói ta nghe, tội ngươi sẽ nhẹ bớt đi.
Hoạn thị thưa: Những kẻ thi hành mưu
kế tuy là Hoạn Khuyển, Hoạn Ưng, nhưng người ra lệnh lại chính là tiện thiếp.
Quân vâng lệnh tướng mà làm. Thật là tội của thiếp; bọn chúng chẳng qua chỉ
biết y lệnh mà thôi. Nếu đem chúng ra gánh tội thay thì thiếp chẳng yên lòng.
Phu nhân rằng: Thế ra ngươi chính là
kẻ dám nhận cả phần oan cừu vào mình đó chăng? Bèn gọi đao phủ đem bọn Hoạn
Ưng, Hoạn Khuyển ra chém bêu đầu để răn bọn hào nô nhà họ Hoạn. Đao phủ dạ ran,
lôi tuột hai tên ra chém đầu; chỉ trong khoảnh khắc đã dâng lên hai đầu lâu đẫm
máu.
Phu nhân lại truyền tả hữu đem Kế
thị ra nọc đánh 30 roi. Quân lính nhất tề ra tay. Hoạn thị ôm chầm lấy mẹ xin
chịu thay hình phạt.
Phu nhân nói: Tội ngươi ta sẽ tính,
còn 30 roi này là của mụ ta, chẳng thể tha được.
Mụ quản gia thấy vậy cũng vội quỳ
xuống xin chịu đòn thay cho chủ mẫu.
Phu nhân nói: Thôi thì ta nể lời,
tha chết cho thị, hãy nhận lấy mà đem đi.
Mụ quản gia tạ ơn rồi đỡ Kế thị ra
ngoài doanh trại. Kế thị năm ấy tuổi đã sáu mươi, thân là nhất phẩm phu nhân,
chưa từng chịu cảnh gió sương nhọc nhằn mà nay bị bắt giải từ huyện Vô Tích
đến, khổ sở vô cùng, lại thấy ba quân giết người như rạ, tuổi đã già lại sợ mất
mật, tức thì lăn ra chết. Mụ quản gia đành ngồi ngoài cửa dinh để trông nom thi
thể.
Vương phu nhân thấy mụ quản gia lãnh
Kế thị đi rồi, bèn truyền lệnh cho cung nữ đem Hoạn Thư ra, lột trần áo xiêm
rồi treo lên đánh một trăm trượng.
Cung nữ dạ ran, túm tóc Hoạn Thư lôi
ra, lột hết áo quần, chỉ chừa lại một cái khố, tóc buộc lên xà nhà. Hai tên
cung nữ mỗi tên túm một tay để lôi giăng ra, trước và sau có hai cung nữ khác
cầm roi ngựa đồng loạt ra tay, một người đánh từ trên đánh xuống, một người
đánh từ dưới đánh lên, đánh như con chạch rơi trên đống tro, con lươn trong vạc
nước nóng, luôn luôn dẫy dụa kêu trời. Toàn thân chẳng còn miếng da nào lành
lặn. Sau khi cung nữ báo cáo đủ một trăm roi, phu nhân truyền lệnh đem Hoạn
thị ra giao cho Thúc Sinh. Quân sĩ dạ ran. Cởi tóc Hoạn Thư mang xuống
thì đã nửa sống nửa chết, mang ra ngoài cho Thúc Sinh nhận lãnh. Thúc Sinh luôn
miệng tạ ơn, nhìn đến Hoạn Thư thấy chỉ còn thoi thóp thì than rằng: Nàng ôi,
chỉ vì thủ đoạn, phương pháp lớn lao của nàng mà nàng mà phải tự cầm dao cắt
thịt của mình… Rồi bèn gọi hai tớ gái là Xuân Hoa , Thu Nguyệt vào đỡ lấy Hoạn
Thư. Thúc Sinh quay vào dinh tạ tội Phu nhân rồi ra ngoài một mặt thu nhặt thi
thể Kế thị, một mặt mang Hoạn Thư về nhà chạy chữa đến nửa năm trời mới khỏi.
Kế đó Sử Chiêu giải bọn Mã Bất Tiến (Mã Giám sinh), Mụ Tú, Sở Khanh vào
dinh.
Phu nhân hỏi: Mụ Tú, mi có nhận được
ta là ai không?
Mụ Tú đáp: Thưa bà, con hát hèn mọn
này không nhận ra !
Phu nhân thét bảo: Mi hãy ngẩng đầu
lên nhìn xem ta là ai?
Quân sĩ nạt lớn một tiếng, túm tóc
mụ kéo lật về phía sau. Bấy giờ mụ mới nhận rõ là Vương Thúy Kiều, thì luôn
miệng kêu rằng: Tội của kẻ hèn này thật đáng muôn lần chết chém. Chỉ xin phu
nhân thương cho phần nào.
Phu nhân cười bảo: Lúc này mà mi còn
mơ tưởng đến sự sống sao? Lời thề trước ngọn đèn trời ngày xưa hỏi đã tiêu tan
thế nào được? Bèn lệnh cho quân sĩ, lôi mụ Tú ra, lấy dầu bách tưới đẫm
vào người, rồi dựng ngược cho đầu xuống đất, chân chổng lên trời, như ngọn đèn
trời để làm tròn lời thề ngày trước. Còn tên Mã Bất Tiến thì kẹp chân tay vào
mảnh gỗ cho thẳng căng ra, rồi rạch da và moi gân khiến cho tứ chi rời rạc, để
ứng lời thề của nó. Lại nấu một nồi tùng hương trộn lẫn với vỏ cây gai, đun
thật sôi và lấy chum nước lớn để bên, đem Sở Khanh ra, lột hết áo xiêm, một
người thì múc dầu tùng hương đun sôi tưới vào mình hắn, một người thì lấy nước
lạnh dội theo.Quân sĩ được lệnh lôi ba phạm nhân ra ngoài. Trong chốc lát, mụ
Tú đã cuốn thành một cây sáp lớn, phía dưới chỉ lộ cái đầu. Mã Bất Tiến thì bị
căng xác. Sở Khanh hóa thành một thỏi sắt nguội.
Đoạn rồi phu nhân hô to: “Đốt sáp”,
quân sĩ đứng lên cao châm lửa vào chân mụ Tú. Mụ mới bị châm một mồi lửa đã kêu
đau ầm ĩ. Phu nhân mắng rằng: Mi cũng biết đau ư? Cớ sao ngày trước mi nỡ lòng
hủy hoại da thịt người khác? Mụ Tú chết ngất, không trả lời được nữa.
Kế đến Phu nhân hạ lệnh rút gân, xẻ
thịt Mã Bất Tiến, lại lệnh cho quân sĩ lột da Sở Khanh.
Nghe lệnh, quân sĩ tìm chỗ chùm gân,
lấy mũi dao nhọn khoét da, rồi dùng lưỡi câu móc vào đầu gân, dùng sức lôi mạnh
một cái. Mã Bất Tiến lập tức chết tươi. Quân sĩ rút thêm ba bốn cái gân nữa làm
cho thi thể Bất Tiến rời ra từng mảnh. Phu nhân bèn sai quẳng xác ra biển cho
cá ăn để đền tội bạc tình.
Còn Sở Khanh bị tẩm dầu tùng hương
và keo vỏ gai, bên trong tuy vẫn còn sống nhưng bên ngoài không cựa quậy được.
Quân sĩ chạy đến bóc miếng vỏ gai nơi đầu ra, thì da đã bị dầu tùng ăn loét ra,
chẳng cần dùng đao kiếm, chỉ tuốt một cái thì lột hết da. Độ nửa giờ sau, thân
thể Sở Khanh chỉ còn trơ lại một cục máu đỏ lòm nhưng vẫn còn thoi thóp. Phu
nhân lại sai đem nước vôi rưới vào, tức thì toàn thân Sở Khanh nổi lên những
cái bọt lớn. Chỉ trong chốc lát đã rữa nát thành mủ máu, rớt thịt trơ xương mà
chết...”(4) .
Người đọc nhận ra hai truyện khác xa
nhau về tài năng xây dựng tính cách, tâm lí nhân vật, nghệ thuật biểu cảm, miêu
tả, tự sự…đồng thời khác xa nhau về ý nghĩa, về tính người trong ứng xử.
Khác hẳn Truyện Kiều của
Nguyễn Du, đọc Kim Vân Kiều truyện của Tàu, người đọc mất hết cả cảm
hứng với một nàng Kiều tài sắc… mà dã man. Đâu đây thấp thoáng hình bóng những
mỹ nhân diễm lệ mà vô cùng tàn ác trong sử sách Trung Quốc: Lã Hậu, Lệ Cơ,
Triệu Phi Yến, Võ Tắc Thiên, Vạn Trân Nhi…
Kim Vân Kiều truyện mang tính cách luận đề với dấu ấn của tư tưởng Phật giáo:
từ việc bố trí các nhân vật, sắp xếp diễn biến, tình tiết, kết cấu truyện… đều
hướng vào mục đích nhằm chứng minh cho đề thuyết: ác giả-ác báo: hễ gieo
nhân xấu thì gặt quả dữ; nghiệp quả chồng chất sẽ phải trả… và trả khi nào cho
hết nghiệp chướng thì mới mong hưởng phúc nhờ vào nhân tốt đã gieo…Vậy mà ở hồi
18, Kim Vân Kiều truyện lại mô tả một nàng Kiều tàn ác đến man rợ. Rõ là
Thanh Tâm tài nhân đã rơi vào mâu thuẫn nội tại - bởi làm sao hợp lí được khi
đến hồi cuối cùng lại bố trí cảnh đoàn viên cho Thúy Kiều, một quả phúc không
dành cho kẻ dữ.
Sự mâu thuẫn, bất hợp lí này là điểm
kém của Kim Vân Kiều truyện. Chỗ này Nguyễn Du đã cải biên, hóa giải
chốt mâu thuẫn thật kì diệu bằng cách để Kiều tha bổng Hoạn Thư.
Trong thơ Nguyễn Du, Kiều
tùng phục lẽ phải, không vì tình riêng mà bỏ qua chân lí. Tính cách nhân vật
lại hoàn toàn nhất quán, hiện rõ là người hiền lành lương thiện mà bị vùi dập
đáng thương…
Quả là tài năng nghệ thuật Nguyễn Du
đáng là bậc thầy của Thanh Tâm tài nhân.
QUAN ĐIỂM CỦA GIÁO SƯ TRUNG QUỐC
ĐỔNG VĂN THÀNH
ĐÁNH GIÁ THẤP TRUYỆN KIỀU CỦA
NGUYỄN DU LÀ KHÔNG KHÁCH QUAN
Sau khi đọc được Kim Vân Kiều
truyện của nước mình tại thư viện Đại Liên năm 1981, GS. Đổng Văn Thành
liền viết bài chiêu tuyết cho Kim Vân Kiều truyện, in trong Minh
Thanh Tiểu Thuyết Giám Thường từ điển (5). Tuy bài viết đã công
nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du là tác phẩm văn học nổi tiếng thế
giới nhưng lại cho rằng Truyện Kiều chẳng qua chỉ là dùng thể thơ lục
bát của Việt Nam để dịch lại một cuốn tiểu thuyết của Trung Quốc mà thôi.
MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM THƯỜNG
TỪ ĐIỂN
Hà Mãn Tử - Lý Thời Nhân
Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã xuất bản năm 1992
Tương tự như trên, trong bài “So
sánh truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” trên “Minh
Thanh tiểu thuyết luận tùng” GS. Thành cũng cho rằng: “Nguyễn Du chẳng
những chỉ mượn đề tài của tiểu thuyết Trung Quốc mà dường như bê nguyên xi […]
Nguyễn Du không có bất kỳ một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá trung
thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm tài nhân...” (6)
Bài viết này nhắc lại lời khen - cho
rằng là của Kim Thánh Thán - đối với Kim Vân Kiều truyện: “…chữ nào
cũng là đá ngũ sắc vá trời cả, công của tác giả chẳng hề kém Nữ Oa”
(7). Đánh giá ghê gớm như thế khiến người đọc tưởng chừng
như truyện này ngang tầm với Hồng Lâu Mộng.
Vậy là một mặt GS. Thành khen ngợi Kim
Vân Kiều truyện nước mình đến tột cùng, một mặt hết lời chê bai Truyện
Kiều Nôm của Nguyễn Du, cho Nguyễn Du là người của giai cấp quan lại Phong
kiến nên cải biên nhiều chỗ làm cho ý nghĩa của truyện bị lệch lạc, làm
che lấp đi tính “đấu tranh giai cấp”… Chẳng hạn so sánh cảnh báo ân
báo oán của Thúy Kiều giữa hai truyện, GS. Thành cho rằng cảnh được tả
trong Kim Vân Kiều truyện tuy có hơi tàn khốc nhưng thể hiện hành vi
chính nghĩa của người nô lệ phản kháng, còn trong Truyện Kiều: nội
dung đấu tranh giai cấp sống động này đã bị ngòi bút Nguyễn Du làm biến dạng,
Nguyễn Du đã nhẹ nhàng bỏ qua không cho Thúy Kiều bắt mẹ Hoạn Thư đồng thời lại
khoan dung, tha bổng Hoạn Thư… và sở dĩ cải biên như thế là có sự đồng
tình với những nhân vật thuộc giai cấp quý tộc là giai cấp xuất thân của mình.
Nguyễn Du đã tìm mọi cách che đậy cho tội áp bức của giai cấp ấy, sửa chữa cuộc
đấu tranh giai cấp nghiêm túc đó thành cuộc tranh chấp thuần túy giữa vợ cả vợ
lẽ ghen tuông với nhau trong gia đình…
Bài viết dài nhưng xem ra là chủ
quan, một là do GS. Thành không biết tiếng Việt, phải đọc Truyện Kiều qua
bản dịch của GS. Hoàng Dật Cầu - bản dịch mà dịch giả chỉ mới dám coi là “bản
dịch sơ bộ” - Quả vậy, gần đây PGS Phạm Tú Châu đã có xem xét đánh giá bản
dịch này, kê ra rất nhiều chỗ GS. Hoàng Dật Cầu dịch sai Truyện Kiều của
Nguyễn Du(8) và cũng vì thế, những đoạn trích Kiều được Đổng
Văn Thành mượn của GS. Hoàng Dật Cầu dùng làm dẫn chứng chỉ là những đoạn văn
vần thô cứng, chẳng còn đâu cái duyên dáng mượt mà của thơ Nôm tiếng Việt; hai
là GS. Thành chỉ nghĩ chuyện giai cấp mà quên mất tính người, khác
hẳn với Nguyễn Du.
TRUYỆN KIỀU VẪN THUẦN TÚY LÀ MỘT TRUYỆN THƠ VIỆT NAM
VỚI CÔNG SÁNG TẠO RẤT LỚN CỦA NGUYỄN
DU
Nguyễn Thạch Giang, Triệu Ngọc Lan,
Lô Úy Thu trong “Một số nhận xét về Kim Vân Kiều truyện với Đoạn trường tân
thanh” đăng trên tạp chí Sông Hương số 2, 1994 đã tính toán tỉ mỉ: Kim
Vân Kiều truyện có tổng số 214 trang. Nguyễn Du đã lược bỏ 142 trang, chỉ
dựa vào 72 trang để viết nên 1.313 câu trong tổng số 3.254 câu của Đoạn
trường tân thanh. Vậy 1.941 câu còn lại là do Nguyễn Du viết.
Trong bài viết gần đây nhất, PGS.
Nguyễn Khắc Phi cũng viết trên Trang điện tử Hội Nhà văn Việt Nam: “…trên
thực tế, Đổng Văn Thành đã coi Truyện Kiều của Nguyễn Du là bản
dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân. Tai hại hơn nữa, do không biết
tiếng Việt, để đánh giá “bản dịch” của Nguyễn Du, để so sánh “bản dịch” ấy với
nguyên tác, Đổng tiên sinh lại hoàn toàn căn cứ vào “bản dịch lại” Truyện Kiều
của Nguyễn Du ra Trung văn hiện đại của GS Hoàng Dật Cầu, một bản dịch mà với
tất cả tâm huyết, công phu, Hoàng giáo sư cũng chỉ mới dám coi là “bản dịch sơ
bộ” và tự đánh giá là “còn những chỗ cực vi diệu, khúc chiết của nguyên thi
đương nhiên chưa có khả năng thực hiện việc truyền đạt như thật được” (9).
Á Phi Văn Học Tùng Thư
KIM VÂN KIỀU TRUYỆN
Bản dịch Truyện Kiều của
Nguyễn Du ra chữ Hán.
GS. Hoàng Dật Cầu - Nhân Dân Văn
Học xuất bản xã xuất bản năm 1959
Thật vậy, một điều hiển nhiên là khó
có người Trung Quốc nào thông thạo tiếng Việt đến mức có thể thưởng thức được
cái vi diệu, độc đáo của câu chữ Việt trong thơ Nôm Nguyễn Du - nên nếu họ có
cho rằng Truyện Kiều chẳng qua chỉ là truyện dịch tiểu thuyết Tàu ra
tiếng Việt thì cũng là điều dễ hiểu bởi vì để cảm nhận đầy đủ ý vị một tác phẩm
văn học của một dân tộc thì ngoài việc thông thạo tiếng nói, chữ viết, người
đọc còn phải thấm được nền văn hóa dân tộc ấy như máu thịt. Đổng Văn Thành phê
phán gay gắt Truyện Kiều Nôm nhưng lại là người Trung Quốc không biết
tiếng Việt thì các phê phán này chưa hẳn đúng, bởi chưa hiểu được nghệ thuật, ý
nghĩa của từng câu, chữ thì sao có thể phê bình cả tác phẩm? Đến đây ta có thể
phủ nhận ý kiến của Đổng Văn Thành và khẳng định: Nguyễn Du không dịch Kim
Vân Kiều truyện ra tiếng Việt mà chỉ dựa vào cốt truyện để viết nên một
truyện thơ mới thuần Việt.
NGUYỄN
CẨM XUYÊN
CHÚ THÍCH:
(1) Biện Báo 卞豹 : một bộ tướng của của Từ Hải. Các bản dịch quốc ngữ của ta
trước đây đã đọc nhầm thành “Hạ Báo” vì hai chữ “biện” 卞 và “hạ” 下chỉ hơn kém nhau một chấm nhỏ ở trên.
(2) Kế thị : mẹ của Hoạn Thư
(Hoạn phu nhân) là vợ của Thiên quan Lại bộ.
Sau khi bị bỏ thuốc mê bắt về nhà mẹ
Hoạn Thư, Kiều đã bị Kế thị cho a hoàn đánh đập tàn nhẫn. Truyện
Kiều của Nguyễn Du tuy có tả việc Hoạn phu nhân trừng phạt Kiều nhưng
lại không kể tên và kể việc Kế thị bị trừng trị trong hồi báo ân oán.
(3) Nguyên tác viết : 一人舉剉 Nhất nhân cử tỏa (Một người cầm “tỏa”). “tỏa”
剉 là một loại dao dùng cắt cỏ chứ
không phải là “cưa” như một số dịch giả trước đây đã dịch.
(4) Trích dịch từ Thanh tâm tài
nhân, Kim Vân Kiều truyện, hồi thứ 18: “Vương Thúy Kiều kiếm tru vô
nghĩa hán; Từ Minh Sơn kim tặng hữu ân nhân” (開放文學, 金雲翹傳
Khai phóng văn học; Kim Vân Kiều truyện - http://open-lit.com).
(5) MINH THANH TIỂU THUYẾT GIÁM
THƯỜNG TỪ ĐIỂN; Hà Mãn Tử - Lý Thời Nhân, Chiết Giang Cổ Tịch xuất bản xã
xuất bản năm 1992
(6) Phạm Tú Châu “So sánh Truyện
Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam”; 200 năm nghiên cứu bàn luận
“Truyện Kiều”, Nxb. Giáo dục, Hà Nội 2005.
(7)Nguyễn Khắc Phi; Mối quan hệ
giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn văn học so sánh,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr.178 – 189.
(8) Phạm Tú Châu; “Sóng gió bất
kỳ từ một bản dịch” ; Tạp chí Văn học nước ngoài, số 5, 1997.
(9) GS-TS.
Nguyễn Khắc Phi ; Truyện Kiều - một tác phẩm Việt Nam;
(http://vanvn.net/news/11/589-truyen-kieu---mot-tac-pham-viet-nam.html
ngày 07.07.2011)
Kiến thức ngày nay số 762, ngày 10/
10/ 2011
gia sư
ReplyDeleteday kem