Từ năm 1929 đến năm 1941, trên các
diễn đàn văn học nghệ thuật và báo chí trong cả nước đã liên tục diễn ra những
tranh luận giữa những người thuộc hai trường phái thơ cũ và thơ mới. Hơn 10 năm
trời, những người khởi xướng và ủng hộ thơ mới đã đấu tranh gay gắt với trường
phái thơ cũ. Và, mở ra một thời đại mới cho nền thi ca Việt Nam.
Lúc bấy giờ, Quách Tấn không tham
gia vào cuộc tranh luận giữa hai trường phái thơ cũ và thơ mới. Nhưng, vào năm
1931, Quách Tấn xuất bản tập thơ Đường "Một tấm lòng". Hai năm sau, Quách Tấn cho ra mắt tập thơ
Đường thứ hai "Mùa cổ điển".
Lúc bấy giờ, có người cho rằng Quách Tấn là sứ giả cuối cùng của dòng thơ cũ –
thơ Đường luật. Riêng nhà phê bình văn học Hoài Thanh nhận định: "Thơ Đường như người đàn bà khó chịu
kia, họa chỉ có Quách Tấn. Mối lương duyên từ "Một tấm lòng" đến "Mùa
cổ điển" thì thực là đằm thắm.
"Mùa cổ điển" là một tập thơ cũ rất có giá trị. "Mùa cổ điển" của Quách Tấn
gồm cả cái giàu sang của Thái Can, Leiba, súc tích lại trong một khuôn khổ rắn
chắc..."
Trong tập thơ "Một tấm lòng", Quách Tấn viết những
câu thơ mà nhà thơ Chế Lan Viên cho rằng đáng xếp hạng vào những câu thơ hay
nhất của Việt Nam:
"Lụy nhớ mưa ngàn tuôn nườm nượp
Tóc thề mây núi bạc phơ phơ"
(Đá
vọng phu)
Bài thơ "Đêm thu nghe quạ kêu"
trong tập "Mùa cổ điển" của
Quách Tấn đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người yêu thơ bao đời nay. Nhiều
học giả, nhà nghiên cứu văn học cho rằng: Thơ Đường của Quách Tấn sánh ngang
với các nhà thơ đời Đường, đời Tống của Trung Hoa. Chính thi sĩ Tản Đà đã sắp
Quách Tấn ngang tài với Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến:
"Từ
Ô y hạng rủ rê sang,
Bóng
lẫn đêm thâu tiếng rộn ràng...
Trời
bến Phong Kiều sương thấp thoáng,
Thu
sông Xích Bích nguyệt mơ màng.
Bồn
chồn thương kẻ nương song bạc.
Lạnh
lẽo sầu ai rụng giếng vàng?
Tiếng
dội lưng mây đồng vọng mãi,
Tình
hoang mang gợi tứ hoang mang...
("Mùa cổ điển")
Trong lúc những người bạn thân thiết
của Quách Tấn như Bích Khê, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên từ bỏ thơ cũ, bước sang
lĩnh vực thơ mới. Có người tiếp cận với trường phái thơ tượng trưng của phương
Tây. Quách Tấn vẫn không từ bỏ dòng thơ cũ. Ông tâm sự: "Đối với thơ, tôi không tách biệt
"mới" và "cũ". Tôi chọn lựa thể Đường luật vì thấy thích
hợp với tâm hồn mình. Vì đã lựa chọn con đường đi nên từ năm 1932 đến năm 1941,
mặc dầu phong trào thơ mới sôi nổi, tôi vẫn giữ thể thơ Đường luật".
Quách Tấn tự nhận mình là
"người giữ Đền", giữ "Từ đường, lo hương hỏa dòng tộc". Ông
động viên và cầu chúc các bạn thơ của mình bay đến chân trời mới, gặt hái những
thành công mới trên con đường sáng tạo nghệ thuật thơ ca. Trong suốt cuộc đời
sáng tác, Quách Tấn vẫn thủy chung với dòng thơ cũ. Ông để lại cho đời những
tác phẩm: Về thơ có các tập: Một tấm lòng
(1939), Mùa cổ điển (1941), Động bóng chiều (1965), Mộng Ngân Sơn (1967), Giọt trăng (1973), Mây cổ tháp (1973), Giàn hoa
lý (1979 – chưa xuất bản), Trường
Xuyên thi thoại (chưa xuất bản). Quách Tấn còn dịch các tập thơ: Lữ Đường thi (Năm 2001), Tố Như thi (Năm 1995). Bên cạnh thơ,
Quách Tấn còn viết các tác phẩm bằng văn xuôi gồm: Bước lãng du (1965), Non nước
Bình Định (1968), Xứ trầm hương (1969)
và các tập hồi ký: Cảnh cũ còn đây (chưa
xuất bản), Hồi ký Quách Tấn (2005), Đôi nét về Hàn Mặc Tử (1967), Đôi nét về Đào Tấn (chưa xuất bản), Đời Bích Khê (1971)...
Thơ Quách Tấn ý mới, lời mới, sâu
sắc, tình cảm nồng nàn, mang đậm một tâm hồn phương Đông, tâm hồn Việt Nam.
Trong thơ Quách Tấn, con người và đất trời, cảnh và tình hòa quyện vào nhau như
máu thịt, hơi thở của sự sống đầy thơ mộng:
"Bến
lạ thu bay lá rợp đường
Khôn
tìm giấc mộng ẩn canh sương
Tờ
thơ gió lật trăng bên gối
Giếng
ngọt vườn quê khởi nhớ thương"
(Đọng bóng chiều)
"Sân
hoa phay pháy mưa hoàng cúc
Thuyền
cỏ hiu hiu gió bích đầm
Nâng
chén hương trà pha độc ẩm
Lặng
nhìn thu cảnh ửng thu tâm"
(Đọng bóng chiều)
Và lung linh kỳ ảo cảnh sắc thiên
nhiên:
"Mưa
xửng rừng thêm vắng
Mong
tìm một bóng chim
Gió
rung cành rụng nắng
Bừng
sáng cánh hoa sim"
(Mộng ngân sơn)
Quách Tấn còn viết những câu thơ mà
khi chúng ta đọc xong, nghe rúng động trong hồn. Chúng ta cảm nhận được sự cô
đơn của kiếp người giữa đất trời, giữa thời gian, không gian mênh mông sâu
thẳm:
"Chớp
mắt nghìn thu quạnh
Về đâu chiếc lá bay..."
Thời kỳ về
sau, thơ Quách Tấn mang đậm triết lý và màu sắc Phật giáo:
"Nghìn xưa không còn nữa
Nghìn sau
rồi cũng không
Phảng phất bờ trăng rạng
Hương Ưu đàm trổ bông"
(Thoáng hiện)
Đây cũng
chính là bốn câu thơ khắc trên mộ bia của Quách Tấn sau khi ông qua đời. Nhiều
người đã thấy lòng mình tĩnh lặng, bình an khi đọc những câu thơ trên.
Suốt cuộc
đời Quách Tấn đã sáng tác trên 1500 bài thơ Đường. Ông thật sự là một "người giữ đền" tài hoa. Và, có
những cống hiến lớn đối với lịch sử thi ca Việt Nam. Qua những bài thơ hay,
những câu thơ đẹp của Quách Tấn cho chúng ta nhận ra một điều: Không có thơ cũ
và thơ mới. Chỉ có thơ hay và thơ chưa hay. Những bài thơ sống mãi với thời
gian là những bài thơ được viết bởi những cây bút chân tài và được viết từ
những rung động chân thật tột cùng với ngôn từ đẹp, phong phú, hấp dẫn làm lay
động tâm hồn bao thế hệ người yêu thơ./.
LÊ NGỌC TRÁC
Tài liệu
tham khảo & trích dẫn:
- Một thời đại thi ca (Hoài Thanh – 1941)
- Từ điển tác giả văn hóa Việt Nam (1999)
- Đời Bích Khê (Quách Tấn – 1971)
- Nhà văn hiện đại (Vũ Ngọc Phan – 1972)
- Thi nhân Việt Nam (NXB Văn Học – 2005)
- Quách Tấn - thiên nhiên và quê hương (Nhiều tác giả - 2007)
gia sư
ReplyDeleteday kem