Thơ ca đời Trần là một nền thơ ca phát
triển, đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành nền thơ ca cổ điển Việt Nam,
nói như Phạm Thế Ngũ thì đây là đỉnh cao thứ nhất của thơ
ca Hán học nước ta. Trong tiến trình văn học trung đại, thơ ca đời Trần có một
vị trí đặc biệt quan trọng. Ngay từ các công trình khảo cứu, của các
nhà nghiên cứu từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX đã có những đánh giá rất cao về nền
thi ca của
giai đoạn này.
Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút đã nhận định "Thơ đời Trần tinh vi trong trẻo, đều có sở trường tột bật cũng như đời Hán, đời Đường bên Trung Hoa" ([i][1]) hay Lê Quý Đôn trong Quần thư khảo biện và Thư kinh diễn nghĩa đã tự hào rằng: "Nước Nam ta, hai triều nhà Lý, nhà Trần ngang vào khoảng triều nhà Tống, nhà Nguyên. Lúc ấy tinh hoa, nhân tài cốt cách văn chương, không khác gì Trung Hoa" ([ii][2]) . Như vậy chúng ta đang tiếp cận với một giai đoạn văn học có nhiều thành tựu. Trong đó mảng thơ thiên nhiên là mảng đề tài có vai trò quan trọng trong việc góp phần khẳng định vị trí đặc biệt của thơ ca đời Trần trong diễn trình văn học cổ điển dân tộc.
1. Thơ thiên nhiên
đời Trần
Thời
trung đại con người sống bằng nông nghiệp là chủ yếu, nên con người dựa vào tự
nhiên, khai thác tự nhiên mà sống. Do đó con người hòa nhập vào thiên nhiên,
xem thiên nhiên với con người là một "Vạn vật nhất thể". Con
người chưa xem mình là một chủ thể đối lập với tự nhiên là khách thể để chiêm
nghiệm, phân tích, lý giải... Như vậy đặc trưng của thế
giới tự nhiên trong cái nhìn của con người trung đại là chúng có tính toàn
vẹn không phân hoá, không tách bạch. Thế nên thơ ca phương Đông rất chú ý đến
hình ảnh của
thiên nhiên và xem đây là một đối tượng thẩm mĩ. Chúng tôi hiểu
"thơ thiên nhiên" là một thể tài độc lập của thơ
ca lấy thiên nhiên làm đối tượng thẩm mĩ chủ yếu, thông qua miêu tả cảnh vật để
bộc lộ tâm tình.
Thiên
nhiên trong thơ ca đời Lý đa phần là những biểu tượng, là phương tiện để nói
lên nội dung triết lý hay cảm quan Thiền đạo. Những hình ảnh thiên nhiên thường
tượng trưng cho những thực tế siêu nhiên, trừu tượng của triết
lý. Thiên nhiên trong thơ ca đời Trần có khác. Đầu đời Trần thiên nhiên còn có
nét biểu hiện triết lý như trong thơ Trần Thái Tông, Tuệ Trung. Nhưng từ giữa đời
Trần về sau, thiên nhiên đã trở thành đối tượng thẩm mĩ đích thực. Càng về cuối
đời Trần, thi nhân tiếp xúc với thiên nhiên ngoại cảnh với nhiều cảm xúc, phong
phú, đa dạng: từ tâm trạng bình lắng trước cảnh thiên nhiên cô tịch, xa vắng, đến
những cảm khái nhẹ nhàng rồi bất mãn với thời cuộc. Thiên nhiên lúc này vừa là
sự rung động của thi nhân biểu lộ cảm quan Thiền học vừa có
cái phóng khoáng của tư tưởng Nho gia và cái nhàn dật của Lão
Trang.
Có
thể nói thơ thiên nhiên đời Trần ảnh hưởng
sâu sắc từ thơ sơn thủy của Trung Quốc, đặc biệt là thơ sơn thủy đời
Đường. Không phải ngẫu nhiên mà Phan Huy Chú đã có hàng loạt những nhận xét thi
phẩm của các
thi nhân trong giai đoạn này trong thế đối sánh với Đường thi: thơ của Trần
Thánh Tông "các bài đều có phong vị
thơ Đường", còn thơ của Trần
Minh Tông thì "lời thơ phần nhiều
hào mại phóng khoáng, có khí phách và cốt cách Đỗ - Lăng" và "thơ tứ tuyệt lại càng hay, không kém
gì thời thịnh Đường" ([iii][3])…
Thi
nhân xưa thường cảm nhận thiên nhiên bằng thính giác và thị giác nên yếu tố nhạc
và họa phát triển "thi trung hữu nhạc",
"thi trung hữu họa". Thiên nhiên trong thơ đời Trần chỉ hiện lên
như những nét phác họa của tranh thủy mặc. Đó là những nét bút chấm
phá giản lược chứ không phải là nét cụ thể, tỉ mỉ. Nó không đáp ứng yêu cầu
phân tích miêu tả nhưng lại gợi khả năng liên tưởng và đặc biệt gợi tình cảm
sâu sắc hơn.
Thiên
nhiên ở đây không hoàn toàn câm lặng nhưng cũng không ồn ã. Đó là những tiếng
chim khuya, tiếng đỗ quyên khắc khoải canh trường, tiếng trùng nỉ non, tiếng
mưa rơi ngoài hiên vắng,…Thi nhân mở lòng đón nhận cái vang vọng của những
âm thanh thiên nhiên vào tận cõi sâu thẳm tâm hồn để cùng đồng điệu, cùng rung
cảm chứ ít khi thấy họ miêu tả cụ thể những âm thanh ấy.
Thi
nhân đời Trần hầu hết đều chịu ảnh hưởng tư tưởng triết học của Nho
- Phật - Lão (Tam giáo đồng nguyên),
thiên nhiên trong cái nhìn của Nho gia quan trọng hơn cả là đức sinh. Sự sống của thiên
nhiên với muôn hình vạn trạng, vạn vật sinh sôi nảy nở: hoa nở, chim kêu, mưa
tưới, cỏ tươi. Nó mang ý nghĩa tuyệt đối trong lành, vô tư, thanh cao, khác với
cuộc sống phàm tục. Các nhà Nho quan niệm Đức lớn nhất của vũ
trụ là đức sinh cho vạn vật, sự sinh hóa hanh thông của vạn
vật là niềm vui lớn nhất của con người. Thiền gia cảm nhận thiên nhiên
bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng Bản thể của vũ
trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng
thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật. Đạo gia tìm thấy thiên
nhiên là nơi di dưỡng tinh thần. Họ có khát vọng muốn hòa nhập vĩnh viễn với
thiên nhiên.
Thơ
thiên nhiên đời Trần tập trung vào thể hiện cảm hứng thế sự, cảm hứng công dân
và cảm hứng Thiền. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn chúng tôi xin bàn sâu vào
một khía cạnh tiêu biểu cảm hứng Thiền trong thơ thiên nhiên đời Trần.
2.
Cảm
hứng Thiền trong thơ thiên nhiên đời Trần
Khác
với thời Lý, những hình ảnh thiên nhiên xuất hiện trong thơ như là những biểu
tượng của lẽ
Thiền, chất lí trí còn đậm. Đến thời Trần thì đa phần trong sáng tác của các
thi nhân, thiền sư, thiên nhiên đã thực sự trở thành đối tượng thẩm mĩ thật sự. Các thi nhân, Thiền sư đã thật sự trải lòng với
cảnh núi cao sông dài, với ánh trăng trên đoá mộc tê, trải tầm mắt với cánh bạch
âu lưng trời, theo đàn cò liệng xuống cánh đồng chiều vãn, rồi ngắm cảnh bướm
xuân phơi phới trên những đóa hoa thắm tươi đầy hương sắc. Con người Thiền sống
giữa thiên nhiên để thấy tâm hồn mình về với Chân Như, với những cảm xúc hồn
nhiên không gợn niềm trần tục.
2.1. Thiền
gia cảm nhận thiên nhiên bằng tâm hồn tĩnh tại, an nhiên, bởi họ cho rằng Bản
thể của vũ
trụ là trống không khi tâm đạt tới độ tĩnh tại tuyệt đối, tâm trong suốt vắng lặng
thì có thể hòa nhập vào bản thể của vũ trụ vạn vật. Thiên nhiên qua cái nhìn của Thiền
gia mặc dù bình dị nhưng lại thấm đẫm hơi hướng mỹ cảm Thiền. Đọc bài thơ Nguyệt của Trần
Nhân Tông chúng ta có thể dể dàng nhận ra điều đó:
Bán song đăng ảnh mãn sàng thư,
Lộ trích thu đình dạ khí hư.
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ,
(Bóng
đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường - Móc rơi trên sân thu, hơi trống không
- Tỉnh giấc tiếng chày nện không còn nghe
thấy - Trên chùm hoa quế, trăng vừa mọc).
Bài
thơ mở đầu bằng không gian hẹp - không gian của đời sống thường nhật từ đó mở rộng ra
không gian vũ trụ. Một đêm thu lặng có thể nghe được tiếng sương rơi. Cái động
nhờ cái tĩnh mà sinh ra. Âm thanh của tiếng sương rơi hẳn là rất nhỏ, không gian
phải rất tĩnh lặng thì mới có thể nghe được. Ngược lại cái động nhờ cái tĩnh mà
hiện hữu, không gian tĩnh mịch vắng lặng được nhận thức bởi tiếng sương rơi
ngoài sân thu. Đây chẳng phải là thủ pháp dựng dậy những mối quan hệ đối lập gợi
liên tưởng được dùng phổ biến trong Đường thi đó sao? Có thể nói không gian của bài
thơ là không gian đặc trưng của thơ Thiền, một không gian bao la, khoáng đạt,
trong trẽo và tĩnh lặng. Tất cả điều đó càng làm tăng cảm giác về sự bao la vô
hạn của không
gian. Đặc biệt là cái cảm giác về sự trống không, hư không. Nó biểu trưng cho
cái "Không" của Thiền. Tâm Thiền là cái trống không, bình
đạm, trong trẻo và lặng lẽ. Đây là không gian được lọc qua con mắt Thiền, là
ngoại cảnh nhưng cũng là tâm cảnh. Ta có thể bắt gặp cái không gian này ở nhiều
câu thơ khác
(Khí
đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ);
-
(Lòng
thẹn với phong cảnh cùng trong trẻo, lạnh lẽo).
-
Khách khứ tăng vô ngữ
(Mưa
tạnh trời một màu biếc
Mặt
ao lặng ánh trăng tỏa hơi mát).
Không
gian của bài
thơ này được bao trùm bởi trạng thái "hư"
trống không - trạng thái tương thông giữa tâm Thiền tĩnh tại an nhiên với
cái trống không của bản thể vũ trụ. Trong bài thơ này thi nhân
- Thiền nhân tỉnh dậy, "thụy",
không phải bởi sự chi phối của những âm thanh thế tục mà đó là cái tỉnh
giấc tự nhiên - sự ngộ lẽ Thiền. Thế nên thi nhân mới cảm nhận được ánh sáng của vầng
trăng ngộ đạo tỏa chiếu trên đóa mộc tê. Bài thơ thể hiện cảm hứng Thiền qua những
hình ảnh thiên nhiên rất đỗi bình dị: trên nền không gian hư tịch ánh trăng nhẹ
đến trên đóa mộc tê - Một chi tiết nhỏ, rất bình thường của đời
sống tự nhiên bổng trở nên huyền diệu, bừng lên ánh sáng của Thiền
cảm.
Trong bài Tảo thu của Thiền
sư Huyền Quang viết :
Trúc đường vong thích hương sơ tận ([viii][8])
(Mái tranh quên bẵng hương vừa tắt).
Ở đây ta có thể khái quát thành mô hình ngữ pháp của câu
thơ:
Câu thơ đã khuyết chủ ngữ (hay nói cách khác đại danh từ
chủ thể trong câu đã bị tỉnh lược) nên khiến cho người đọc có thể có nhiều cách
hiểu. Bởi vì trạng ngữ phía trước đại danh từ cũng là một danh từ "trúc đường". Như vậy nếu hiểu
câu thơ bị tỉnh lược đại danh từ chủ thể thì ta có cấu trúc (1). Còn nếu như
xem "trúc đường" là chủ ngữ thì ta có cấu trúc (2) Chủ ngữ
/ Vị ngữ.
Nói như vậy để cho thấy sự tỉnh lược ở đây đã tạo cho câu
thơ cái tính mơ hồ và đa nghĩa làm cho người đọc không xác định được đây là khoảnh
khắc "quên" của thi
nhân hay của
chính mái tranh ? Chúng ta vẫn biết "trúc
đường" thường biểu trưng cho chốn ẩn dật của Thiền
nhân. Liên hội với những câu thơ trước nó và sau nó, chúng ta chỉ thấy hình ảnh
"trúc đường" là hình ảnh
duy nhất biểu thị sự có mặt của con người trong bức tranh thiên nhiên này.
Nhưng con người đã ẩn đi, đã hòa nhập vào "trúc
đường", hòa nhập vào tạo vật. Như vậy bằng việc tỉnh lược, thi nhân đã
góp phần khắc họa cái tĩnh lặng tuyệt đối của "trúc
đường"- không gian Thiền. Đồng thời cùng với ánh trăng trên cây tùng "nhất nhất tùng chi võng nguyệt
minh" đã thể hiện sự hòa nhập trọn vẹn giữa con người và ngoại vật:
tâm con người tĩnh - cảnh vật tĩnh. Cảnh vật và con người tương thông
với nhau trong khoảnh khắc tâm linh kì diệu.
(Trong rừng
phong ngủ một giấc mát mẻ).
Câu thơ chỉ gồm
một danh từ và một ngữ danh từ hoàn toàn không có động từ để thực hiện chức
năng ngữ pháp. Thế nên câu thơ không có động từ đã tĩnh vật hóa tất cả. Rừng
phong và giấc ngủ của Thiền nhân được cố định trong một trạng
thái tuyệt đối tĩnh lặng nhằm khắc họa không gian đặc trưng của Thiền.
Đồng thời, chúng ta sẽ nhận thấy sự “bao
hàm lẫn nhau” giữa các yếu tố: Rừng phong là không gian lớn dung chứa giấc
ngủ an nhiên, thanh thản, thể hiện sự phá chấp đốn ngộ của Thiền
nhân, môt khoảnh khắc “quên” đầy ý vị của Thiền
học. Cái không gian tĩnh tại lớn bao hàm cái không gian tĩnh tại nhỏ từ đó làm
bật nổi cảm thức: Tâm hồn con người đạt được sự bình lặng tuyệt đối hòa nhập
vào cái không gian hằng thường, hòa nhập vào Bản thể của vũ
trụ. Từ đó mà Thiền nhân đã ngộ được lẽ Chân Như. Như vậy ở câu thơ này, tuy
không có sự tham gia của động từ nhưng bằng sự tương tác của các
yếu tố, thi nhân đã tạo dựng nên một không gian thơ độc đáo đậm đà ý vị Thiền học.
2.2.
Trước thiên
nhiên tươi đẹp, Thiền nhân chỉ "cảm" mà không trực tiếp "giãi
bày" bằng lời. Con người Thiền
thường "vô ngôn" trước
cảnh sắc ngoại giới.
Lời nói hữu hạn không thể nào diễn tả được hết cái biến thiên, cái hằng thường.
Cái Hữu của
lời nói không thể nào chiếm lĩnh cái Vô, cái Không tuyệt đối mang tính
vĩnh hằng
của Bản thể.
Một
trong những đặc trưng thẩm mĩ cơ bản của thơ ca phương Đông là nghệ thuật biểu diễn
cái không lời "Thư bất tận ngôn, ngôn bất tận ý" (Kinh Dịch),"ngôn vô
ngôn" (Đạo đức kinh -
Lão Tử), "Thính hồ vô thanh" (Nam hoa kinh
- Trang Tử). Trong quy luật tâm lý cái không lời, vô ngôn bao giờ cũng dễ tác động
đến chiều sâu tâm thức, cảm xúc con người hơn là cái phô bày, cái có lời. Cho
nên tiếng đàn của người ca kĩ trên bến Tầm Dương đã đạt đến
chỗ vi diệu "Thử thời vô thanh thắng
hữu thanh" (Tỳ bà hành
- Bạch Cư Dị). Ta còn bắt gặp hình ảnh "con
người vô ngôn" trước thiên nhiên trong khá nhiều bài thơ đời Trần. Trần Quang Triều, người sáng lập ra thi xã Bích Động nổi
tiếng, đã từng viết:
Khách khứ tăng vô ngữ,
(Khách
[chỉ ta] ra về, sư ở chùa trầm ngâm không nói - Hoa thông đầy đất ngát mùi
hương).
Cảnh
ấy tình ấy, còn cần gì phải nói nhiều hơn nữa. Vả lại, không gian đang hết sức
trong sáng, yên tĩnh mát mẻ - một sự thanh khiết đến vô cùng vô tận. Trước
không gian tuyệt diệu đó của đất trời con người tự nhiên lọc sạch hết mọi
nghĩ ngợi ưu phiền, tự nhiên quên hết những lời cần tâm sự. Bởi khi chia tay kẻ
ở, người về đều lặng yên. Sự yên lặng càng làm dậy lên mùi hương thông thơm
ngát mặt đất "Tùng hoa mãn địa hương". Bài hơ kết thúc bằng sự
mở ra vô biên một trường giao cảm giữa
con người - cảnh vật trong một mùi hương nhẹ nhàng lan toả - một thông
điệp không lời. Đến đây ta lại nhớ nhiều đến mấy câu thơ của Nguyễn
Trãi:
Nhật
mộ viên thanh cấp,
Sơn
không trúc ảnh đường.
Cá
trung chân hữu ý,
(Chiều hôm tiếng vượn kêu rộn – Núi trống bóng trúc
dài ra – Trong cảnh ấy thực có ý – Ta muốn nói ra bỗng lại quên)
Phật hoàng Trần Nhân Tông đã từng có những trãi
nghiệm với những giây phút "vô
ngôn" trước cảnh sắc tươi đẹp đất trười trong tiết xuân:
Dương
liễu hoa thâm điểu ngữ trì,
Hoa
đường thiềm ảnh mộ vân phi,
Khách lai bất vấn nhân gian sự,
(Xuân Cảnh )
(Sâu trong khóm hoa dương liễu, chim hót chậm rãi - Dưới
bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay - Khách đến chơi không hỏi việc
người đời - Cùng dựa lan can ngắm màu xanh của chân trời).
“Con người vô
ngôn” là hình ảnh nổi bật trong thơ thiên nhiên đời Trần. Các
thi nhân đề cao sự trực cảm, bác bỏ sự suy luận lí trí nên họ xem thường ngôn
ngữ, bởi ngôn ngữ hữu hạn không thể diễn đạt được chân lí vô cùng. Họ chủ
trương con đường duy nhất đạt được chân lí là sự chứng nghiệm của bản
thân chứ không thể thay thế bằng sự học hỏi qua những lời diễn giải, thuyết
minh. Ở bài thơ này ta thấy khách và chủ vốn đều là những “con người vô ngôn”, họ không trò chuyện. Nhưng thực chất họ đã nói
với nhau rất nhiều. Điều đó đã được thể hiện qua hư từ cộng. Cộng lúc này trở thành nhãn tự của cả
bài thơ. Cộng thể hiện sự hoà nhập,
hoà hợp giữa hai tâm hồn với nhau đồng thời giữa hai tâm hồn ấy với thiên nhiên
tạo vật. Cả khách - chủ đều đã đạt được sự đại ngộ bởi khi họ đã cùng bình tâm,
tâm đã tĩnh từ đó mà họ có thể chiêm nghiệm lẽ đời, những “nhân gian sự” từ thiên nhiên ngoại vật.
2.3. Thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền còn bộc lộ cái xao
xuyến của tâm
hồn thi nhân trước cảnh sắc thiên nhiên lung linh, huyền ảo, mơ hồ. Cái đẹp của thiên nhiên được tạo dựng bởi cái mơ hồ giữa
Thực và Hư, giữa Sắc và Không, giữa Hữu và Vô, giữa Động và Tĩnh. Đăng Bảo Đài sơn của Trần
Nhân Tông là một bức tranh thiên nhiên được khắc họa bởi những yếu tố đối lập
đó:
Địa tịch đài
du cổ,
Thời lai xuân vị thâm.
Vân sơn tương viễn
cận,
Hoa kính bán tình âm.
Vạn sự thủy lưu thủy,
Bách niên tâm ngữ tâm.
Ỷ lan hoành ngọc địch,
(Đất
vắng vũ đài thêm cổ kính - Theo thời tiết mưa xuân chưa về lâu - Ngọn núi phủ
mây khi xa khi gần - Con đường hoa nửa sáng nửa tối - Muôn việc như nước trôi
theo nước - Trăm năm lòng nói tới lòng - Đứng tựa lan can cầm ngang ống sáo ngọc
- Trăng sáng rọi đầy cả ngực và bụng)
Về
thời gian, bài thơ có sự đối lập giữa xưa (du
cổ) - nay (thời lai).
Về không gian là đối lập giữa xa (viễn)
- gần (cận), sáng (tình) - tối (âm). Cảnh vật vừa như thực vừa như hư trong không gian cao rộng cô
tịch. Nó tạo cảm giác về sự hiện hữu vô thường của vạn
vật trong cái hằng thường của bản thể vũ trụ, trước bức tranh thiên
nhiên ấy Thiền nhân đã lĩnh hội được chân lý:
Muôn việc như nước trôi theo nước,
Trăm năm lòng nói với lòng.
Từ
chỗ ngộ được chân lý, Thiền nhân đứng lặng lẽ chiêm ngưỡng cảnh vật bằng cái
tâm bình thản được phủ chiếu bởi ánh trăng huyền diệu - Ánh trăng của tâm
linh đã được giác ngộ - đang chiếm lĩnh không gian ngoại cảnh. Như vậy, ở đây
tâm cảnh - ngoại cảnh đã có sự tương thông đồng điệu, hòa nhập. Ta có thể nhận
thấy Thiền quan, Thiền cảm đặc biệt này ở nhiều bài thơ khác:
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
(Thôn
trước, thôn sau, lờ mờ dường như khói phủ - Nửa có, nửa không, trong bóng chiều
hôm)
Đặc
biệt, thơ thiên nhiên đời Trần thường sử dụng Vô - Hữu nhằm để xác lập sự tồn tại. Khi giải thích bản
thể của vũ
trụ, Lão Tử đã sáng tạo ra cặp phạm trù Hữu - Vô và nó đã trở thành cặp phạm
trù cơ bản nhất của lịch sử triết học Trung Quốc cổ đại: "Thiên
hạ vạn vật sinh ư hữu, hữu sinh ư vô"
([xv][15]).
Đồng thời đây cũng là cặp phạm trù trong Thiền học thời Lý - Trần:
Nguyệt
vô sự chiếu nhân vô sự,
(Hạnh Thiên Trường hành cung - Trần Nhân
Tông)
Câu
thơ trên ta nhận thấy, tác giả đã dùng phép lặp (lặp từ vô - hữu),
phép đối liên, tiểu đối để tạo nên sự liên kết cả chiều ngang và chiều dọc mà
có thể xem hai từ vô ở câu trên và hai từ hữu ở hai câu dưới như
là bốn đỉnh của hình vuông liên kết ấy. Bên cạnh đó cùng với
sự tương tác
ngữ nghĩa
của hai từ đối lập hữu - vô đã tạo nên trường liên trường
thú vị: khi con người và thiên nhiên đều ở trong trạng thái tĩnh tại an nhiên:
nguyệt - nhân: vô sự, tâm của con người đã bình lặng, đã cởi bỏ hết những
mê kiến, vọng niệm thì con người sẽ đạt tới sự hòa điệu với bản thể và từ đó sẽ
phát hiện cái đẹp hằng thường của tạo vật, cái đẹp của bản
thể: Trời mùa thu in sắc xuống dòng sông thu. Câu thơ đã thể hiện đặc sắc tinh
thần mỹ học phương Đông: lấy hư diễn thực, cái có phát sinh từ cái không.
2.4. Thiền
nhân trong thời Trần, có những khoảnh khắc "quên". Họ không muốn tìm quên trong tụng niệm mõ
chuông mà tìm quên trong thiên nhiên:
Dạ khí phân lương nhập họa bình,
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh.
Trúc đình vong thích hương sơ tận,
(Khí
đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ - Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu - Dưới
mái tranh quên bẳng hương vừa tắt - Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng
sáng).
Nếu
hơi đêm lạnh, tiếng cây lá thu nhắc nhở mọi người về sự trôi đi không ngừng của thời
gian vô thủy vô chung, thì trạng thái "quên" bẳng nén hương vừa
tắt là một sự hòa nhập trọn vẹn giữa tâm hồn người Thiền và ánh trăng sáng đã
tràn ngập cỏ cây, hoa lá, tạo vật. Trạng thái "quên" này ta
còn thường thấy ở nhiều bài thơ của các Thiền sư núi Yên Tử, các thi nhân của thi
xã Bích Động:
Mộc tê song ngoại thiên cưu tịch,
(Trên
cây quế ngoài cửa sổ, ngàn con chim cưu vắng tiếng - Một chiếc gối trong gió
mát, giấc mộng ban ngày chưa tàn)
Vương thân, vương thế dĩ đô vương (vong),
(Quên
mình, quên đời, quên hết cả - Yên lặng ngồi lâu, lạnh cả giường)
2.5. Thơ
thiên nhiên đời Trần có những vần thơ sự kết hợp giữa những rung cảm cá nhân và
tư tưởng Thiền học. Đó là những lời tâm sự, một nỗi xao động giữa cảnh đời cảnh
đạo, tâm hồn đơn côi và hoang lạnh giữa mịt mờ trời đất rộng lớn. Ý vị Thiền
toát ra từ cảm giác hư không của cuộc đời con người. Tiêu biểu cho đặc
điểm này trong thơ thiên nhiên mang cảm hứng Thiền là phong cách thơ của Huyền
Quang, vị tổ thứ ba của Thiền phái Trúc Lâm. Thơ ca ông có cái "bay bướm, phóng khoáng" ([xx][20]) và thể hiện cái
tôi đầy say đắm trước cảnh sắc thiên nhiên. Đến nỗi có lời dị nghị về ông và Lê
Quý Đôn cũng nhận định: " Tựa hồ chẳng
phải lời nói của nhà tu hành" (Thi tuy giai phi
tăng gia ngữ)([xxi][21]). Tuy nhiên dù gì đi nữa thì cội Thiền
trong ông vẫn còn bền chặt do đó thơ ca của ông dù đậm dù nhạt vẫn phảng phất Thiền vị.
Bài Phiếm
chu là một trong những bài đặc sắc, tiểu biểu cho phong cách thơ của ông:
Tiểu đỉnh thừa phong phiếm diễu mang,
Sơn thanh, thủy lục, hựu thu quang.
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại,
(Chiếc
thuyền theo gió lướt trên mặt nước bát ngát -Non xanh nước biếc lại thêm cảnh sắc
mùa thu - Vài tiếng sáo chài văng vẳng ngoài rặng hoa lau - Trăng rơi vào lòng
sông mặt sông phủ đầy sương)
Bài
thơ là cả một không gian rộng lớn bao trùm, con thuyền như trở nên lẻ loi giữa
cái không gian rộng lớn ấy. Núi xanh nước biếc như đang tô điểm thêm cho sắc
thu, hay nó tạo thành sắc thu? Mấy tiếng sáo chài trong đám lau thưa, là thứ âm
thanh duy nhất đánh động không gian, đánh động vào tâm hồn của cô
nhân. Bài thơ được tạo dựng nên bởi những nét phác họa đặc trưng của cấu
tứ Đường thi. Thoáng đọc ba câu thơ đầu, chúng ta những tưởng đấy là tâm sự của một
thi nhân đang mang niềm trắc ẩn, đau đáu một nỗi niềm. Tuy nhiên đến câu cuối
thì cảm hứng Thiền đã thăng hoa. Nếu mô hình hoá, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy
bài thơ có ba tầng hình ảnh:
Hình
ảnh con người cô đơn đang nằm trong khoảng sương phủ đầy mặt sông phía nửa trên
là không gian lồng lộng trong sáng, nửa dưới là không gian mờ ảo. Sự kết hợp giữa
ánh trăng đáy nước và "sương mãn giang" phủ màu sương tĩnh mịch
hư ảo lên không gian rộng lớn của lòng sông thu. Ta vẫn nhận thấy trong thơ
mang cảm hứng Thiền vì giữa hai yếu tố: hư - thực luôn hòa quyện chuyển hóa lẫn
nhau. Đó là một trong những đặc trưng thẩm mĩ của thơ Thiền.
3. Kết luận
Mãng
thơ thiên nhiên đời Trần đã để lại nhiều
áng thơ vào hàng tuyệt tác trong nền thơ ca cổ điển dân tộc. Đằng sau những bài
thơ ấy là những tâm tình với khát khao hoà nhập vào thiên nhiên, vào cuộc sống.
Đồng thời các thi nhân cũng đã gửi gắm vào đó những chiêm nghiệm về lẽ vô thường của con
người trước cái hằng thường của vũ trụ. Đó là chẳng phải là cái nhìn mang
cảm hứng Thiền, tâm trạng Thiền, ý vị Thiền nhưng cũng thấm đẫm chất thế sự với
những cung bậc tình cảm hết sức phong phú của con người đời thường đó sao?
TRẦM THANH TUẤN
Nguồn: VCV
_____________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí (tập
IV, phần Văn tịch chí), NXB Sử học, Hà Nội, 1961.
2. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý -Trần diện mạo và
đặc điểm, NXB Đại học Quốc gia TPHCM, 2003
3. Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam
từ thế kỉ X -thế kỉ XVII, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1978
4. Trần Lê Sáng (chủ biên), Tổng tập văn học Việt Nam
(tập 2), NXB Khoa Học Xã
Hội, Hà Nội, 1997
5. Đoàn Thị Thu Vân, Khảo sát đặc trưng nghệ thuật thơ thiền Việt Nam từ thế kỉ
thứ X - thế kỉ thứ XIV, Trung tâm nghiên cứu quốc học, NXB Văn học, Hà
Nội, 1996
6. Đoàn Thị Thu Vân, Thơ thiền Lý
-Trần, NXB Văn nghệ TPHCM, 1998
Chú thích
No comments:
Post a Comment