Đề tài chiến tranh đáng lý phải bao gồm tình yêu đất nước, nhưng đề tài tổ
quốc ấy có lẽ nên dành riêng cho một bài khác, vì chiến tranh được nói đến ở
đây gắn liền với chiến thương mà tác giả gánh chịu từ lúc mới 35 tuổi. Bàn chân
trái bị cắt lìa khỏi thân thể do chiến trận là điều Luân Hoán thường kể trong
thơ. Cho nên ta nói thơ chiến tranh của ông gắn liền với chiến thương. Có gì
khác với màu sắc thơ chiến tranh thuộc khuynh hướng không ưa chiến tranh của
một số người? Ta thấy không có gì khác, vì trước khi bị thương thì tác giả đã
không ưa chiến tranh rồi. Tác giả nhấn mạnh lòng yêu chuộng hòa bình hơn là
muốn biểu lộ chủ trương phản chiến có tính cách chính trị:
… cuối cùng rồi cũng xong
vắt mình xuống ổ quân trang vừa tha
về
nghĩ về em
ngủ thiếp
giá trái pháo kích rơi đúng chỗ nằm
đời đã đỡ ngang dọc.
(Trích: Bài học vỡ lòng ở trường
Bộ Binh Thủ Đức)
Coi tình yêu trai gái đáng lưu tâm
hơn việc phải đối phó với lửa đạn, ta nghĩ tác giả hơi cường điệu để biểu lộ
nỗi bất mãn không được sống ở thời bình yên. Bất mãn sự quấy nhiễu thời cuộc,
vậy không hẳn do chủ trương phản chiến, mà chỉ là thái độ không ưa chiến tranh.
Không ưa mà phải tuân lệnh là không quyết liệt chống đối. Tác giả nói súng đạn
địch không kiêng giờ tác giả đang nghĩ đến người yêu, làm mất bình yên tư lự:
… chiều ngày thứ tư ngồi dựa ngửa
bên con đường sắt ở Nghĩa Hưng
trùng trùng lửa đạn từ âm phủ
ta chợt hết hồn chợt nổi xung
địch phá đám ta không kiêng nể
cái giờ tịnh khẩu nghĩ về em
cuồng tay rút súng phơ bờ bụi
phơ cả đất trời đang muốn quên.
(Trích bài: Đệ nhất thiêng liêng
là giờ nhớ em)
Tác giả rút súng bắn vu vơ vào bờ
bụi cho hả giận thời thế, có khi cho hả giận nỗi bất hạnh của đồng đội chết
trận; và có khi cho vơi niềm đau xót súng đạn vô tình giáng xuống một người
thay cho mình được về phép. Kẻ gây ra đau thương chiến tranh mang tên là Thời
Thế, là Định Mệnh. Những người từng lâm trận, từng chứng kiến may rủi của chết
chóc, nhiều phen hóa ra khinh bạc, nhiều nữa thì hóa ra chai lì. Đôi khi nhà
thơ Luân Hoán đã có được tính khinh bạc này. Ta không biết nên dùng những từ
ngữ “có được tính khinh bạc” hay “biến thành khinh bạc”;
biến thành do thụ động biến đổi tính tình, còn“có được” do ý thức tự rèn luyện.
Cũng như chai lì, do tâm hồn biến tính hay được rèn luyện?:
… từ đồn Đức Hải ta về phép
bạn thế chân ta kích xóm đêm
… đâu có chỗ nào vừa mắc võng
nằm hoài cũng mỏi cái lênh đênh
….bạn mới ngã lưng lim dim mộng
cạc-bin, bảy-chín, lẫn AK
trời xanh thăm thẳm hồn nhiên quá
phận số dành riêng mỗi chúng ta?
… ta trở lại đồn qua xóm cũ
rút colt bắn lẫy cái lu sành
nước tràn, lu vỡ, trời ta khóc
bóng bạn chập chờn đóm lệ xanh
… Nam ơi, Đức Phổ trưa nay vắng
biển lặng ngồi không, xót phận mày
ngày mai nhổ trại lùng Đức Phụng
đến lượt ta, hay đứa nào đây?
(Trích bài: Bàn giao cho bạn
địa-bàn. Bàn giao cho bạn nghĩa-trang vô tình)
Đề tài chiến tranh bao gồm đề tài
chiến thương, riêng với nhà thơ Luân Hoán. Trong thơ, thi sĩ có nhắc khá nhiều
lần về điều này, có khi nó mang đến điều mặc cảm làm đời vô dụng đối với gia
đình, có khi mừng nó là khúc rẽ để được cắt đứt cuộc tình-ngã-ba (sẽ bàn đến
sau trong phần thơ tình và tình gia đình). Có một bài thơ tác giả dành trọn vẹn
cho biến cố mất bàn chân trái trong chiến trận. Điếu văn cho bàn chân trái, bạn
hiền bàn chân gỗ, bia mộ cho bàn chân, cái chân một thuở đánh rơi, bàn chân
tuyệt tình, tất cả là những từ ngữ đặc biệt đó tác giả ưu ái nói về chiến
thương của mình. Ngôn ngữ đặc biệt ấy rải rác đây đó trong thơ của Luân Hoán.
Ta muốn biết rõ nơi nào nhà thơ gặp nạn; trong trường hợp nào; và một phần thân
thể đó nay ở đâu…, tác giả ghi lại đầy đủ như sau:
… thế rồi tôi lên Núi Vàng
bằng trực thăng giữa chiều loang
cánh đồng
nằm im mà thấy bềnh bồng
nghe như mây đảo vòng vòng trong tim
tỉnh ra sửng sốt giật mình
một đoạn chân đã tuyệt tình bỏ đi
….núi Vàng, cõi đặt mộ bia
Cho bàn chân trái năm kia, mơ hồ
….cái chân một thuở đánh rơi
hình như đang nhớ đến tôi, khóc
thầm…
(Trích bài:Núi Vàng, nghĩa địa
một bàn chân)
(Núi Vàng, nơi có bệnh viện quân đội
Mỹ, ở Đức Phổ, Quảng Ngãi)
Thứ hai là Đề tài Tình Yêu bao
gồm Tình Gia Đình trong văn chương Luân Hoán, thi tứ cũng dồi dào như thơ
với đề tài chiến tranh. Ta có thể kể theo thứ tự tình lúc gặp gỡ thời son trẻ;
tình khi thành vợ chồng; tình ở khúc rẽ ngả ba; tình gia đình hiện tại. Tình
yêu gặp gỡ lúc son trẻ nếu không có đặc điểm riêng thì đều tương tự với ở các
nhà thơ khác. Tác giả như cố tránh trùng hợp nên quy vào điều đặc biệt ngay,
như trường hợp cảm hứng viết nên bài thơ dám theo em đến vùng “xôi đậu” giữa
thời kình địch của hai phe lâm chiến: bài thơ “Theo Em Về Đại Lộc”. Ta không
biết “tình theo em về vùng bất an” đó đã đi đến đâu, nhưng “tình theo em
về quê em” có lẽ đã thành duyên nợ. Có lẽ thôi, vì tác giả cũng không nói rõ
phần chung cuộc như thế nào. Bài thơ tình này cảm động, đại ý nói quê nàng
không có gì rực rỡ nhưng tình của tác giả đối với người yêu làm nó rực rỡ. Cảnh
vật tác giả nói trong thơ tưởng đâu không có gì đáng kể như bụi chuối, con rắn
mối, cỏ gà, đôi chòm mả, ao bèo nước xanh xao… nhưng tất cả chan chứa đầy tình
yêu, và còn hẹn vì nàng mà nhà thơ sẽ đào xới cải tạo đất đai dù chỉ quen với
nghề cầm bút:
… em chỉ ta xem đìa cá nhỏ
đục câm nằm núp bóng hàng keo
chà tre, thanh chõng, vạt giường cũ
chìm nổi xanh xao giữa đám bèo
em chỉ ta xem đôi chòm mả
mấy đời nội ngoại đã nằm đây
xương tàn cốt rụi xanh chân mạ
quấn quít hồn ôm bụi đất này
em chỉ ta xem dòng sông cái
đã buồn từ thuở mới luân lưu
bao nhiêu đò đã thay trên bến
bao kẻ qua sông biết ngậm ngùi?
… quê em có vẻ không giàu lắm
ruộng thấp ruộng cao úng nước phèn
lỏng leo vài tiếng gà cục tác
đời lún dần vào nỗi băn khoăn
yêu em ta nguyện yêu màu lúa
màu mái rạ thâm sì nắng mưa
tay ta tuy đã quen cầm bút
luống chữ hẹn thơm những đường bừa…
(Trích bài: Quê em lộng lẫy quá
bởi vì đã có em)
Thơ tình của Luân Hoán bao gồm tình
trai gái lãng mạn và tình gia đình. Tình lãng mạn dồi dào dĩ nhiên, cũng nhiều
như ở các nhà thơ khác, và tình gia đình trong thơ của ông thêm cảm động ở những đoạn tác giả nghĩ mình
vô dụng với đời phế binh làm nặng gánh cho vợ. Nhưng trong đó có vài điều tác
giả không tiện nói ra làm ta thắc mắc, như tự hào “không bán nốt lương tâm”,
chỉ ban phát đạo lý trong việc “bán chữ nghĩa” mà thôi:
… em không hỏi vì sao ta bỏ cuộc
giữa chợ đời không bán nốt lương tâm
… em không hỏi vì sao ta bất lực
ngồi bó đầu chờ đợi áo cơm em
… rượu đã hết, xin cho ta giọt lệ
giọt mồ hôi, em đổ sáng sang chiều…
(Trích bài: Vết thương)
Nhưng tình gia đình có một lần tác
giả tự thú đã bị mình làm vẩn đục vì đèo bòng thêm một hình bóng khác. Tác giả
lấy ẩn dụ một ngã tư để nói về việc đèo bòng này, cũng như ở Mỹ người ta thường
dùng hình ảnh tình “tam giác tay ba”. Ngã ba (thật ra là ngã tư) trong thơ Luân
Hoán không trừu tượng, vì ngã rẽ làm lạc hướng đó có thật, là một địa điểm ở
vùng Sông Trà tỉnh Quảng Ngãi. Việc xảy ra khi tác giả tham dự một cuộc hành
quân, dĩ nhiên ở thời điểm nhà thơ Luân Hoán chưa mất một bàn chân. Chuyện đã
qua khá lâu trong thời chiến, và chuyện bị tiết lộ rồi cũng mau chóng được giải
quyết xong. Nay tác giả kể lại như một câu truyện vui. Vui vẻ cả làng, vì trái
mìn làm nhà thơ mất đi bàn chân trái, đồng thời làm mất đi mối tình đèo bòng,
vì nàng thiếu nữ lãng mạn yêu thơ yêu người ấy cũng đã xa bay khi hay tin chàng
đã thành phế binh, và người phế binh trở về trong vòng tay của vợ:
… tình chẳng thong dong như dòng
mây trắng
bà xã hay, và em cũng ngộ ra
từng lá thư buồn nhạt nhòa dấu lệ
vợ cũng quay lưng về lại quê nhà
ta bỗng hiện nguyên một thằng thua
cuộc
ngồi mé ngã tư, đứng dựa ngã ba
thơ thẩn bỗng không hơn gì giấy lộn
đắp mặt không xong, phủ lòng xót xa
định mệnh bất ngờ giúp nhau mở lối
trái mìn oan khiên như vị cứu tinh
em chợt vội vàng làm cô dâu mới
vợ đã yên lòng nuôi gã thương binh
… ta phỉnh ai đâu, phỉnh ta đấy chứ
cho đến bây giờ ta vẫn phỉnh ta
nhớ nước sông Trà quay bờ xe nước
lòng đậu hay trôi ngã tư Ba La?
(Trích bài: Đôi mắt ngã tư Ba La)
Ta dễ nhận ra tác giả có những từ
ngữ đùa cợt trong thơ, phải nói là rất dồi dào, những từ ngữ thường có trong
đối thoại của đại chúng, chẳng hạn như: đổ quạu, mập ú, sống nhăn răng, làm hết
hồn, đúng y-bon, rút súng phơ bờ bụi, cái ngắt cái véo, đứng chầu rìa, đêm tối
thui, tỉnh bơ, bà xã, ai dạy em háy nguýt, đếch cần đời… khiến thơ tình của ông
có vẻ đùa cợt. lúc lãng mạn cũng như lúc đau thương. Cả khi không dùng từ ngữ
thuộc về đối thoại đời thường như trên mà thơ tình của Luân Hoán cũng có vẻ cợt
đùa:
… ai cho em về gõ cửa
hồn ta nào phải cõi không
mà em neo tình cư ngụ
sầu ơi gắng nép trong lòng
… ai cho em về tìm bóng
hồn ta nào phải tấm gương
lệ đây ta nhờ em khóc
cho vừa đủ rửa vết thương
yêu em ta nghêu ngao hát
một mình ta dẫm bóng ta
tiếng không lời sao bi đát
nhạc không điệu cũng xót xa
… trắng đêm ta ngồi uống rượu
ly rồi ly nữa nghe em
mừng ta được mời ăn cưới
mừng em… vâng, để mừng em.
(Trích bài: Bài ca của người thất
tình)
Chủ đề thứ ba người viết muốn nói
đến là đề tài siêu hình trong thơ Luân Hoán. Siêu hình ở đây chỉ là
những ý nghĩ về thời gian đời người, về kiếp người có lúc muốn dứt bỏ có lúc
bám níu sự sống. Không phải bàn về thơ siêu thực hay tôn giáo, điều ta ít thấy
biểu lộ trong thơ Luân Hoán. Luân Hoán đôi khi bi quan, đó là do hậu quả của
chiến thương, có những mặc cảm thành phế nhân vô dụng. Lúc bi quan nhất ông mới
59 tuổi, và cũng đã là thời gian ông sống nơi hải ngoại ở Canada. Ta nghĩ không
phải do eo hẹp vật chất, vì Canada là nơi vốn hào sảng về phúc lợi. Bi quan đây
là do cảm thức sự đều đặn chảy trôi của hàng ngày, do mặc cảm phế nhân trong
một thời gian ông cho là đã dài rồi, sẵn sàng đón nhận cái chết. Bây giờ nghĩ
lại chắc nhà thơ thấy 60 mươi năm chưa phải là kỳ hạn của đời người trong những
xứ văn minh như Canada, Nhật Bản hay Hoa Kỳ:
tảng sáng nghe chim hót
xế trưa nhìn mây bay
xẫm chiều gác chân đợi
trừ đời thêm một ngày
không nặng như đá tảng
chẳng nhẹ như lông hồng
thỉnh thoảng nghe gió lọt
qua lòng chút bềnh bồng
có lẽ vào buổi sáng
không chừng vào buổi trưa
biết đâu vào chạng vạng
kết thúc đời dư thừa.
(Trích bài: 59, tôi)
Cảm thức sự nhàm chán trôi chảy của
ngày tháng mà sinh ra yếm thế, đúng là do tâm-sinh-lý hòa quyện vào nhau. Cơ
thể không vận động do thương tích đã tác động lên tâm hồn mà gây sự buồn rầu,
điều này chỉ hiện diện đôi lúc khi thời tiết khó chịu. Còn những khi dễ chịu
như buổi sáng tưng bừng tiếng chim hót hay sẩm chiều chờ đợi người thân trở về
thì nhà thơ lại mong một ngày đừng trôi qua. Rõ ràng nhà thơ cũng như mọi người
trong chúng ta đều ham sống. Ta có thể khẳng định vài cảm nghĩ yếm thế của nhà
thơ Luân Hoán chỉ trong phút chốc nào đó mà thôi. Nhà thơ Luân Hoán từng nói
ông tiếc mỗi ngày trôi qua, thời gian còn lại của đời người thật quý báu cần
duy trì cả mỗi phút giờ. Ta ghi nhận được như vậy, qua bài thơ rất cảm động ông
thương tiếc cái chết của con chim hồng yến nuôi trong nhà, sau vài ngày cố
tranh thủ sự sống cho con chim bị mắc bệnh:
… nhỏ cho mày giọt thuốc
trùm khăn ấm trần lồng
đặt vừa tầm dòng sưởi
mừng mày đứng vững dần
… sáng sớm ta xuống lầu
lòng nhẹ bớt lo âu
khi thấy mày vẫn đứng
dù hơi cúi thấp đầu
… mày chiêm chiếp vài lần
mắt nhìn ta trân trân
có điều gì muốn nói
mà lòng còn bâng khuâng?
… yến ơi mày đã chết
sau đêm dài đợi chờ
nhìn mặt ta lần cuối
rồi lịm vào hư vô
… cuộc sống ta còn lại
quý báu từng phút giờ
mất thêm một bằng hữu
ta đành hành hạ thơ…
(Trích bài: Vĩnh biệt Hồng Yến)
Lần lượt nói vê ba chủ đề “chiến
tranh bao gồm chiến thương – tình yêu bao gồm tình gia đình – siêu hình về kỳ
hạn đời người”, như vậy cũng có phần nào viết về tác giả. Viết về tác giả vốn
là điều người viết bài thực sự muốn tránh, vì việc này đòi hỏi tìm hiểu thấu
đáo các tác phẩm của một người. Tìm hiểu thấu đáo như thế thuộc về khuynh hướng
nghiên cứu hay phê bình. Còn chỉ vì cảm thấy cái hay của môt số bài thơ liên hệ
đến các chủ đề trên, rồi bàn theo suy xét riêng của mình, nghĩa là tự giới hạn
ở vài nhận định mà thôi. Tóm lại, những cảm nghĩ của người viết mong cùng bên
cạnh những nghiên cứu của một số người khác để có một cái nhìn tổng thể về Luân
Hoán, một tác giả với thi ca có những đặc điểm và cũng đã nhiều đóng góp văn
chương./.
(Trích Tạp chí Thư Quán Bản Thảo, số
47, tháng 7 năm 2011)
Walnut, California, tháng 4 năm 2011
TRẦN VĂN NAM
No comments:
Post a Comment