Tản Đà - Thi nhân số 1 của nước Nam trong thế kỷ trước - từng viết “Có văn có
ích có văn chơi”. Với Phùng Cung, nhất định không phải là “văn chơi” rồi; Nhưng
“có ích” tới mức nào thì phải nói rằng cho đến tận hôm nay, chúng ta vẫn có thể
còn chưa thấu nổi? Cũng như thế, vẫn chưa thể thấu nổi giá trị đích thực nơi
các trang văn cùng văn phận của các tác giả trong “tai nạn văn nghệ tập thể”
lớn nhất nền văn học Việt Nam hiện đại: Nhân văn Giai phẩm.
Từ khi truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh ra đời trong báo Nhân Văn số 4, tháng 10/1956, tên tuổi và văn nghiệp – vinh cùng nhục - của Phùng Cung đã khăng khít với nó. Khiến giới độc giả thưởng lãm văn chương cũng như giới chính quyền muốn định hướng văn chương, dường như đều coi Phùng Cung chỉ là con-ngựa-già mà thôi. Điều đó không sai, nhưng hoàn toàn chưa đủ.
Hơn 15 năm qua, ở trong và ngoài
nước, đã có nhiều cố gắng cần thiết trong việc “giải mã hồ sơ” Nhân văn Giai
phẩm. (Mời xem thêm Phụ lục)
Nổi tiếng nhất là một khảo cứu rất
công phu và hệ thống mang tên Vụ Nhân văn Giai phẩm: Một trào lưu dân chủ, một
cuộc cách mạng văn học không thành (viet-studies.info 5/7/2012) của nhà văn Lê
Hoài Nguyên, tức Thái Kế Toại - nguyên đại tá công an đã nghỉ hưu, từng công tác
tại A25 chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa - lần đầu tiên được công bố hàng
loạt trên nhiều trang mạng cá nhân ở Việt Nam từ tháng 8/2010 (trannhuong.com,
nguyentrongtao.org và sau đó trieuxuan.info, bichkhe.org, vanchuongviet.org,
v.v...)
Nhờ thế, tên tuổi Phùng Cung cùng
với thơ, văn của ông cũng được dự phần soi sáng.
Bài tổng thuật này mong có một cái nhìn nhanh, vừa bao quát vừa cụ thể, về các sáng tác văn thơ của Phùng Cung, qua trích dẫn một số bài vở phần lớn từ các tác giả ở ngoài nước, tính đến tháng 1/2008. Nhân dịp lần đầu tiên có cuộc tọa đàm thơ Phùng Cung vào ngày 28/6 vừa qua tại Hà Nội và tập thơ Xem Đêm được in lại (Nxb Hội Nhà văn & Nhã Nam), người viết đã tu chỉnh, cập nhật một số đường dẫn tin, bài quan trọng khác.
Bài tổng thuật này mong có một cái nhìn nhanh, vừa bao quát vừa cụ thể, về các sáng tác văn thơ của Phùng Cung, qua trích dẫn một số bài vở phần lớn từ các tác giả ở ngoài nước, tính đến tháng 1/2008. Nhân dịp lần đầu tiên có cuộc tọa đàm thơ Phùng Cung vào ngày 28/6 vừa qua tại Hà Nội và tập thơ Xem Đêm được in lại (Nxb Hội Nhà văn & Nhã Nam), người viết đã tu chỉnh, cập nhật một số đường dẫn tin, bài quan trọng khác.
I. Con người thời cuộc của Phùng Cung
Trước hết, hãy theo cùng lời kể của anh Phùng Hà Phủ, con trai của nhà thơ Phùng Cung:
“Nhà thơ Phùng Cung sinh ngày 18
tháng 7 năm 1928 (Mậu Thìn) tại Kim Lân, Hồng Châu, Yên Lạc, Vĩnh Yên. Là con
trưởng của một gia đình đông con và giàu có. (…) Khi lên chiến khu, bố tôi (…)
làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố, Phan Khôi,
Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài... cho đến khi hòa bình lập lại (1954)
thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ đô Hà Nội. (…) Ông nội tôi
rất lo lắng vì gia đình sợ đang bị quy là thành phần địa chủ cường hào. (…)
Trong một lần kết hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt
để tiếp tế cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ,
chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ
cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của
cụ, bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự
tiếp xúc với bên ngoài.
Năm 1956 (…) Ông Nguyễn Hữu Đang đến gặp và bảo bố tôi tham gia viết bài. Truyện Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh đăng trên báo Nhân Văn ngay sau đó. (…) Cũng khoảng thời gian này, bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. (…) Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Đó là tháng 5 năm 1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. (…) Nhớ lại theo bố tôi kể ‘khi xảy ra chuyện” (…) cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc ‘đấu tố’. (…) ông Trần Dần là người đứng lên ‘tố’ để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị ‘tố’ là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác (…): Dạ Ký, Chiếc Mũ Lông, Quản Thổi, Kép Nghế...(…) Và đúng sau thời kỳ ‘đổi mới’ này, công an Hà Nội mặc dù vẫn thường xuyên đến thăm hỏi nhưng với tinh thần và thái độ thì cởi mở, xem ra thân thiện hơn trước. (…) Tập thơ Xem Đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông [Nguyễn Hữu] Đang và sự nhiệt tình của ông [Phùng] Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là người viết tựa cho cuốn sách này.”
Năm 1956 (…) Ông Nguyễn Hữu Đang đến gặp và bảo bố tôi tham gia viết bài. Truyện Con Ngựa Già Của Chúa Trịnh đăng trên báo Nhân Văn ngay sau đó. (…) Cũng khoảng thời gian này, bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. (…) Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Đó là tháng 5 năm 1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. (…) Nhớ lại theo bố tôi kể ‘khi xảy ra chuyện” (…) cảm tưởng đau xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc ‘đấu tố’. (…) ông Trần Dần là người đứng lên ‘tố’ để hai ông Lê Đạt và Hoàng Cầm làm chứng dối. Tội chính mà bố tôi bị ‘tố’ là mang lòng hận thù cách mạng sau cái chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và còn viết nhiều chuyện chưa in khác (…): Dạ Ký, Chiếc Mũ Lông, Quản Thổi, Kép Nghế...(…) Và đúng sau thời kỳ ‘đổi mới’ này, công an Hà Nội mặc dù vẫn thường xuyên đến thăm hỏi nhưng với tinh thần và thái độ thì cởi mở, xem ra thân thiện hơn trước. (…) Tập thơ Xem Đêm được in ra có phần cổ vũ, trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông [Nguyễn Hữu] Đang và sự nhiệt tình của ông [Phùng] Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là người viết tựa cho cuốn sách này.”
(Trích lược bài Nhà thơ Phùng Cung,
talawas.org 10/5/2004, trong sách Phùng Cung, truyện và thơ, Nxb Văn Nghệ,
California, 2003)
Phùng Hà Phủ hoàn thành các dòng
trên tại Hà Nội, vào ngày 9/5/1998 trong dịp giỗ đầu cha của mình, và tin giao
cho bác sĩ Lâm Thu Vân ở Montréal vào năm 1999 khi anh tới đó tu nghiệp (Ít lâu
sau, về nước anh đã qua đời!) Hồi năm 2002-2003, chúng tôi cũng có chút cơ
duyên biết đến việc thu thập và biên soạn cuốn sách quý này đã khó nhọc mà kỳ
diệu dường nào! Tập sách có 11 truyện ngắn được Phùng Cung viết trước ngày vào
tù, trong thời kỳ bị đấu tố, và 35 bài thơ được sáng tác trong thời gian tù
ngục.
Nhà văn Lữ, một người bạn cũ của nhà
thơ vì “không muốn anh Phùng Cung bị rơi vào quên lãng”, đã có bài ký Cây cau
của Phùng Cung (talawas.org 11/9/2007):
“Anh bạn tôi nói: ‘Tôi thường lên
mạng đọc sách, cảm thấy dường như người ta đã quên nhà văn Phùng Cung.’ Đã lâu
lắm, tôi không theo dõi văn học, tưởng lòng mình không còn quan tâm đến văn,
thơ nữa. Bây giờ nghe anh bạn nói, thì gương mặt của anh Phùng Cung lại hiện ra
trước mặt. Tôi hiểu, đây không phải là chuyện văn chương, mà là chuyện con
người. Anh Phùng Cung, trong buổi nói chuyện với tôi, mấy tháng trước khi mất,
là một con người cương nghị và đầy lòng nhân hậu. (…) Phải ngồi với anh, nghe
anh kể chuyện tù đày, thì mới hiểu được phần nào hai chữ ‘bỏ qua’ anh vừa dùng.
Anh nói: ‘Tôi sợ tù đày vô cùng.’ (…) Anh xúc động, dừng lại. Rồi đột nhiên anh
ngồi thẳng lên, quắc mắt nhìn về phía trước: ‘Nhưng cần phải nói lại những gì
tôi đã nói năm xưa, tôi sẽ không đắn đo, ngần ngại gì cả!’”
Còn nhà báo Nguyễn Minh Cần đã nói
như sau ở Lời giới thiệu mang tên Những hạt ngọc bày ra ánh sáng (shcd.de) của
cuốn sách trong dịp tái bản năm 2004:
“(…) hồi đó, Phùng Cung đã đóng một
vai thật khiêm tốn: anh chỉ góp vẻn vẹn một truyện ngắn Con Ngựa Già Của Chúa
Trịnh (…) Sách “Phùng Cung, Truyện và Thơ Chưa Hề Xuất Bản”, do Nhà xuất bản
Văn Nghệ ấn hành (…) là một sự kiện lớn đối với nền Văn học Nghệ thuật nước
nhà. Người viết không nói ngoa khi dùng chữ ‘lớn’ để định tính cho sự kiện này.
Vì, trong số tác phẩm chưa hề xuất bản của Phùng Cung sắp ra mắt bạn đọc, có
lắm “hạt ngọc” hiếm thấy trong văn chương đương đại của nước ta..”
II. Thơ Phùng Cung
Được in ở Việt Nam ngay từ năm 1995, Xem Đêm (dcvonline.net 15/5/2005) gồm hơn 200 bài thơ lấy đối tượng thi ca là phong cảnh quê hương tù túng mà đằm thắm và tình cảm của người nông dân mộc mạc mà cao cả. Nhà văn hóa Nguyễn Hữu Đang đã coi Xem Đêm là “tập thơ đáng trân trọng (...) trong đó có những bài đáng coi là kiệt tác”. Được dùng làm Lời giới thiệu cho tập thơ, Con người Phùng Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm (vannghe.free.fr) là một bài phê bình tận tình về phong cách, tận ý về học thuật của Nguyễn Hữu Đang lần đầu tiên cho văn giới thấy rằng, Phùng Cung xứng đáng là một thi sĩ độc đáo và xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại; ngay cả chưa cần đến cái danh Con ngựa già mà thời thế buộc vào ông. Bài này được bạn đọc ở ngoài nước biết đến nhiều; và vẻ như chưa được giới phê bình và dư luận yêu thơ ở Việt Nam chú ý thích đáng?
Với riêng chúng tôi, các bài thơ Bèo,
Gặp thu, Mùa nước mắt, Cua đồng, Ðêm chợt nghe…đều có thể nằm trong tuyển chọn
các bài thơ hay của thi ca Việt Nam.
Bài Bèo nổi tiếng nhất, như “tuyên
ngôn sống” của thi sĩ:
Lênh đênh muôn dặm
nước non
Dạt vào ao cạn
Vẫn còn lênh đênh
Bởi đó là một trong các số mệnh nối
dài từ Nguyễn Du:
Phận bèo bao quản nước sa
Lênh đênh đâu nữa cũng là lênh
đênh.
(Kiều; câu 2019-2020)
Nhà văn Nam Dao, người từng có nhiều
tình văn hữu với các văn sĩ của Nhân văn Giai phẩm, đã viết:
“Lá súng lát mặt ao
đốm ngọc
Con sộp phàm vồ hão
Bóng hoa lay
Lá tre rụng
Nhuộm hoàng hôn đỏ gạch
Tiếng cuốc bèo da diết
Gọi Ngày Mai’
Đố con sộp là con gì? (…) Sộp: Sang,
tỏ ra nhiều tiền và hào phóng. Khách sộp, Vớ được món sộp. Thế thì con sộp là
cái quái gì? Từ điển im như hến. Vậy xin mách, sộp, danh từ, là một loại cá
sống trong ao. Còn phàm. Dễ thôi. Con Mực phàm ăn vồ hão cục xương. Nhà thơ
phàm danh vồ hão những con chữ trống trơn. (…) Đầu tiên, phải nể cái kho chữ
Phùng Cung. Chữ thôn dã, nhưng anh nâng lên thành một vẻ đẹp hồn nhiên, chẳng
khác cái duyên thầm không tô son điểm phấn, mà sao nét cười quanh vành nón cứ
vấn víu lòng ai. (…) Quay lại cấu trúc thơ, dẫu câu có cắt ra 3 hay 4 chữ, ta
vẫn dễ dàng nhận ra gốc gác Đường thi. Nhưng trong thơ Phùng Cung, ngôn ngữ và
hình ảnh thuần ca dao, nâng cái đẹp chân quê lên mức hết sức trang trọng với
mặt ao đốm ngọc, hoàng hôn đỏ gạch. Và không chỉ có cái đẹp hình thức, nhà thơ
đột nhiên để tiếng cuốc bèo da diết gọi Ngày Mai nói thay cho lòng mình, tức là
chuyển đi cái nội dung mà thơ hay văn, bất kể hình thức nào, cũng cần có để
sống còn với thời gian. Anh Cung, tiếng cuốc trong thơ anh chắc cũng đau đáu
cái nỗi đau con quốc quốc của Bà Huyện Thanh Quan.
Nhưng chỗ tụ lửa trong tâm hồn anh,
tôi đồ, vẫn là Ngày Mai anh viết hoa. Và anh vẫy gọi. Da diết gọi. Nhưng Ngày
Mai ở đâu? Và bao giờ, hở anh? (…) Đọc Xem Đêm, tôi nói với anh [Hoàng] Cầm,
tôi chưa hề thấy Phùng Cung mang thù hận vào thơ. Anh buồn và xót xa. Nhưng anh
vẫn nhân hậu. Anh vẫn trong trẻo. Thậm chí độ lượng. Anh Cầm giơ tay xoa mặt,
mắt đờ đẫn nhìn vào khoảng không choãi về phía nơi quá khứ còn nương náu.
‘Nhưng có hoạn nạn’, anh Cầm cao giọng,’ thì Cung nó mới có thơ hay như vậy!’
Anh cười…” Đoạn trên trích từ bài Phùng Cung, Thơ và người (amvc.free.fr) được
viết vào năm 2004 để “Kính viếng Phùng Cung và Phùng Hà Phủ”.
Trong tuyển tập Phùng Cung, Truyện
và Thơ Chưa Hề Xuất Bản có thêm tập thơ Trăng Ngục. Đây là nhận xét của
Nguyễn Minh Cần, cũng trong cuốn sách này:
”Qua tập Trăng Ngục, bạn đọc nghe rõ tiếng khóc da diết của một con tim chan chứa tình yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc lầm than, xót xa trước bi kịch của quê hương. (...) Lời thơ Phùng Cung nhẹ nhàng, thanh thoát, trang nhã, ý nhị, sâu thẳm và giàu hình tượng, với những ngôn từ chắt lọc, sắc cạnh, đặt đúng nơi đúng chỗ, đem lại cho người yêu thơ nỗi xúc động bàng hoàng và nhiều khoái cảm đê mê. Bài Trăng Ngục – mà tác giả dùng làm nhan đề cho tập thơ – chỉ có hai mươi tám chữ, mà vô cùng xúc động. Bài thơ ghi lại một hoạt cảnh nhỏ của cuộc sống trong xà lim chật chội, tối tăm, lạnh lẽo, hôi hám – giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh trăng lọt qua song sắt vào tận ngục thăm nhà thơ, lúc đó đang lơ mơ ngủ, bỗng anh chợt tỉnh và lặng người đi vì xúc động (…) Bài này, theo tôi, đáng coi là một tuyệt tác!
”Qua tập Trăng Ngục, bạn đọc nghe rõ tiếng khóc da diết của một con tim chan chứa tình yêu quê hương, đất nước, yêu dân tộc lầm than, xót xa trước bi kịch của quê hương. (...) Lời thơ Phùng Cung nhẹ nhàng, thanh thoát, trang nhã, ý nhị, sâu thẳm và giàu hình tượng, với những ngôn từ chắt lọc, sắc cạnh, đặt đúng nơi đúng chỗ, đem lại cho người yêu thơ nỗi xúc động bàng hoàng và nhiều khoái cảm đê mê. Bài Trăng Ngục – mà tác giả dùng làm nhan đề cho tập thơ – chỉ có hai mươi tám chữ, mà vô cùng xúc động. Bài thơ ghi lại một hoạt cảnh nhỏ của cuộc sống trong xà lim chật chội, tối tăm, lạnh lẽo, hôi hám – giữa đêm khuya tĩnh mịch, ánh trăng lọt qua song sắt vào tận ngục thăm nhà thơ, lúc đó đang lơ mơ ngủ, bỗng anh chợt tỉnh và lặng người đi vì xúc động (…) Bài này, theo tôi, đáng coi là một tuyệt tác!
‘Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh - sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ.’
Còn có thể nói rất nhiều nữa về thơ
Phùng Cung, nhưng thiết tưởng với chừng ấy cũng đủ để bạn đọc thấy chúng ta
đang có trong tay những di sản quý báu của thi ca nước nhà. Chỉ riêng việc
những vần thơ này được trân quý, bảo trọng còn lại cho đến ngày nay và tới tay
bạn đọc đã là một điều kỳ diệu!”
Ngay từ năm 1996, đăng lần đầu trên
tạp chí Diễn Đàn (Paris), nhà văn Lê Minh Hà đã nhận định trong bài Phùng Cung,
đời người, đời chữ (talawas.org 23/7/2003):
“Trong gối vọng tiếng ru
Lắng tai mới rõ
Tiếng tóc mình chuyển bạc.’
(Ðêm chợt nghe)
Phùng Cung, ở mặt này của hiện thực,
đã đạt tới độ sâu sắc chưa từng thấy trong thơ ca Việt Nam mấy chục năm đổ lại
đây. Thơ ông nói rất giỏi, rất giản dị về cái nghèo, cái lam lũ, cái thanh sạch
và cam chịu cho đến giờ vẫn thống trị nông thôn Việt Nam. Thật khó tìm trong
diện mạo thơ hôm nay những nét thơ này nếu không phải là chỉ có ở một thơ Phùng
Cung. Thơ Phùng Cung là thứ thơ kiệm chữ, phảng phất gợi nhớ Tanca, Haiku của
Nhật. Thơ ấy buộc mỗi chữ phải ở thế thăng hoa. Xem Ðêm đạt tới độ ấy: tứ không
lộ và chữ thì như nhập hồn. (…) Bằng phong cách đoạn tuyệt với nền thơ đương
thời mà vẫn chất chứa cái hồn cốt của thơ Việt Nam muôn thuở, chắc chắn thơ
Phùng Cung sẽ làm thiên hạ tốn không ít giấy mực và thời gian…”
III. Văn Phùng Cung
Thơ Phùng Cung là “người” Phùng Cung. Văn trong truyện ngắn và ký của ông còn hơn thế nữa. Nó quyện chặt đến mức không thể phân biệt đâu là con người cá nhân, đâu là con người trong thời cuộc bi tráng mà văn nghệ sĩ Việt Nam từng trải. Và khác với thơ có những bài tuyệt hay, có không ít bài chưa hay, còn hầu hết truyện ngắn Phùng Cung khá hài hòa, đạt mẫu mực giữa nghệ thuật ngôn từ và nội dung tư tưởng.
Không kể truyện ngắn Con ngựa già
của chúa Trịnh đã trở thành biểu tượng, chúng tôi muốn minh họa ý trên bằng hai
truyện khác: Mộ phách và Ván cờ khai xuân.
Đây là đánh giá của Lữ trong bài đã
dẫn:
“Đối với tôi, truyện hay nhất, tài
tình nhất của nhà văn Phùng Cung (…) là truyện ‘Mộ phách’. Trong truyện này,
anh kể về một người con trai, con của một cặp vợ chồng nghệ sĩ, cố thuyết phục
cha mẹ bỏ hẳn việc đàn phách. Anh nói: ‘Bố mẹ bình tĩnh nghĩ xem, việc làm lạc
hậu ấy, nó kìm hãm bước tiến của con. Có lẽ đâu gia đình của một quân nhân cách
mạng lại như vậy. Bố mẹ vẫn tự cùm mình trong thành phần tiểu tư sản nông thôn.
Con chậm kết nạp Đảng là vì vậy: là vì cây đàn!’ Cuối cùng, vì thương con,
người bố chấp nhận bỏ cây đàn đáy, nhưng không nỡ tự tay mình hủy hoại bảo vật
đại diện cho nghề tổ vẫn thường được đặt trên bàn thờ. Người cha nói: ‘Thôi!
Mày đập đi Thuyên ạ!’ Nhưng khi nghe tiếng cây đàn bị đập nát trước cửa bếp
thì: ‘Ngoài sân, ông Chản bưng tai như nghe sét đánh, liêu xiêu bước ra ngõ –
Bà Chản thoái dạ, ‘Ối!’ lên một tiếng - Trống ngực rộn rã như xẩy chân từ trên
cao xuống, mắt hoa lên, mọi vật trước mắt quay cuồng, bà Chản phải chống hai
tay xuống đất để giữ được thế ‘cóc vái giời’. Bà cố định thần để nhận biết việc
xẩy ra đã xẩy ra. Bà cúi mặt khóc rấm rứt. Nước mắt đứt, nối, kéo dài cả một
quá khứ tiêu tan trong giây lát. (…) Mong rằng những ai xem qua bài này, sẽ tìm
đọc truyện ‘Mộ phách’”.
Nguyễn Minh Cần cũng cho rằng:
”Truyện ngắn ‘Mộ phách’ là một trong
những truyện hay. (...) Cả trong văn chương trào lộng, Phùng Cung cũng tỏ rõ
tài nghệ của anh. (…) Trong các truyện ngắn, văn chương trào phúng của Phùng
Cung thật độc đáo, lắm lúc đề cập đến những đau thương của người dân bằng một
giọng văn châm biếm, ngây ngô, làm người đọc phải vừa cười vừa trào nước mắt.
(…) Đọc Phùng Cung, ta thấy rõ anh là một cây bút có trách nhiệm. Bút pháp của
anh nhẹ nhàng, trôi chảy, nhưng nghiêm túc, giàu hình tượng, với những ngôn từ
sắc cạnh, chắt lọc, cân đo, đặt đúng nơi đúng chỗ, rất đạt.” (Lời giới thiệu
cuốn sách)
Với Ván cờ khai xuân, Lâm Thu Vân đã
viết lời dẫn khi truyện được đăng lại trên báo Văn Nghệ ở Úc châu:
“(…) Phùng Cung phải gói ghém sự chỉ
trích này trong câu chuyện ông Ba Thiềng - người cha gian lận khi đánh cờ với
thằng Văn, đứa con mới lên mười nhưng rất thông minh, nước cờ cao hơn bố. Ông
Thiềng không chịu nhường địa vị độc tôn của mình cho ai vì thế khi bị chiếu bí
và bị lật tẩy mưu mô gian lận, ông thẳng tay dập tắt bằng vũ lực sự bất phục
tùng của kẻ đối thủ nguy hiểm - dù kẻ đó là con đẻ của mình, dù kẻ đó là một
trẻ thơ, hằng ngày phục dịch trà, nước, đèn đóm. Ông không chấp nhận nó nói sự
thật:
‘- Thằng mất dạy này! Thằng khốn
kiếp này! Mày cho là bố mày ăn gian à?
- Còn gì nữa!’
(…) Chẳng những trong truyện Ván cờ
khai xuân, mà trong tất cả những truyện khác của Phùng Cung, chúng ta đều thấy
bút pháp độc đáo của tác giả.”
*
Hy vọng độc giả sẽ hiểu biết thêm về
con người và văn nghiệp Phùng Cung, qua việc trích cuốn sách Phùng Cung, Truyện
và Thơ Chưa Hề Xuất Bản cùng các bài ký của những nhà văn hiểu biết về “vấn đề
Phùng Cung“.
Để nói gọn về nhà thơ, nhà văn Phùng
Cung - một nhân vật của Nhân văn Giai phẩm – có thể qua đánh giá sau của Nguyễn
Minh Cần:
“Văn thơ của Phùng Cung là tiếng nói
của một nghệ sĩ chân chính, đệ tử trung thành của Chân, Thiện, Mỹ. Vì chuộng
cái Chân, Phùng Cung không hề quay mặt trước sự thật (…) Vì trọng cái Thiện,
Phùng Cung đã bộc lộ rõ ràng cái tâm trong sáng của anh, thể hiện lòng yêu
nước, yêu quê, thương dân da diết, lòng nhân ái, tinh thần nhân bản sâu đậm của
anh. Vì quý cái Mỹ, tác giả xót xa trước tình trạng Nghệ thuật Chân chính bị
chà đạp khi sự dối trá và ngu dốt lên ngôi, tác giả đau buồn trước sự vùi dập
thô bạo đối với truyền thống Nghệ thuật của dân tộc. Và ngay trong văn thơ của
mình, tác giả cũng luôn luôn cố gắng tối đa để làm nổi lên cái Đẹp.“ (Sách đã
dẫn)
Mời mỗi chúng ta dùng câu thơ tim óc
của Phùng Cung để thắp nén hương lòng mỗi khi nhớ tới thi sĩ “tài cao phận thấp”
ấy của văn chương và thời cuộc Việt Nam:
“Sứ mệnh thơ ơi!
Trong sáng tuyệt vời!”
1/1/2008 – 2/8/2012
Đỗ Quyên giới thiệu
___________________________
PHỤ LỤC
1. Các đường dẫn tư liệu chính đã nêu trong bài:
- Phùng Cung: “Con Ngựa Già Của Chúa
Trịnh”
- Phùng Cung: “Mộ phách”
- Lê Hoài Nguyên: “Vụ Nhân văn Giai
phẩm, một trào lưu Dân chủ, cuộc cách tân văn học không thành”
- Phùng Hà Phủ: “Nhà thơ Phùng Cung”
- Lữ: “Cây cau của Phùng Cung”
- Nguyễn Minh Cần: “Những hạt ngọc
bày ra ánh sáng”
- Nguyễn Hữu Đang: “Con người Phùng
Cung và những bài thơ hay trong tập Xem Đêm”
- Nam Dao: “Phùng Cung, thơ và
người”
- Lê Minh Hà: “Phùng Cung, đời
người, đời chữ”
- Phùng Quán: “Lời bạt tập thơ Phùng
Cung”
- Thụy Khuê: “Nhân văn Giai phẩm;
Chương 14: Phùng Cung”
2. Một số tin, bài về Phùng Cung với Tọa đàm thơ Phùng Cung 28/6/2012, Trung tâm Văn hóa Pháp L’Espace Hà Nội:
• Thu Hà: Lần đầu tiên tọa đàm
về thơ Phùng Cung; tuoitre.vn 25/6/2012
• Phạm Toàn: Những con chữ hiện
lên từ đáy chén trà; lethieunhon.com 29/6/2012
• Nguyễn Thụy Kha: Nắng trong
thơ Phùng Cung; nhathonguyentrongtao.wordpress.com 27/6/2012
• Thanh Thanh: Phùng Cung: Xem đêm, xem số phận; vov.vn 29/6/2012
• Thanh Thanh: Phùng Cung: Xem đêm, xem số phận; vov.vn 29/6/2012
• Hà An: Tọa đàm thơ Phùng
Cung: Xem đêm giữa ban ngày; evan.vnexpress.net 2/7/2012
• Cao Thâm: Không ai bỏ tù được thơ”; vinacomincaotham.blogtiengviet.net 16/7/2012
• Cao Thâm: Không ai bỏ tù được thơ”; vinacomincaotham.blogtiengviet.net 16/7/2012
3. Hai loại nhận định mới nhất và “có thẩm quyền” về Nhân văn Giai phẩm:
• Lê Hoài Nguyên [Tài liệu đã
dẫn]: “Nhân văn Giai phẩm trước hết là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách
mạng văn học đòi hỏi dân chủ hóa ở miền Bắc Việt Nam năm 1954-1960 có nguồn gốc
và đã xảy ra trong nội bộ Đảng Cộng sản Việt Nam, trong bộ máy Chính phủ Kháng
chiến chống Pháp do Hồ Chí Minh lãnh đạo trong quá trình đi từ chủ nghĩa dân
chủ tư sản đến chủ nghĩa cộng sản hình thái Mao Trạch Đông (1948 – 1954), bùng
phát vào thời điểm đặc biệt 1955-1957 trên các lĩnh vực triết học, tư tưởng,
pháp luật, giáo dục, văn học nghệ thuật, báo chí chủ yếu trên các ấn phẩm báo
Nhân Văn, Sáng Tạo, Trăm Hoa, Tự Do Diễn Đàn, Đất Mới-Chuyện Sinh Viên, Văn...
và các sách dạng tạp chí Giai Phẩm Mùa Xuân, Giai Phẩm Mùa Thu, Giai phẩm Mùa
Đông, Sách Tết, Vũ Trọng Phụng... do khởi xướng hầu hết là số văn nghệ sỹ, trí
thức tài năng, có nhiều công lao trong kháng chiến chống Pháp, trong quân đội,
bị đàn áp và xét xử công khai bằng một vụ án Tổ chức chính trị hoạt động gián
điệp lật đổ chính quyền nhân dân với cái tên Nhân văn Giai phẩm, tiếp theo là
việc xử lý bằng các hình thức trừng phạt nội bộ với hàng trăm giáo sư, thày
giáo, sinh viên, nhà văn, nghệ sỹ điện ảnh sân khấu, nhạc sỹ, họa sỹ, kiến trúc
sư, phóng viên, xuất bản, cán bộ lãnh đạo, nhân viên một số bộ ngành, cơ quan
nhà nước...
(…) Để có thể xem xét vụ Nhân văn Giai phẩm một cách thỏa đáng không bị ràng buộc về khía cạnh vụ án chính trị, tôi chọn cách nhìn nó với tư cách là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học.”
(…) Để có thể xem xét vụ Nhân văn Giai phẩm một cách thỏa đáng không bị ràng buộc về khía cạnh vụ án chính trị, tôi chọn cách nhìn nó với tư cách là một trào lưu tư tưởng, một cuộc cách mạng văn học.”
• Hữu Thỉnh [Về đổi mới văn học
- Đề cương thuyết trình tại khoá tập huấn lý luận, phê bình văn học nghệ thuật;
Hội đồng Lý luận Trung ương, Ninh Bình 10-13/7/2012]:
“Phục hồi sinh hoạt Hội cho một số nhà văn tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm; Phục hồi hội viên: Phan Khôi, Tr¬ương Tửu; Phục hồi sinh hoạt cho các nhà văn bị treo bút và đình chỉ sinh hoạt có hạn định: Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm;
“Phục hồi sinh hoạt Hội cho một số nhà văn tham gia nhóm Nhân văn Giai phẩm; Phục hồi hội viên: Phan Khôi, Tr¬ương Tửu; Phục hồi sinh hoạt cho các nhà văn bị treo bút và đình chỉ sinh hoạt có hạn định: Trần Dần, Lê Đạt, Phùng Quán, Hoàng Cầm;
Cần nói rõ là việc phục hồi sinh
hoạt và trao giải th¬ưởng Nhà nư¬ớc cho một số nhà văn nói trên là căn cứ theo
Điều lệ Hội, chứ không phải là xét lại Vụ Nhân văn Giai phẩm. Vụ Nhân văn Giai
phẩm không phải là ‘Vụ án văn nghệ’ mà là ‘Vụ án chính trị phản động’ theo
thông báo của Ban Bí thư¬ số 250-TB/TW, ngày 11/4/1991. Tại phiên toà xét xử
ngày 19/1/1960 của Toà án nhân dân Hà Nội, trong bản luận tội Tòa án ghi rõ
‘đây là vụ án gián điệp phản cách mạng phá hoại hiện hành’” (tapchinhavan.vn
12/7/2012)
• Lê Quang Trang [Bùi Công
Thuấn – Một cái nhìn toàn diện; Ghi chép về Lớp tập huấn công tác lý luận, phê
bình văn học, nghệ thuật cho 31 tỉnh phía Nam; Hội đồng Lý luận Trung ương,
Đồng Nai 18-21/7/2012]: “(…) đề cập đến các hoạt động của Hội Nhà văn, như phục
hồi cho Phan Khôi, Trần Dần, Lê Đạt, Trương Tửu, Phùng Quán, Hoàng Cầm, xác
định lại Nhân văn Giai phẩm là vụ án chính trị gián điệp mà một số nhà văn có
dính líu. (phongdiep.net 24/7/2012)
No comments:
Post a Comment