Bóng dáng của Vũ Hữu
Định như một con
ngựa hoang, ngày tháng chất chồng trên vó ngược mà chính bản thân chủ nhân cũng
không lường trước được phương hướng để định vị cuộc đời trước mặt. Đã là hóa
thân loài ngựa hoang, sự thuần hóa là điều không tưởng, bước đi nhảy
vọt không hai chắn mắt, vì vậy hướng tương lai như chiếc bóng phù ảo, cứ chạy
đuổi miệt mài trong cái hư không vô cùng tận.
Có lẽ định mệnh quy cách cho một số phận đầy nghiệt ngã, khiến Vũ Hữu Định cứ rong cương cất vó vô định hình trong không gian lưu trú, lãng bạt suốt bề dài tuổi thanh niên. Cũng có lẽ bao nhiêu bất trắc cứ đổ đầy trên số phận nhà thơ, đem tất cả phong trần thế gian phủ chụp cho nát nhàu kiếp số. Long đong và nghiệt ngã bám đầy trên vai áo Vũ Hữu Định không biết bắt đầu từ lúc nào, nhưng khi anh gặp tôi tại Sài Gòn, hình như gió bụi cộng sinh đã là chiếc bóng gắn chặt vào cuộc đời, không tách rời khỏi được số phận và thơ Vũ Hữu Định.
Chan hòa tan nát trong sự vần vũ của vũ trụ, bản thân như hạt cát lẻ
loi giữa sa mạc, cái mất đi còn có hình thể gì đâu mà phải phân trần, nhưng cái
còn lại của
một tâm thức người thơ trụ lại được trong cái an nhiên, thì đó là cái
khó được thử thách thật quyết liệt. Vũ Hữu Định biến hóa sự nghiệt
ngã trở thành
sự tịch tịnh hằng ngày trong hành xử với thế sự và chính
bản thân, như
một đóa sen hồng điềm đạm thanh khiết giữa tứ bề sương khói phủ vây.
Trong đời tôi, giao tiếp thân tình với bằng hữu bốn phương, dĩ nhiên cũng gặp
nhiều khuôn mẫu tuyệt vời trong cuộc sống. Nhiều nhân dáng chuyên chở từ tâm
thức kỳ diệu gần như những đạo vị, được hóa thân tự tại, dù có quay cuồng trong
nghiệt ngã… Vũ Hữu Định là một con ngựa bạch lãng bạt phiêu du dưới những
giọt trăng vàng, đói hớp sương tạo dựng sự sung mãn cho khí thơ, hiện thành bất chợt
luân lưu hòa nhập với từng đoạn đường trường sải vó qua truông.
Thản nhiên bước lên cuộc sống không giây phút bình yên, Vũ
Hữu Định không bao giờ thiếu nụ cười cợt đùa với thế sự chung quanh.
Thoạt đến thoạt di, là phương chăm hành sự khiến có lúc anh em quan tâm chờ đón cũng
không định được phương hướng dừng chân của Vũ Hữu Định. Thật ra, hoàn cảnh bất
hợp lệ khiến đời sống anh có một sự thay đổi lớn, luôn lăng ba vi bộ trước biến động
trên lộ trình. Chính vậy, phần vì tế nhị với bạn bè, phần vì lãng bạt của tính
nghê sĩ, Vũ Hữu Định di chuyển thường xuyên để khỏi phiền hà cho bằng hữu, hơn
nữa sự ra
đi cũng là những bước thơ rơi, giúp nhà thơ hóa hiện nhiều tác phẩm tuyệt cùng.
Trong đời, có lẽ Vũ Hữu Định là một trong
những nhà thơ viết dễ dàng và nhanh chóng trên bất cứ hoàn cảnh nào. Thơ Vũ Hữu
Định bộc phát thật tự nhiên, như hoa phải nở, trăng phải soi và sương phải phủ
mờ vạn vật. Bất chợt trên đường hoạn lộ, nhập tâm vào cuộc lữ hành và khiến thơ
hóa hiện bằng những tinh túy vừa rơi rụng, làm nảy nở từng đóa hoa lung linh
giữa trời đất…
Năm 70 cách đây hơn 40 năm, thời loạn ly giữa bao nhiêu tin
chiến sự làm
cuồng rối cuộc sống của quê hương, anh em văn nghệ cật lực bày tỏ tiếng nói của
tuổi trẻ bằng những tạp san, rải rác hầu hết các tỉnh thành trong cả nước. Mỗi
tờ báo đều có quan điểm riêng, nhưng tụ chung vẫn là mặt trận phản đối chiến
tranh diệt chủng. Sự gặp gỡ tên tuổi hằng ngày trên các báo chí
văn nghệ, đã giúp trong lòng anh em hình thành một sự quen biết
vô hình, nhưng trân trọng nhau một cách chân thành. Đến khi có dịp giáp mặt
thăm viếng, thì đã như mối thâm tình giữa những cố nhân. Vũ Hữu Định lếch thếch
bộ hành qua cây cầu chữ Y dài gần 700m, vào tìm tôi ngay buổi trưa ngày giáng
sinh 1971, nhốt cả hồn thơ trong một vóc dáng thấp đậm người, mà nụ cười là
điểm chính yếu luôn hiện diện trên môi anh.
Phong phanh trong chiếc sơ mi bỏ ngoài, lẹp xẹp đôi dép Lào
bước vào tệ xá. Người mà Vũ Hữu Định gặp đầu tiên là Nguyễn Thành Xuân và
Trương Quang Vinh, lần lượt xưng tên rồi khoác vai nhau kéo vào hàn huyên. Bản
tính Vũ Hữu Định xuề xòa, cởi mở mà sự thong dong của anh hình như thể hiện được
cung cách tự nhiên trong đời sống. Tôi chưa hề nghe Vũ Hữu Định than thở, dù từ
thời gian 1970 – 1974 anh đi – về với tôi tại thư trang Quang Hạnh hầu như
thường xuyên. Mỗi lần xuất xử với chuyện đời, Vũ Hữu Định thường về kể tôi nghe
những diễn biến mà anh lượm nhặt được từ bốn phương trời, quy cũ lại và đưa ra
trò chuyện với nhau.
Những kỷ niệm của nhiều người bạn làm văn nghệ, mỗi người
có cách xử thế riêng biệt, đậm tính khí của tâm hồn mỗi cá thể. Nét tiêu dao
phong thái của một Trần Kiêu Bạt có tính cách giang hồ, đậm
nét lãng bạt Nam bộ và hy sinh như phong thái của Lương Sơn Bạc. Cung cách của một Nguyễn
Bắc Sơn, lại đăm chiêu giữa cái khí cốt phương Đông, gác kiếm ngay trên trận
chiến rượu tàn, mà phá phách chơi ở mọi điếm lữ trần gian. Phạm Nhã Dự thì lãng
đãng trong sương mù của 18 thôn vườn trầu, mọi khí hậu tinh sương đều được nhà
thơ cung hiến hết cho bằng hữu tâm giao, mà đối với anh, mới cũ vẫn tứ hải giai
huynh đệ. Một
Hà Thúc Sinh thì nhẹ hẫng bước phong lưu với đồng điệu, đến nỗi: “
Hà Thúc phu nhân coi buồn lắm/ Sữa thiếu làm sao tiếp rượu chồng”…Hằng hà sa
số bằng hữu văn nghệ, cái tâm của anh em nhiều khi ảnh hưởng cực kỳ với sáng
tác. Hình như tất cả chân thật của cõi lòng, dù ở bất cứ hoàn cảnh phủ chụp
nào, cũng là
một hạnh ngộ để nhào nắn giữa khuôn đời.
Tôi cảm nhận, Vũ Hữu Định có một chút
lãng bạt của Trần Kiêu Bạt, sự tự tin nhẹ nhàng của Hà Thúc Sinh, hòa –
hoa – nghĩa – khí- chân - thành với đời sống như Phạm Nhã Dự, chút nghiêm cẩn
rộng mở cái tâm bát ngát bốn phương như trường hợp Nguyễn Lê La Sơn…Chính vậy,
bôn ba trong cuộc đời đầy hệ lụy, nhưng Vũ Hữu Định vẫn giữ vững được bản sắc
du hành tuyệt diệu cho thơ. Đến đâu thơ cũng tràn ngập trên thần trí, tràn ngập
cả không khí vây quanh. Tôi không hiểu ở thời đại Thiền sư
Basho, khi chống gậy dặm ngàn sương gió, phong vũ có dồn dập ảnh hưởng đến
phong thái ông như thế nào. Mà ngàn bài Hai Ku kỳ diệu lắng động cả thiên thu.
Chỉ có điều hình ảnh của Vũ Hữu Định cũng có dáng dấp lênh đênh, trôi nổi giữa
trần gian, trong cái tâm còn quầy quả xáo trộn vô thường, khác hẳn điều hạnh
phúc an nhiên thiền vị của Basho, trên bước thiền hành.
Thơ Vũ Hữu Định vẫn gieo hoa giữa không gian, đầm đìa cả một trời
nghiệp chướng của nhân sinh, mà những khúc trường ca lỡ vận là một hướng
nhìn tan tác tội nghiệp của kiếp người: “Ta đã hát khúc hát đời lỡ vận/ Hát
âm u trong đêm tối một mình”, mà nhiều lúc tàn canh uống
từng giọt rượu cô đơn để chợt thấm đẫm trách nhiệm cương thường: “Ta đã hát
khúc đời lỡ vận/Khúc hát buồn như một khúc sông con/ Khúc hát cay như những lần
uống rượu/ Khúc hát chua như một đĩa cũ mòn/ Khúc hát đời cha nay đến đời
con”. Chợt nhớ trong bao lần ngẩng bóng để lãng quên, nhưng làm sao được,
ở quê xa vẫn chợt ẩn hiện man mác đến đau lòng: “Mười năm cha mẹ đau chân
sỏi/Sớm lặn truông xa, chiều lội bãi cồn”.
Vũ Hữu Định có một sự cương nghị trong cuộc sống, dù phôi pha có
phủ đầy trên số kiếp nhưng đời thường anh vẫn trầm tĩnh đến độ phớt lờ những
khắc nghiệt đó. Hình như, trong những cuộc giao tiếp, thần thái Vũ Hữu Định hòa
đồng trong nếp sống hồn nhiên của mọi người, nhưng những đêm dài lẻ loi, đầy
vơi ý nghĩ trên chén rượu, làm sao không bừng cháy những ám ảnh riêng tư: “Thời
đại thánh thần đi mất biệt/ Còn lại bơ vơ một giống sầu/ Rót mãi, bao nhiêu tình cũng
cạn/ Nâng ly, nhìn thấy tóc bạc mau”, những câu hỏi thường đặt ra như một cách tự
vấn: “Anh là một gã giang hồ tới/ Lòng hoang như con lộ
không đèn/ Ngồi với hồn sầu ly rượu cạn/ Sao mới vài ly mà đã say?”
Thế là, Vũ Hữu Định lưu vong sống trong Thư trang Quang
Hạnh của tôi, thấm thoát cũng gần 4 năm, bắt đầu từ cuối năm 1971-1974. Thời
gian vật
đổi sao dời, đối với con chim di Vũ Hữu Định như một cái cớ
để xếp cánh tạm lắng trong không gian ân tình. Tôi thường xuyên chở Vũ Hữu Định
trên xe Honda 67, lúc thăm viếng A.Khuê, lúc qua Phạm Duy, hẹn hò Phạm Chu
Sa…Đi xe máy thật ra là một phương tiện để di chuyển nhanh gọn, tránh
cho Vũ Hữu Định những cuộc tra xét bất chợt giữa lộ trình. Năm 1973, có hai
chuyến di chuyển đầy kỷ niệm, khắc sâu thêm tình cảm của Định với đồng bằng
miền Nam, mà anh thường cười nói, nghĩa khí bạt ngàn trên từng cọng lúa. Trưa
hè 1973, tình cờ Phạm Trích Tiên có lời nhắn gởi mời về thị trấn Tân An (Long
An) cách Sài Gòn hơn 50 cây số, mà Phạm Trích Tiên rào đón, ngày cuối tháng
lương bổng dồi dào, để khỏi mất mặt với phương xa. Thật tình tôi ngại đường xa
và túy tửu vô chừng, nhưng Vũ Hữu Định lại phấn khởi, đốc xúi tôi làm một chuyến
di chuyển cho biết một tỉnh lỵ miền Tây gần gũi Sài Gòn nhất.
Chiều ý, tôi cũng đèo Vũ Hữu Định trên chiếc hắc mã 67, về
hội ngộ Phạm Trích Tiên sau gần 6 tháng không gặp mặt. Cái đến thì tự khắc sẽ
đến, sự chờ
đợi của Phạm Trích Tiên cũng được đáp ứng với hiện diện của hai gã phiêu linh.
Tiệc tùng đầy rẫy, rượu tràn khóe môi, tửu phùng tri kỷ, ngàn ly cũng chưa đầy.
Ông Phạm Trích Tiên thì như hủ chìm, ông Vũ Hữu Định thì như rồng gặp nước…thơ
thẩn vun vẫy tứ phương, ca ngâm loạn nhịp nào ai hay ai biết, vì thần trí gởi
cả cho gió ngàn bay. Trong tiệc rượu tới giai đoạn tung khai lý lịch, hai nhà
thơ chợt hét lên ôm chầm nhau trong một phút cảm ngộ tuyệt vời.
Tôi còn ngơ ngác nhìn tìm hiểu, thì Phạm Trích Tiên cho hay
khi nhắc đến gia đình, thì ra Vũ Hữu Định lại là con nuôi của người cô ruột
Phạm Trích Tiên khi anh lưu lạc vào miền Tây khoảng tuổi thiếu niên. Thì ra mọi sự thế đều
được an bày, có tránh được định mệnh đâu, mà phải thở than? Như trên chuyến đò
ngang, kẻ thất phu cũng hiểu rằng giữa dặm trường vẫn còn tiếng gió sương vương
vãi: “Chạnh lòng ngó chuyến đò ngang/ Tiếng kêu sương gió dặm đường quạnh
hiu”.
Bản tính của Vũ Hữu Định là cả vì anh em, nên tôi chưa bao
giờ nghe anh than phiền một ai, dù rằng trong đời sống phiêu lãng anh
cũng gặp nhiều chuyện trái ngang thế thái nhân tình. Nhưng chỉ có một lần duy
nhất, không biết Nguyễn Đức Sơn có thái độ ngang trái gì với chàng thi nhân gió
bụi phong trần này, mà trong đời tôi chưa hề thấy cơn giận dữ nào khiến phủ lấp
đầy vơi trên khuôn mặt luôn luôn nở nụ cười của Vũ Hữu Định.
Ngày 29/07/1973 tại tệ xá, Vũ Hữu Định nghiêm chỉnh bày tỏ
thái độ với Nguyễn Đúc Sơn trên một bức tâm thư, đích danh tranh luận chính
kiến với danh dự của một kẻ sĩ…Tôi cũng không lạ gì tính khí trái
trời của các chàng thi sĩ đầy vẻ độc tôn, để dành giựt ngôi vị bắc đẩu. Một việc
làm nghi kỵ khiến đời sống chao đảo, đưa đẩy vào cái hư vị phù du, mà danh vọng
chỉ làm bận lòng cho thơ. Tình cảnh Vũ Hữu Định trong giai đoạn cùng cực của
nẻo sống, nên chỉ có danh dự là sự tự trọng chân thành. Anh trao tôi
xem bản văn ngỏ với Nguyễn Đức Sơn, khiến tôi cũng buồn lây cho sự thế xáo
trộn, thiện ác huyễn hoặc ẩn hiện giữa lớp người.
Định tâm, tôi khuyên giải Vũ Hữu Định suốt hai ngày ròng
rã, mới lấy được bản văn ngỏ lưu lại với thiên thu. Vũ Hữu Định thản nhiên bỏ
lại những phiền toái sau lưng, lững thững lướt vào gió bụi. Bây giờ, thị phi
không còn đọng trên nếp áo, nhà thơ chỉ biết nghiêng tai lắng nghe trời đất, vạn
vật, để ôm cả buổi chiều rơi rụng vào thơ: “Anh có nghe bên đường tiếng
chim kêu/ Con chim chi buồn chết cả buổi chiều”, hoang vu cô độc nhớ nhung
chất chồng trên cả đường đi lối về, với: “Những con đường núi sâu hun hút/
Những phố đìu hiu không nhớ tên” và :“Thấy gì không giữa bao la?/ Bỗng
nghe tim động nỗi nhà quạnh hiu.”
Bóng dáng khiêm tốn khi đứng vươn vai so bì với thiên địa,
bản chất hạo nhiên lại là chân khí tuyệt diệu của thi nhân. Vũ Hữu Định thản
nhiên trước mọi cuồng rối vây phủ chung quanh. Trong tâm thức chắc chỉ còn cô đọng một khối
oan khiên cho riêng mình, mà nhiều khi số phận đã khiến nhà thơ trải lòng
cảm ngộ với những bóng hình phủ chiếu xuống thân ta: “Chiều khó thở ngồi
bên quán xếp/
Một miếng khô, một xị rượu nồng/ Nhai là nói với đời lận đận/
Uống là nghe sầu cháy long đong……Ta là khách, còn cô hàng là chủ/ Cũng có trong
lòng một hố
sâu.”
Trường đời dàn trải đầy nghịch cảnh gai góc, khiến suốt
quãng đường đi qua của Vũ Hữu Định quay quắt như con vụ cuồng xoay. Cái điêu
linh không thoát thành lời, họa chăng chỉ có thơ gieo từng hạt lân tinh trên
đường phiêu bạt, đã làm cháy xém đi những tang thương chất chồng trên suốt một kiếp
người…
Viết tại Thư trang Quang Hạnh
(Đêm hạ huyền, tháng 7 âm lịch, 2011)
NGÔ NGUYÊN NGHIỄM
No comments:
Post a Comment