Năm sinh đúng của Vũ Hoàng Chương là
1915; nhưng trong khai sinh đề ngày 5/5/1916 tại Nam Định. Và tính theo âm
lịch, ngày 4 tháng 11 năm Ất Mão. Chính quán làng Phù Ửng, tỉnh Hưng Yên. Đậu Tú tài Pháp xong ra làm Sếp ga. Tác phẩm xuất bản từ 1940 đến 1975 trên dưới
20 cuốn, có tác phẩm đã dịch ra Pháp, Anh, Đức ngữ.
Về thơ : Thơ Say ( 1940), Mây ( 1943), Rừng Phong ( Saigon 1954), Hoa Đăng ( Saigon
1959), Tâm tình người đẹp ( thơ viết lối “Nhị thập bát tú” ( Saigon 1961),”
Trời một phương” ( Saigon 1962 ) …
kịch thơ :” Vân Muội” ( 1942),” Trương Chi”, “Hồng Điệp” ( 1944), về văn xuôi:
“Loạn trung bút “( Saigon 1970),” Ta đã làm chi dời ta” ( hồi ký , 1974, tái
bản ,
Nxb Hội Nhà văn / Chi nhánh phía
Nam , Saigon 1993) , dịch
sang Pháp, Anh, Đức.. :” Pòemes choisis “( Saigon 1963, tựa Simone
Kuhnen d la Coeuillerie ), “Nouveaux Poems “( Saigon 1970), “Communions Poems
“( Anh-Mỹ ngữ),” Die achtundzwanzig Sterne “ (Đức ngữ, Nxb Hamburg, 1966).
P.Mérimée, nhà văn Pháp của thế kỷ trước đã gióng tiếng nói
báo hiệu :” Sau đàn bà mới tới văn chương !”. Với Vũ Hoàng Chương, (VHC) hẳn là
một nàng Kiều Thu nào đó đã cùng nhà thơ chia sẻ hận tình, xảy ra vào 12
tháng 6 – hình ảnh lãng đãng nàng thơ
thiếu phụ kia đã ám ảnh tâm linh Vũ Hoàng Chương trọn đời thi sĩ thật đậm nét, đến nỗi VHC phải bật thành thơ:
“
Tháng sáu mười hai từ đây nhé
Chung
đôi từ đấy nhé lìa đôi
Em
xa lạ quá còn đâu phải
Tố
của Hoàng xưa Tố của tôi…”
hoặc
:
“..Kiều
Thu hề Tố em ơi
Ta dương lửa đốt tơi bời mái Tây “.
“Mây”
ra mắt vào 1943, chứng giám mối tình lỡ chàng thi nhân thất tình, khiến chàng muốn thiêu hủy tâm can, bật thành
thơ, hòng mong được giải thoát - để rồi
nào có thể quên dễ dàng ! Sau này, ở “
Rừng Phong” sau mười mấy năm hình ảnh:
”
Tố của Hoàng ơi”
từ
hư không lại trở về không hư”,
“
lẽ nào mộng cả thôi ư? “
dẫn
đến kết cục não lòng:
“ Người ơi giọt bể chưa dư tang điền “.
Vậy
nàng thơ có phương danh “ Tố” là ai?
Theo
Tạ Tỵ, kể lại trong một hồi ký” Mười
khuôn mặt văn nghệ / Tạ Tỵ/ Nam Chi Tùng thư, Saigon 1970)- thì nàng Tố có hai chị em đều đẹp cả, nhan sắc dư
thừa, và nhà ở trên đường Capitaine Bruisseau, gần Place Négrier. (Cửa Nam ,Hà Nội bây giờ ) . Và nhà thơ chỉ
yêu một nàng, yêu đơn tư một chiều - còn
Tố có yêu lại không, chẳng ai tiết lộ
điều bí ẩn này. Sau nàng Tố đi lấy
chồng, chẳng ai có thể làm khác hơn !!
Từ
tan vỡ một cách rất vô tình, lại rất hợp lý này, sau này VHC đành
cưới nàng Đinh Thị Thục Oanh làm vợ.
Thục Oanh là chị ruột Đinh Hùng,
hơn Đinh Hùng 1 tuổi, sinh ở Manila ( Phillipimes) khi cha làm công chức cho
Pháp đổi sang đây.
Trước
1975, tôi có gặp bà, ấy là vào một buổi ; đó là lần tôi đưa Vũ Hoàng Chương về nhà, một căn nhà
nhỏ ở gần chợ Vườn Chuối ( Saigon
3). Chẳng là lần ấy, nhà thơ Nhất Tuấn (
Phạm Hậu, giám đốc Nha Vô tuyến Truyền
thanh Saigon ) mời chúng tôi làm giám khảo
cuộc thi Thơ Tết của Đài có VHC
hiện diện.
Sau
1975, gặp lại bà Thục Oanh nhiều lần,
cũng nhờ nữ sĩ Thư Linh dẫn tới giới thiệu – từ đó, tôi cảm nhận được rằng người
đàn bà làm vợ nhà thơ ấy thật phi thường , không chỉ có sức chịu đựng dẻo dai
vô biên, cộng với tấm lòng hy sinh thật cao cả làm vợ một thi sĩ tài hoa , luôn
luôn mặc complet bảnh bao, túi rỗng vì
nghiện ngập. Hãy cùng nghe lời tán dương Thục Oanh , qua Tạ Tỵ:
“…Ôi
thật tội nghiệp cho thân phận đàn bà, đúng là: “ Thân em như giọt mưa sa !”
Nàng Oanh, một người đàn bà phi thường, có một sức chịu đựng vô biên và có tấm
lòng hy sinh cao cả. Trong suốt cuộc đời làm vợ VHC, một người chồng, tuy nổi danh
về thi ca nhưng lại nghiện hút, gia đình thường túng thiếu. Có buổi sáng, tôi đến thăm Chương tại căn nhà
ở gần phố Hàng Da ( Hà Nội- TP.chú thích) . Lúc tôi đến đã hơn 9 giờ sáng,
Chương vẫn chưa tỉnh. Bà Oanh yên lặng
như cái bóng, đứng chải đầu bên chiếc cửa sổ nhỏ . (….)
–“
Ngồi chơi anh, đêm qua anh Chương thức khuya quá !”
Tôi(
Tạ Tỵ) tìm không ra chỗ, đành ngồi xuống
chiếu. Tôi nhìn Chương nằm trên tấm nệm cũ. Toàn chân Chương như dán xuống mặt
nệm. Da mặt tái mét, đôi mắt mở hé trề
xuống như còn muốn hút ….”
Người
đàn bà mang tên Kiều Thu hoặc Tố- được nhắc nhở thật nhiều lần trong thơ VHC –
với nàng thơ mang tên Tố- tác giả yêu
đơn phương, vì vậy rất có thể
chính nàng thơ cũng không thể hay biết VHC yêu mình ?!
Còn
nàng Thục Oanh, vợ chính thức VHC- thì
tác giả chỉ” nhắc nhở tên nàng Thục Oanh
duy nhất một lần” - trong tập thơ” Hoa Đăng” mà
thôi.
Trước
1950, chính xác hơn 1947- VHC rạt rào tình cảm, dễ rung động nhịp sống “ thời
cách mạng” , tác giả viết bài” Nhớ về Hà Nội vàng son “- có những đoạn thơ thật mượt mà, rung động thật
sự :
NHỚ VỀ HÀ NỘI VÀNG SON (*)
..”
Ôi ngày mười chín ngày oanh liệt
Sóng
đỏ hoa vàng khắp bốn phương
Hà
Nội tiếng reo hò bất tuyệt
Vang
vang bờ nọ Thái Bình Dương ?
Ba mươi sáu phố ngày hôm ấy
Là những giòng sông đỏ sóng cờ
Nền thắm nhụy vàng hoa vĩ đại
Năm cánh xòe trên năm cửa ô
(…………………………………….)
Ôi
ngày mười chín ngày oanh liệt
Vạn
ước mong dồn một ước mong
Ôi
mùa thu ấy, mùa tin tưởng
Một
tấm lòng mang vạn tấm lòng …
Lưng chừng thế kỷ thứ hai mươi
Khoảng giữa mùa thu đẹp tuyệt vời
Như thoảng Mê Giang trào sóng thẳm
Hoành Sơn tân lĩnh kết hoa tươi “.
-
(*) Trích lại từ “ Lược sử văn nghệ
Việtnam- Nhà văn tiến chiến 1930-1945/ Thế Phong . Bài thơ này trước đã in
trong” Tập văn Cách mạng và Kháng chiến “( Nxb Sư thật 1947)- tôi trích đăng
lại ,bị “Sở Phối hợp Nghệ thuật” ( Ban
Kiểm duyệt / Bộ Thông tin VNCH) cắt bỏ 2 đoạn. Tôi không còn nhớ đến nữa, tới
đầu năm 1999, kịch tác gia Hoàng Như Mai
( Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân bây giờ ) đọc
cho nghe 2 đoạn thơ thiếu trong bài - nên mới có cơ hội bổ sung. ( 2
đoạn 3 và 4 in chữ đậm).
-
Trở
lại cùng người đàn bà mang tên Đinh Thi Thục Oanh - do chính phu quân mô tả ,
thì:
Khi
lập gia đình, chú trể ở luôn bên nhà vợ cùng em vợ tọa lạc tại Ngõ Bò. Nhưng
VHC “ chơi chữ’ gọi” Ngõ Bò” thành “
Hoàng Ngưu hạng”, và tác giả giải nghĩa:
”
.. nếu dịch chữ nào nghĩa nấy thì đó là” Ngõ Trâu Vàng “. Căn nhà 5 gian lợp ngói, cửa bức bàn,
hiên rộng tới 3 thước, có thể trải chiếu ngồi, nhìn ra cây ổi và giàn hoa ngoài
sân; nếu hội họp để uống rượu ngâm thơ thì 20 người ngồi vẫn còn thừa chỗ. Chỉ
phải cái nhà hơi tối, vì chẳng có một cửa sổ nào, lại ở vào một ngõ không được hưởng
tiện nghi điện lực (…) mà người nọ nhìn người kia vẫn mờ mờ nhân ảnh như người
đi đêm. Thục Oanh và Thứ Lang ( Đinh Hùng- TP chú thích) bất chấp. Hoàng đến
nhập tịch cũng bất chấp luôn …. “.
Bạn
bè văn chương đến thăm VHC hoặc Đinh
Hùng đều được Thục Oanh tiếp đãi khách
thật chu đáo, nồng hậu, VHC tự kể :
“…
Nào Chu Ngọc, Vũ Trọng Can, Lê Văn Trương, vv…Nguyễn Bính thì đi đâu một dạo,
hình như vào Sài Gòn – lúc phản hồi” Kinh đô văn nghệ” là đóng đô ngay ( tại
đây), nằm lỳ (ở) Ngõ Trâu Vàng đến 1 tháng
là ít ! Phải chịu Thục Oanh là một người thản nhiên có một. Bạn của Thứ Lang hay Hoàng đến, Oanh đối đãi rất thật tình. Có khi cơm gà cá gỏi, rượu thịt ê hề, có khi ăn khoai trừ bữa hay
ăn cháo trắng thay cơm. Rất có thể môt hôm nào đó mỗi người – chủ cũng như
khách – chỉ được thưởng thức một chén cơm rang, hay một củ khoai, hoặc vừa đúng
3 thìa cháo. (…) Hoàng ưa nhắc lại ( của VHC) :
-
Ăn ít mới ngon ! …. (*)
-------------------------------------------------------------------------------------------------------
(*) trích
từ hồi ký ”Ta đã làm chi đời ta”/ Vũ Hoàng Chương. Ở đây dùng bản in Nxb Hội
Nhà văn/ Chi nhánh Phía Nam do Ý Nhi
xuất bản, Sài Gòn 1993).
Cái
thời’ chữ nghĩa bán ra tiền” thời tiền
chiến rất khác bây giờ - thơ in ra còn bán ra tiền. Có tiền mới có nhiều bữa ăn thịnh soạn do
Thục Oanh đãi khách, có khi kéo dài tới ngày hôm sau. Cho tới lúc” bây giờ tiền
hết gạo không” thì cả hai anh em VHC và Đinh Hùng phái “ hạ sơn” đòi tiền “ mãi văn” từ các báo đã in bài của
họ:
“…Thường
thường chia quân 2 ngả. Hoàng không biết Thứ Lang đã” bán” những bài tùy bút nào, nhưng về phía Hoàng
thì đã” đi đứt” vở kịch thơ” Trương
Chi”, rồi đến vở “ Hồng Điệp” cũng đi luôn ,cả một phần tác quyền tập thơ” Mây”. Kể ra văn chương lúc
đó cũng còn có giá….”
Kể
chuyện giai thoại nhà văn, nhà thơ nghèo- có khi thôi - có điều khi ngẫm về họ” như VHC tả lại- thì”
vật được tặng trong ngày cưới, ( kiểm lại) chỉ còn thấy đôi giầy cườm của Đỗ
quân tặng, rồi tấm lụa mỡ gà óng ánh của Lê Trọng Quỹ cho, đến chiếc vòng huyền
của Lê Thanh. Nhìn lại, chẳng thứ gì
đáng giá, khi quy ra tiền. Còn chú rể ( VHC)
thì lại ngắm nghía không chán mắt một tập giấy của Nguyễn Tuân tặng để
viết – lại cả bút máy cũ mèm từ tay Chu Ngọc tặng; mà tất cả quy ra tiền, thật mà nói chẳng có
cái gì đáng giá cả. Bởi lẽ, họ có “ sẵn cái gì thì tặng cái nấy ” cốt ở tấm
lòng quý mến nhau là chính “- đây chẳng
phải chuyện bịa, mà chính chú rể, thi sĩ VHC tự kể :
“…Giấy
của Nguyễn Tuân thì ai còn lạ gì ! Đó là
thứ giấy báo in tầm thường, ở chỗ nó được cắt thành khổ vuông, mỗi bề hai gang
tay, nghênh ngang ra mặt. Cách mép giấy
chừng một đốt ngón tay, Nguyễn cho in 1 cái khung là những giòng kẻ lờ mờ. Bên phía dưới khung lại có in 2 chữ” Nguyễn
Tuân” –thủ bút của đương sự. Tất cả đều
dùng màu xanh lá mạ, rất hợp với nền vàng….”
Trở
lại với tập thơ” Mây” của VHC- đó là 1942, có ghi lại chuyện kể vui vui thế này
– anh chị em văn hữu rất sốt ruột đợi thi phẩm ” Mây của VHC ra đời- kể cả một số văn hữu không mấy thân thiết với tác giả đi nữa - như “ cặp bài trùng song
sinh “Huy Cận và Xuân Diệu “ Có một
buổi, gã Huy Cận và Vũ Hoàng Chương rất
tình cờ đụng mặt nhau ở Cổng Chéo- Hàng Lược. Chả biết ông Xuân Diệu đề tựa cho
Huy Cận ra sao, tán ma tán mãnh, bi thảm-hóa” nỗi sầu biển lớn, sông dài”
bạn thơ Huy Cận có nỗi khổ lớn lao ra
sao, thì chỉ một “ Dieu seul le sait” mà
thôi ! (có Trời mới biết!) – còn ngoài đời – chàng kỹ sư nông nghiệp thời Tây
nhiều bổng lộc, thì làm sao Huy Cận có nỗi khổ’ như biển rộng, sông dài” cho
được!. Một lần, chàng Huy Cận và Vũ Hoàng Chương tình cờ gặp nhau ở Cổng Chéo
(Hàng Lược) thì cả hai, ai nấy tay bắt
mặt mừng. Riêng chàng Huy Cận lại cười
típ mắt, nổi hứng ngâm luôn 2 câu thơ:
“
Đã lâu lại gặp Chàng Say :
“Lửa
Thiêng “ xin đốt cho “Mây “xuống trần.
Cứ
như ý diễn từ 2 câu thơ kia , thì “Lửa thiêng / Huy Cận”
đã chẳng còn giá trị gì, cứ đốt ra tro để chào mừng một thi phẩm tuyệt
tác của VHC sắp chào đời vậy.
Ngâm
xong, thú quá, chàng Huy Cận lôi xềnh
xệc Vũ Hoàng Chương vào một hiệu phở ở
Hàng Đồng, khăng khăng đòi đãi Hoàng một chầu kỳ no mới thôi !( “ Ta đã làm chi
đới ta/ Vũ Hoàng Chương”).
Bây
giờ bàn đến “ thơ xuân VHC” sau 1954, từ
khi chàng “ Say” lên tàu ‘ há mồm” của
Hải quân Hoa Kỳ chở kìn kìn gần 1
triệu di dân vô Nam- từ vỹ tuyến 17 trở
ra thuộc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa- từ 17 vỹ tuyến trở vào thuộc quyền Quốc gia
Việt Nam-( theo Hiệp định Genève 20/7/1954)-
thì thơ xuân VHC vẫn chỉ hướng
về” mùa xuân dĩ vãng” – khai bút thơ xuân hôm nay mà chỉ nhắc lại xuân qua.
Tôi
cho trích lại toàn bài “Thơ xuân qua thi ca của vài thi nhân tiền chiến”( tạp chí” Văn hóa Á châu” ( Saigon 1960, bài
của Thế Phong) - trong đó có bàn đến thơ
xuân VHC:
“….Tác
giả “ Mây” , “ Say”, “ Rừng Phong”, “ Hoa đăng”
vv… thơ vàng son, và kịch thơ “Vân Muội” lại “ ảo huyền”, than thở cùng
mây , bay theo gió : “ Em ơi! lửa tắt bình khô rượu / Đời vắng em rồi say với
ai !?” hoặc giải mộng yêu đương cũng chỉ
mang sầu, thêm lụy, dầu muốn vượt qua hay từ chối- thỉ chẳng còn “ neo”
thoát, dù quyết bỏ phương xa một
dặm đường xưa, lối cũ – thì VHC vẫn” yêu một phút để mang sầu trọn kiếp / tình mười năm còn lại mấy tờ thư “ mà thôi !
. Thi sĩ đã từng nhìn lại khởi điểm con đường đã đi, trải qua bao năm, tháng,
chao ôi, vẫn chỉ là ảo mộng có muốn trở
về ngôi chính vị , chỉ khi nào đã từ bỏ trần giới mà ca lên : “Ta còn để lại gì
không ?/ Kìa nón đá lở, này sông cát bồi ! “.
Đã
có lúc chán ngán đến đầu đốt tay, sầu
tới đầu lưỡi giai cấp mình- VHC thử bước
sang địa hạt thơ đấu tranh- đi tìm một chân trời mới cho đỡ buồn nản, cũng là
cách ủng hộ đường lối chính trị quốc
gia. ( sau này tác giả được giải thưởng thơ Tổng thống VNCH, qua tập” Hoa đăng”)- Những bài thơ viết theo
kiểu” Nhớ về Hà Nội vàng son” (
1945) đến “ Hoa đăng” ( sau 1954) ,
nhưng dễ mấy khi từ bỏ được ngay bản chất,
và thất bại ngay ở đầu sóng ngọn
nước.( “ Xôn xao hành khúc xây đời mới / Trang khúc du dương ngọn quốc kỳ” vẫn
là”làm dáng văn chương, và thật đúng:” Tóc bạc má hồng mê vận hội!” quả đã muộn
màng !
Con
đường dò, tìm hiểu khả năng thi phú tác giả, liệu còn; hoặc đã cạn mà không hay
biết ?! Dẫn chứng đôi câu trong bài “ Thoát hình”:
“….
Kìa mảnh da ngà đang nứt rạn
Cho
tròn một kiếp chẳng phân vân
Lòng
cây mấy thuở ai người biết ?
Từng
khóc từng reo đã mấy lần ?”
Tuy vậy vẫn có thể đo được:
“Lòng
cây mấy thuở ai người biết ?
”- hoặc trong bài “ Công chúa Paris”:
“…Rồi
mỗi lần thu hội ý
Hoa
đăng lại vượt Trùng Dương
Tháp
lại truyền tin báo hỷ
Cưới
nàng công chúa Tây Phương ...”
Ba năm trước, thi sĩ còn nhớ: “ bảy
màu mây của Tháp Ngà vấn vương”, hòa
đồng biến chuyển đời riêng với cơn
sóng chính trị vần vũ: đất nước chia đôi, rời “ kinh đô
văn nghệ” , vào miền Nam tìm Tự do :
“…Thuyền
thơ chở hứng lên cao
Sóng
xuân lại có đêm nào nguyệt hoa
Bạc
trôi từng lớp sao sa
Bảy
màu mây của Tháp Ngà vấn vương …“
(
Xuân thanh bình)
Thi sĩ còn đủ khả năng tìm Hội để
kết”Hoa đăng”? đó là câu hỏi tác gỉa tự đặt cho bản thân từ 3 năm trước :
“…
Thời gian có mỏi cánh chim bằng ?
Vũ
trụ sang mùa tận thế chăng?
Anh
vẫn còn thơ về dâng bút
Em
có còn Hoa đủ kết Hoa đăng ?”
( Tuổi xanh )
Thi
sĩ còn đủ sức theo một đoàn thám hiểm để mơ tới đỉnh” Himalaya-Cho-Oyu” - nhưng
thi sĩ đã đạt được ước mộng của mười mấy năm xưa: mơ được viễn du theo người
tình cùng về” Kinh đô Ánh sáng”- thực tế
tác giả mở mắt ra vẩn chỉ thấy mình –
nên đành ở lại với thực tế :
“…Quán
rượu liền đêm chuốc đắng cay
Buồn
mưa, trăng lạnh, nắng hoa gầy
Nắng
mưa đã trải tình nhân thế
Lưu
lạc sầu chung một hướng say
Gặp
gỡ chừng như chuyện Liêu Trai
Ra
đi chẳng hẹn một ngày mai
Em
ơi ! lửa tắt bình khô rượu
Đời
vắng em rồi say với ai ?
Phương
Âu mờ mịt lối quê nàng
Trăng nước âm thầm vạn dặm tang
Ghé
bến vào đây người hải ngoại
Chiều
sương mặt bể có mơ màng ?
Tuyết
xuống phương nào lạnh lắm không ?
Mà
đáy lòng trắng một mùa đông
Tương
tư đốt thuốc thâu canh đợi
Thoáng
gió trà mi động mấy bông ?[]
(
Đời vắng em rồi say với ai ?)
Mộng
Liêu Trai của Bồ Tùng Linh ấp mộng lớn có mục đích” cải tạo xã hội”, kết tinh
từ đời sống nguyên hình để thể hiện ước vọng- còn Vũ Hoàng Chương thì” mộng
Liêu Trai cá nhân chỉ thấp như ngọn cỏ,” như vậy sao? Nhưng VHC vẫn không nản
lòng, nuôi mộng để có ngày toại nguyện, là gặp được giai nhân cùng dệt khúc “
cố nhân kỳ ngộ”:
“…Nàng
mang vòng ngọc giai nhân
Tà
áo vòng gai thi sĩ
Tìm
nhau đã mấy trăm lần
Mới
thỏa u hoài vạn kỷ ..”
(
Công chúa Paris)
Gọi
là” đường thơ mới” của thi sĩ nổi tiếng VHC từ tiền chiến- bởi tôi nhận thấy
rằng ít nhất “đường thơ có Công chúa Paris”
làm khuây khỏa nhà thơ yêu mến phần nào ẩn ức của bèo giạt bến mê - ít
nhất hơn một lần:
“…Nhổ
neo rồi, thuyền ai xin mặc sóng
Xô
về đông hay dạt tới phương Đoài
Xa
mặt đất, giữa vô cùng cao rộng
Lòng
cô đơn cay đắng họa dần vơi !”
(
Phương xa )
Chí tang bồng ấy, đã:
“…Đây
người thơ mộng Trang Chu
Nhẹ
cánh tìm mai đỉnh tuyết
Đưa
đường lên ngọn CHO-OYU
Đã
sẵn mùi hương diễm tuyệt !”
(
Tuyết hận )
Mùa xuân trong đời thơ thi sĩ VHC,
hoặc hầu hết các nhà thơ tiền chiến đều tìm nguồn dĩ vãng. Có nhà thơ nhớ tiếc
kỷ niệm quá vãng của mình trong tuổi thanh xuân yêu đương , trẻ trung. Trường hợp này là VHC. Tác giả nhớ
lại thuở “Tuổi vàng” hay” Tuổi đá” – một lối gọi “ thời son trẻ”, thời mái đầu xanh có
giấc mộng đẹp thuở ban đầu. Mộng đẹp rồi
qua đi theo năm tháng, bây giờ nhìn lại,
dễ mấy ai không luyến tiếc! Chẳng thế mà nhà văn Pháp nổi danh như Marcel Proust chỉ rặt tìm dĩ vãng đã mất , qua tác phẩm coi như tuyệt bút, đó là “ À la
recherche du temps perdu” đó sao? Và ở
bên ta là nhà thơ Vũ Hoàng Chương”:
TUỔI XANH
Trăng
dịu từ khi gặp gió lành
Sông
lam từ buổi gặp non xanh
Từ
hương quen bướm trời quen đất
Em
đã yêu rồi, đã của Anh.
Thuở
ấy tuổi Vàng hay tuổi Đá ?
Yêu
nhau ai tính tuổi bao giờ!
Gối
xuân chỉ biết từ nghiêng sóng
Vần
điệu trôi dài mãi tuổi thơ.
Tuổi
dầu Vàng hay dầu Đá qua
Vàng
chưa ai nhạt đá ai nhòa
Trái
tim vẫn tuổi Đồng trinh bạch
Thì
sắc hương còn vẹn tuổi Hoa
Thời
gian có mỏi cánh chim bằng?
Vũ
trụ sang mùa tận thế chăng ?
Anh
vẫn còn thơ về giáng bút
Em
còn Hoa đủ kết hoa đăng !
Hoa
gieo ánh sáng ngập tình yêu
Bút
vẽ thành Thơ giấc mộng đầu
Nắng
rộng mưa dài thu một nét
Không
gian còn lại có bề sâu
Lứa
đôi tái thế vẫn tương phùng
Nguyên
thủy nào đâu khác Cực chung !
Anh
muốn dìu Em giờ Hiện tại
Nghe
trăng hòa điệu nước lên cung
Hòa
điệu lên cung trăng nước dậy
Xuyên
ngang gió trận dọc mấy thành ?
Tuổi
Thơ này với Hoa niên ấy
Muôn trước ngàn sau thăm thẳm xanh[].
V.H.C.
Một
bài thơ nữa của VHC. – tôi là đọc giả rất yêu mến thơ ông-
đó là bài” Nguyện cầu”. (trong tập thơ” Rừng Phong” ( 1954) – bây giờ ai
sẽ là người đọc lại , sau 30/4/1975 – Có thể
cho chính Vũ Hoàng Chương chăng? Giả thiết chính tác giả nghe lại , hẳn
là ông sẽ thấm thía” nỗi- đau -nhục”biết
chừng nào ?! Với tôi, đây là một bài thơ tuyệt tác của Vũ Hoàng Chương:
NGUYỆN CẦU
Ta
còn để lại gì không ?
Kìa
non đá lở, này sông cát bồi
Lang
thang từ độ luân hồi
U
minh nẻo trước xa xôi dặm về
Trông
ra Bến Hoặc Bờ Mê
Ngàn
thu nửa chớp bốn bề một phương
Ta
van cát bụi trên đường
Dù
dơ dù sạch đừng vương gót này
Để
ta tròn một kiếp say
Cao
xanh liều một cánh tay níu trời
Thơ
ta chẳng viết cho đời
Không
vang nhịp khóc giây cười nào đâu ?
Tám
hương đốt nén linh sầu
Nhớ
quê dằng dặc ta cầu đó thôi
Đêm
nào ta trở về Ngôi
Hồn
thơ sẽ hết luân hồi thế gian !
Một
phen đã nín cung đàn
Nghĩ
chi còn mất hơi tàn thanh âm ! []
V.H.C.
Sau 30/4/ 1975, V.H.C và vợ sống
trong một phòng ở 326 Nguyễn Trọng
Tuyển, quận Tân Bình, tp. HCM, do nữ
sĩ Mộng
Tuyết cho ở nhờ. Chẳng là trước
đó, VHC được Giải thưởng thơ Quốc gia do Tổng thống Diệm trao tặng, vợ chồng nhà thơ dự định mua căn nhà nhỏ- thì
Mộng Tuyết mời về ở cho tới ngày 30
tháng 4, 1975- VNCH không còn tên trên bản đồ-
văn nghệ sĩ tiền chiến ngoài Hà Nội vào Nam, với tư thế kẻ thắng trận,
đầu hất ngược, mắt hếch, nhìn văn nghệ sĩ” Ngụy” miền Nam” bằng nửa con ngươi
“- thì VHC là “ thi sĩ tiền chiến di cư vào Nam chống Cộng điên cuồng, lại được giải
thưởng thơ “ Tổng thống Ngô Đình
Diệm, thời Đệ I Cộng hòa “- bị ghi vào “ sổ đen phe đối nghịch ”.
Nữ sĩ Mộng Tuyết - dù với tư cách “ “vợ hờ ” Đông Hồ - mời các
nhà thơ VNDCCH tiếp quản miền Nam (Chế
Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… thì phải ? vv..) đến dự tiệc, hẳn rằng sự có mặt
vợ chồng thi sĩ VHC sẽ làm mất ngon bữa tiệc, còn là một chướng ngại vật, khó
coi , dầu bà chủ Mộng Tuyết không thể
đuổi ngay VHC đi cho khuất mắt. Nên, bà chủ Mộng Tuyết bèn lấy một mảnh giấy
nhỏ, viết hàng chũ” CẤM KHÔNG ĐƯỢC LÊN LẦU “
dán ở cầu thang ( phía dưới nơi trú ngụ của VHC) bởi ở lầu 1, nơi bữa đại tiệc đang diễn ra, tiếp đón các
nhà văn miền Bắc” thắng trận”. Hình như tôi viết ở đâu đó câu chuyện này, và đã
in trong một cuốn sách đã xuất bản, khiến tác giả ”Nàng Ái cơ trong chậu úp” bất bình . Sau khi tôi cho xuất bản”
T.T.Kh., Nàng là ai?”, bà ta có cơ hội trả lời phỏng vấn báo Thanh Niên, và mạt
sát tôi thậm tệ- kể cả một cô bé đàn em của bà trong nhóm Quỳnh Dao - đó là nữ sĩ Cao Mỵ Nhân về “hùa’ viết bài đòi “ trảm” nhà văn cao bồi
T.P .- T.T.KH, Nàng là ai?” trên báo
Saigon Times (Thái Tú Hạp chủ nhiệm ). Tôi được biết tin này, từ phóng viên văn học Trần Nhật Thu- báo “Văn nghệ
tp. HCM” báo lại.
Tiếp theo, tướng tá, sĩ quan, cùng
công chức cao cấp chính quyền VNCH
bị đưa đi tập trung cải tạo dài
hạn - ở
các trại xa Saigon – thì
VHC” được đưa vào Khám Chí Hòa ,cải tạo dài hạn tại chỗ. Vì phạm
nhân thiếu thuốc phiện, lâm bệnh, đau ốm quặt quẹo, tựa hồn ma thoi thóp sống vật vờ, nên ông được trả tự do rất sớm - về nhà được một thời gian ngắn và qua đời năm 1976.
Năm 1999, Nxb Đồng Nai cấp phép “ Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn” : đề cập Vũ Hoàng Chương, Đinh
Hùng, Tam Lang và Mai Lâm-Nguyễn Đắc Lộc” – tại “ Chương I” Vũ Hoàng Chương (
1915-1976), tôi viết:
”…Một
trong 12 bài thơ di cảo của Vũ Hoàng
Chương “thâu thập được từ Hoàng
Tấn ( tác giả” Nguyễn Bính, một vì sao sáng”- Nxb Đồng Nai 1999 )cho
chép lại. Cũng theo Hoàng Tấn, tác giả
V.H.C làm bài thơ này còn có ý ngầm để tặng Quách Thị Hồ, người hát ca trù hay
nhất Việtnam ( danh hiệu NSND ), xưa
từng là bạn cố tri VHC.
( tr. 13-16, sách đã dẫn).
CHÚNG TA MẤT HẾT CHỈ CÒN NHAU
Sáng
chưa tối hẳn tối chưa đành
Gà lợn om sòm một bức tranh
Nhạc đã có tai thơ có họa
Biết chăng ai đó mắt ai xanh ?
Dấu hỏi xoay quanh một cuộc đời
Sên bò trong óc máu thắm rơi
Chiều nay một dấu than buông lửng
Đanh đóng vào xăng tiếng trả lời
Chúng ta mất hết cả rồi sao ?
Cả đến âm thanh một thuở nào
Da trống tơ đàn ôi trúc phách
Đều khô như khúc
hát gầy hao (?)
Đàn mang trơ đáy mà không đáy
Mất hết rồi sao sợi nhớ thương
Tay phách từ lâu nay lạc phách
Không còn đựng mãi bến Tầm Dương
Hơi ca nóng đã tan thành tuyết
Để tiếp vào cho nó đỡ xanh
Bạc mệnh hỡi ai hoàn mệnh bạc
Đâu còn ấm nữa rượu tàn canh ?
Hay
là đêm ấy Ngưu lìa Chúc
Xé
nát mình ra hoen mắt ai?
Còn
có gì đâu cho mắt trống
Đập
lên hoang vắng đến ghê người !
Âm
thanh mất hết còn chi đâu ?
Gắng
gượng cho thêm hồn nhọc đau
Ba
kiếp long đong ngồi chụm lại
Chúng
ta mất hết chỉ còn nhau.
Sài
Gòn sau 1975.
V.H.C.
Sau
khi sách phát hành, tôi nhận được một bài báo từ Sacramento ( thủ phủ
California) gửi về- do Hoàng Hương Trang viết, đả kích người viết sách
thậm tệ. Nào là, người viết không chịu đi sưu tập tài liệu, nhà ở quận I có xa
gì, sao không tới Nhà Làng ( ngã ba
Nguyễn Văn Lạc + Xô Viết Nghệ
Tĩnh ) phường 19 , quận Bình
Thạnh) để gặp vợ V.H.C là Thục Oanh lấy tài liệu có phải chính xác hơn
là chép lại từ ” một Hồ Tăng Ấn Việt Cộng thì biết’ mô, tê “gỉ?” (Hồ Tăng Ấn là
bút danh Hoàng Tấn - TP chú thích ).
Sau đó, tôi lại được đọc một bài báo khá dài, đăng trên tập san
“Tiếng vang” ( cũng từ Sacto gửi về) tác
giả là Đinh Nhật Thịnh, anh ta lên án tôi viết về VHC, nhất là trích dẫn
bài thơ VHC sáng tác sau 1975 là sai lạc
hoàn toàn, như H.H.T vạch ra. Và nếu anh
ta chỉ dựa vào tư liệu duy nhất của H.H. Trang thôi- thì hẳn
phiến diện là điều khó tránh –
và bài báo sẽ chẳng còn gì là giá trị.! ( xem ở cuối bài - mục “ Đính
chính”).
Riêng
H.H. Trang, lại viết bài thứ hai tiếp theo lên án “Thế Phong vô hạnh, ngủ với” đàn
bà đàn chị” để có“ cơm no bò cưỡi “ - và
sau được Cao Mỵ Nhân tin là “
sự thật Panurge” - nữ sĩ bèn khai thác
rỉ sắt từ “ chiếc kiếm bẩn H. Hương Trang “ - để viết “ Bão trong tách nước” -
hòng “chọc tiết Thế Phong “ một lần nữa . ( *):
-
(…).. sau đó, tôi ( Cao Mỵ Nhân )
thấy tờ báo của hội văn nghệ sĩ Việt Mỹ ở Sacramento đăng 2 bài liên tiếp: một
của thi sĩ Hoàng Hương Trang mạt sát Thế Phong là nhà văn vô hạnh, một của nhà
văn trẻ sau này ở hải ngoại, Nhật Nguyệt, đã nêu những điều phản phé của Thế
Phong, vì 2 lý do mâu thuẫn: ông ta nghĩ thế nào ,khi cứ mà ca tụng cố nhân vừa
tôn sùng vợ, là điều không thể chấp nhận được, với người đàn ông tự mãn, cho là
hay ho hơn ai..(…)
Kể lại sự việc Thế Phong đã dựng nên
một câu chuyện có tính cách thương mại hơn là văn chương sưu tập.” Vụ án văn
chương 57 năm mới kết thúc, T.T.Kh. là ai?”.
Cùng với tên văn sĩ Bắc Việt Trần
Nhật Thu, Thế Phong đề tên tác giả tập bài báo trên là Thế Nhật, tức Thế Phong
và Trần Nhật Thu cách đây 15 năm làm xôn xao dư luận trong và ngoài nước. Khiến
năm đó, 1995, tôi với tình cảm em út trong đại gia đình Quỳnh Dao, một hội thơ
danh tiếng ở Saigon xưa, phải viết bài bênh vực T.T.Kh. hậu chiến vì nhân vật
trong tập vụ án văn chương nêu trên, là một bậc nữ lưu, tài tử vượt bực, và
cũng là trang quốc sắc ở Thanh hóa ta xưa.
Bà còn là phu nhân tiết hạnh của vị luật sư Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng thời
đệ I Cộng hòa (…….) Với bản tánh Thế Phong háo thắng, nghiệt ngã như vậy, thì
trong giới văn nghệ, báo chí đã mặc nhiên, bởi ông ta có hay, hay không hay,(
hoặc) không đúng( đi nữa) ;, thì ông ta
( vẫn phải ) chịu trách nhiệm với dư luận.
Đằng này, căn cứ vào bài ký giả
Thanh Hải (nguyên nữ phóng viên văn học báo Pháp Luật tp. HCM – TP chú thích )-
( có) một nhà thơ cũng nghĩ quàng, tung lên “Phố Mưa “, cái tin tác giả “ Chốn Bụi Hồng” : mỗi năm mỗi về VN
để rủ Thế Phong đi chơi, làm vợ Thế Phong đau khổ quá !
(…) Có thể là người tung tin trên,
căn cứ vào bài phỏng vấn nhà văn Thế Phong của ký giả Thanh Hải báo” Pháp Luật”
cách đây 3 năm, để tự khoe cái tài mẫn tiệp của mình; nhưng nghĩ cho cùng, vẫn
là cái lối của nhà văn hoang tưởng Thế Phong; mà lâu nay tôi vẫn tự nhủ là một
cái Bướu trong cuộc đời viết lách của tôi, không mạnh tay cắt bỏ, như qui vị
cắt bỏ một nốt ruồi, một cục chai ở bàn tay cầm bút.
Từ sau 30-4-1975, tôi hoàn toàn vô
sản, có lúc phải chạy gạo hàng ngày, ở VN cũng như ở hải ngoại này, tiền đâu mà
mỗi năm về VN để gặp Thế Phong một lần, và Thế Phong cũng vậy, ông ta và gia đình ông sống thế nào, tôi cũng
chẳng quan tâm. (….)
Vị hòa thượng mỉm cười :(
người mà CMN xin gặp - để tư vấn
cho tác giả CMN có sự quân bình trạng thái tâm hồn, sau lần nữ sĩ bị hoảng loạn, và giao động cùng cực, vì
những hỉ, nộ, ái ố…-TP chú thích )
- Cô cứ an tâm (…) và như Tây Phương khẳng định;” đó chỉ là
trận bão trong tách nước trà !” )
CAO MỴ NHÂN
( trích lại từ : <Google / search / nhà văn thế phong >
( Translate this page).
SG 1 …Cả nước xưa, trước 1975, đã
biết Thế Phong là nhà văn cao bồi.. Cách đây 3 năm tôi đã đọc loạt bài phỏng
vấn nhà văn Thế Phong từ phụ bản tờ báo Pháp…..)
Câu chuyện Hoàng Hương Trang mạt sát
Thế Phong có thật vậy không? một người hỏi.
- Không, chỉ là chuyện”
phịa” - ,cô ta ưa vểnh tai trâu ,” nghe hơi nồi trõ, nghe mõ sư ông ” ra
cái điều biết nhiều, lại biết cả cái không
biết- mục đích hạ đo ván đối thủ, bất chấp phương tiện tốt , xấu, bối cảnh đúng, hay
không đúng ?
Sở dĩ nói vậy, vì tôi có thể kể cho cô ta nghe một chuyện sắp
kể ra đây, chuyện thực ” cơm no bò cưỡi” – của tôi vào năm 1957 –
lại chưa hề viết ra – chỉ vì tôi không dám thò mặt về nhà trọ (ở xóm
đạo, nằm phía sau Nhà thờ Bắc Hà trên đường Lý Thái Tổ -nơi này họa sĩ Đinh
Cường đã từng leo lên căn gác gỗ để
giúp tôi đóng sách “ Lược sử văn nghệ Việtnam- Nhà văn hậu chiến 1950-1956, sách
in rô nê ô). Giờ này, tôi vẫn còn
lang thang, đạp xe trên phố , đầu óc rối tung, nghĩ xem nhà thằng bạn nào quen,
để xin ngủ nhờ. Tôi nhớ đã ngủ 3 đêm liền ở gác nhà bạn Hưng, em ruột luật
sư Thống - gần cây xăng Ngã 3
Nguyễn Thiện Thuật- Saigon 3 - mà
lại tới xin ngủ nhờ đêm thứ tư thì” chuế” quá! Tôi như ngỏ lời với bạn đường,
chiếc xe đạp cọc cạch đang cùng tôi lang thang trong đêm, nghĩ xem có
cách gì qua đêm? Chủ và tớ kẽo kẹt hết đường
này sang đường kia, vòng qua Lý Thái Tổ, phố này còn đèn sáng từ quán cà phê hắt ra.
Bỗng nhìn thấy một
quán cà phê nhỏ đó, rất
vắng khách, nằm cùng dẩy, gần Phòng khám mạch của bác sĩ N.Tuấn Phát. Ghếch xe đạp bên đường, vào
quán, gọi ly đen nhỏ. Chính cô chủ quán bưng ra, trò chuyện vui vẻ :
-“ đi một mình, không có bạn sao? “
-Lắc đầu.
Vắng khách, cô ngồi xuống ghế bên
cạnh hỏi han.
Trời đã khuya, ngồi lâu, uống
cạn, tôi đành gọi trả tiền, nhưng như vẫn vẫn còn muốn ngồi nán lại.
Thấy
vẻ mặt khách buồn buồn, kiệm lời bắt chuyện, cô bảo :
-“có chuyện buồn thì nói ra cho vợi
!”.
Tôi” tả oán”:
- đêm nay không biết ngủ ở đâu, giá
hàng hiên phòng mạch bác sĩ Phát rộng
rãi, thì ngủ nhờ sẽ tốt biết mấy?
và sau đành khai thật- không dám về
nhà trọ, vì thiếu tiền nhà.
-” chuyện ấy là thường tình, đêm nay hãy cứ ngủ cho ngon, mai
dậy tìm cách trả tiền thuê nhà xong, là
được chứ gỉ?, cô chủ an ủi.
Thấy nét mặt khách vẫn buồn so, lại
kiệm lời, cô bắt chuyện:
- vậy không thể về nhà trọ ngủ đêm
nay, thật vậy sao ?
- Tôi lắc đầu , buột miệng:
- giá hàng hiên phòng mạch bác sĩ
rộng, thì ngủ đại một đêm rối mai tính.
- Không ngủ được đâu, cảnh sát đi tuần đêm giờ giới nghiêm, sẽ
bị hốt lên xe cây đấy ?.
- Vậy phải làm sao thì chính tôi
cũng không biết nữa? Giá mà có một chỗ ngủ nhờ, chỉ mấy tiếng đồng hồ nữa là
hết giờ giới nghiêm rồi ?”
- Thế có người cho ngủ nhờ đêm nay,
thì sao? ”
- Cô chủ ơi, cô nói thật hay đùa vậy
?
Bỗng nhiên cô ra lời trước:
- Tôi bằng lòng cho ngủ nhờ,
liệu khách có đồng ý không, nếu đồng
ý, thì phải chịu một điều kiện .?
- Vậy đó là điều kiện gì, cô chủ ?
- Điều kiện nho nhỏ thôi, nghĩa là
anh phải chờ….…
….. chờ quán đóng cửa sau 11 giờ đêm
……….được không ông khách?
Tôi còn nói gì được bằng lời nữa,
chỉ còn biết cảm ơn ân nhân, vội vã gật đầu- vì cô chủ quán có lòng nhân từ thương xót tôi …
- Kẻ tội đồ kẻ khốn cùng trong đêm khuya vắng !
Khi người khách cuối cùng ra về, cô
chủ đưa chiếu, chiếc chăn mỏng , hai cái gối, bảo tôi hãy, trải chiếu trên sàn nhà và chỉ cách buông mùng.
Tôi làm xong, cô chủ chỉ tôi hãy nằm
xuống đó mà ngủ. .
Tôi thực hiện đúng lời cô chủ, đầu
tôi đặt trên 2 gối chồng, nằm nghiêng.
Giấc ngủ tới sớm khiến tôi thiu
thỉu lúc nào không hay, cả không biết
đèn tắt từ lúc nào ? !
Bỗng nhiên,
có người giằng một chiếc gối ra khỏi
đầu tôi,
tiếng động nhẹ làm tôi thức giấc.
Tôi mở mắt.
- Và lại không thể ngờ-
- Cô chủ cột lại mái tóc dài rồi nằm
cạnh.
Cảm ơn Thượng đế quá chừng chừng ! - mặc dù
khi ấy, tôi đâu đã là tín hữu đấng Christ !
Cô có dáng người dỏng cao, dài cẳng,
bây giờ gọi ” người nữ chân dài”, rất tử tế đối xử với tôi- hệt Natacha, nhân vật nữ trong một
truyện viết về mùa thu của Maxime Gorki.
Tôi vẫn thầm đội ơn cô chủ quán cà phê ấy, đến nay , tính ra đã trên 50
năm và không bao giờ còn gặp lại , dầu chỉ một lần! Hệt Gorki ân hận suốt đời, vì ông ta cũng
không một lần gặp lại nữ ân nhân Natacha
!
Có một lần, nhà thơ Ý Nhi, Trưởng
Chi nhánh Nxb Hội Nhà văn tại Phía Nam, nhờ tôi chở đến nhà bà Thục Oanh,
để trả bản quyền” Ta đã làm chi đời ta”
của Vũ Hoàng Chương mà Ý Nhi in - sẵn
dịp, tôi bèn phỏng vấn bà Thục Oanh về bài thơ “ Chúng ta mất hết cả rồi sao?” của chồng bà. Bà đồng ý ngay, đọc cho chép câu sai .( xem bài
đính chính.) Rồi tôi in thêm
tờ rơi , lồng vào sách” Chiêu
niệm 4 nhà văn Sài Gòn” trước khi đưa phát hành.
ĐÍNH CHÍNH
Trong sách “ Chiêu niệm bốn nhà văn Sài Gòn”
có một số chữ sai, ở bài” Một trong 12 bài di cảo của Vũ Hoàng Chương ( tr. 17)
đã được ĐinhThị Thục Oanh ( vợ VHC ) đính chính vào ngày 17 tháng 7 năm
1999. Buổi ấy, tôi cùng nhà thơ nữ Ý Nhi
đem sách tặng và thăm vợ nhà thơ quá cố Vũ Hoàng Chương. Chữ in đậm là đúng nguyên tác của tác giả.
Sáng chưa sáng hẳn tối chưa đành
Gà lợn om sòm cả bức tranh
Rằng vách có tai thơ có họa
Biết lòng ai đỏ
mắt ai xanh
Dấu hỏi xoay
quanh trọn kiếp người
Sên bò nát óc máu thắm rơi
Chiều nay một
dấu than buông dứt
Đanh đóng vào
xăng tiếng trả lời
Chúng ta mất
hết cả rồi sao ?
Cả đến âm thanh
một thuở nào !
Da trống tơ đàn
ôi trúc phách
Đều khổ như
khúc hát gầy hao
Đàn mang tiếng đáy mà không đáy
Mất hết rồi sao
sợi nhớ thương
Tay phách từ
lâu nay lạc phách
Không còn đựng
mãi bến Tầm Dương.
VŨ HOÀNG
CHƯƠNG.
( Trích “ Chiêu niệm 4 nhà văn Sài Gòn”/ Thế
Phong, Nxb Đồng Nai 1999- bài viết này có sửa lại.).
THẾ PHONG
No comments:
Post a Comment