Nói biết thêm, bởi cách viết của cô sinh viên ban Triết, Đại học Văn khoa Sài Gòn không có kiểu cách làm dáng, khô cứng thường thấy ở các cây bút mang khuynh hướng dùng ngôn ngữ “triết học tra tấn văn chương”. Văn chị cứ “tỉnh queo” đến lạnh lùng trong những tình huống mà lẽ ra là đón đợi những vồn vập, rực cháy, những háo hức nồng nàn… Đọc những truyện ngắn của chị, nhiều khi tôi nghĩ, chị như một kẻ lữ hành trên con đường vắng, không có người đồng hành để trò chuyện, đành phải dồn nén lại. Sự dồn nén đó cứ lướt thướt trôi theo dòng suy nghĩ chảy xọc vào ngòi bút, giống như một thỏi băng tan chảy.
Truyện ngắn đầu tay “Những ngày
không định trước” có cấu trúc dạng nhật ký nhằm giãi bày tâm trạng của một cô
gái trẻ, chính xác là một nữ sinh bậc cuối trung học đang vào những ngày cuối
cùng của kỳ thi Tú Tài và đang đợi người sẽ là chồng tương lai. Lẫn lộn giữa
chuyện thi cử, đậu rớt “chẳng mừng lắm” và “chẳng hề buồn hoặc toan
tính…” là tâm trạng chờ đợi và chẳng chờ đợi gì về chuyến gặp mặt người
yêu, ở một nơi đóng quân nào đó, sẽ đến nhà thăm gia đình nàng. Tình yêu của cô
nữ sinh trung học với anh chàng quân nhân tên Thăng lơ lửng một cách lạnh lẽo.
Họ gần bên nhau mà như xa cách nhau, không hề biểu lộ một tình cảm đặc biệt của
những kẻ khao khát yêu, khắc khoải đợi chờ những nụ hôn cháy bỏng. Cứ giả định
rằng, nếu Thăng không đến, hẳn cô gái kia cũng chẳng băn khoăn đặt những câu
hỏi tại sao. Bởi có gặp hay không thì cũng như chuyện đậu và rớt Tú tài vậy
thôi trong suy nghĩ của cô trước đó.
Trong khoảng thời gian chờ đợi,
quanh quẩn trong đầu óc nàng là những hoài nghi. Nàng cố gắng lý giải về mối
tình đầu. Mối tình này có “tồn tại” hay không “tồn tại” trong cô. Thăng có thật
là chồng tương lai? Và cô, cuối cùng chỉ còn lại mối hoài nghi cứ ngày càng
trương phình lên: “Tôi chịu không biết ra sao cả cũng như nhiều lần tự hỏi
tôi yêu Thăng, chúng tôi có thật yêu nhau hay mỗi đứa chỉ yêu những điều lý thú
do cuộc tình này mang lại”.
Cách lý luận, suy nghĩ của cô gái
hơi lạ và ngược đời khi tách tình yêu thành hai mảnh thật và không thật. Hai
mảnh đó nảy sinh ra “những điều lý thú do cuộc tình này mang lại” như là mệnh
đề tiên quyết để biết “có thật yêu nhau”. Như vậy, cô gái trẻ đã phân thân với
những thắc mắc, những cật vấn về mối tình, mà ngay cả chính bản thân cô ta cũng
không chắc chắn lắm!
Trong truyện không hề thấy có một
dòng chữ nào, theo dạng “lỡ mai anh chết em có buồn không”, hay: “Mai anh về
trên đôi nạng gỗ / Bại tướng về làm gã cụt chân – Linh Phương”. Các chi tiết
trong truyện không đẩy lên theo kết cấu kịch. Nó cứ lặng lẽ chảy như một dòng
nước nhỏ, vừa vặn cho kích thước tra hỏi. Bóng dáng vật vờ giữa yêu hay chưa
yêu luôn xuất hiện trong đầu cô gái trẻ, đôi lúc như một trò chơi, có cũng
được, nếu không cũng chẳng mất gì. Mà cũng đúng thôi, bởi truyện được viết xong
vào tháng 7 năm 1974 tại Bạc Liêu, khi mà bối cảnh cuộc chiến miền Nam đang lúc
cao trào cho những đợt tấn công, phản kích sau khi hiệp định Paris bị vất sang
bên để cả hai phía bắt tay nói với nhau bằng súng đạn. Tâm trạng hoài nghi, nỗi
thất vọng, mệt mỏi có dịp bùng lên ở cách sống, cách ăn nói, suy nghĩ của thanh
niên thời bấy giờ. Ngay chính những tình cảm liên quan đến cuộc sống và bản
thân, họ cũng không hề tin là có thật: “Thăng vẫn không thay đổi thế ngồi,
thế ngồi làm chúng tôi gần như đưa lưng về nhau”. Thế hệ trẻ thời đó đã
đánh mất niềm tin chăng? Họ mệt mỏi chán ngán chăng? Họ lúng túng một cách khá
vất vả khi tìm kiếm và đối mặt với những sự thật chăng? Có thể là vậy, bởi đời
sống bên ngoài đã lấy đi của họ tất cả, chỉ chừa lại nỗi hoài nghi sưng tấy
lên, ngày mỗi đầy trong đầu óc: “Có phải yêu nhau là tổ chức những đuổi bắt
miệt mài là tìm kiếm một điều đã gặp nhưng không cho là điều tìm kiếm. Tôi chợt
rùng mình sợ hãi khi chợt nhận thấy mình như một con kiến bò quanh quẩn mãi
trong một vòng tròn rất rộng”.
Truyện không có gì mới, vẫn theo
motif chàng là quân nhân, nàng là nữ sinh, yêu nhau. Nhưng có cái lạ là sự lạnh
lùng ở cả hai nhân vật cân bằng nhau, đến độ gần như dửng dưng, tàn nhẫn. Họ có
vẻ như già trước tuổi. Già ở tính cách và già cả tâm hồn! Đọc lại lần nữa, mới
hay chị luôn đặt bên cạnh ngòi bút của mình những dấu hỏi to tướng, chẳng có
câu trả lời: “Đậu, rớt, những tên gọi, những dấu hỏi vẽ lên không hề đem
theo được một hình ảnh vui buồn nào. Lạ không?”
Nhưng phải đợi đến 4 tháng sau, khi
truyện ngắn “Thăm viếng” đăng trên giai phẩm Văn, số đặc biệt Văn Chương Nữ
Giới ra ngày 1.2.1975, cùng với các đàn chị Nguyễn Thị Vinh, Trần Thị Tuệ Mai,
Hoàng Hương Trang, Trùng Dương, Nguyễn Thị Ngọc Minh, Trần Thị NgH. thì độc giả
mới thực sự chú ý đến cái tên Âu Thị Phục An. Nói chú ý bởi cấu trúc và nội
dung câu chuyện càng lạnh hơn; lạnh như một thỏi thép bỏ vãi đâu đó sau chái
nhà.
“Thăm viếng” thuộc thể văn kể
chuyện. Nhân vật chính xưng tôi (cùng em gái người yêu) đi thăm vị hôn phu đang
thụ huấn tại quân trường Thủ Đức. Ngay những dòng đầu tiên của truyện, dường
như chị đã báo trước cho người đọc sẽ có điều gì đó khác hẳn những cuộc thăm
viếng thông thường của những cặp tình nhân với bao nỗi chờ mong, khao khát, nhớ
nhung… bằng những dòng chữ tỉnh táo đến sắc lạnh: “Lần đầu tiên, cùng
với Viên lên thăm Vị ở quân trường ngày chủ nhật, lúc ấy tôi đã là vợ chưa cưới
của chàng rồi”. Tính cách của “tôi”, hoặc vì quá thông minh, hoặc được thụ
hưởng tính cách giáo dục của một gia đình nền nếp, nên “tôi” chỉ quan sát, đứng
ngoài mà quan sát, rồi để cho cảm xúc trườn qua sự quan sát ấy với một ý thức
xẻ ngang giữa tỉnh táo và đông cứng, đôi khi như tách biệt, đứng hẳn ra ngoài
rìa sự thăng hoa của loại tình cảm bị dồn ứ của các nhân vật phụ “tôi chỉ
thấy tội nghiệp cho mọi người”, khi tận mắt nhìn thấy: “…những bóng mát
tạm bợ và một vài chiếc lều được dựng vội vã nên trống trải và xiêu vẹo che
giấu một cách hời hợt những cặp tình nhân nằm với nhau bên trong. Những cặp
tình nhân hôn nhau, vuốt ve một cách tự nhiên như chung quanh họ là một nơi
riêng biệt vậy”. Ngoại cảnh đã tạt gáo nước lạnh buốt vào tâm giới “tôi”,
để nảy bật ra thứ tình cảm không mấy thân thiện. “Tôi” bị nhìn thấy về mọi sự
diễn ra bên ngoài cho đến lúc “tôi” tự nhìn lại “tôi” trong một khung cảnh đầy
bất ngờ không kém. Đó là lúc Vị tách “tôi” ra khỏi em gái anh ta, đưa vào một
gian buồng và “tôi” đã dùng sức mạnh lý trí đến mức tối đa để làm co quắp tình
cảm đang cháy bùng trong người. Bởi “tôi đủ thông minh hiểu để không hỏi han
gì”. Có thể và không hẳn là mặc cảm phạm tội, nhưng trước đó “tôi” đã nhìn
thấy cảnh phô diễn thứ tình cảm “nhếch nhác” rất tự nhiên ngoài khu tiếp tân
khoá sinh, khiến sự liên tưởng càng mạnh hơn với chỗ hai người đang đứng: “Một
căn phòng tắm lộ thiên, có thùng đựng nước, có quần áo lót của đàn bà vắt bừa
bãi trên dây”. Cú chạm mặt hơi bất ngờ vào vị trí hai người sắp yêu nhau
khiến “tôi” càng lúc càng rơi vào trạng thái căng cứng đến khó chịu. Ngay cả
khi hai người đang hôn nhau nơi không mấy sạch sẽ và thơ mộng kia, thì sự tỉnh
táo trong con người “tôi” vẫn luôn chiếm ưu thế. Những rung động thân xác khi
trao đổi nhau những nụ hôn khắc khoải đợi chờ của Vị đã bị “tôi” đẩy xuống, nằm
bẹp dí ở chỗ cái khoá soutien. Cảm giác đau nổi lên thật mạnh mẽ, thế chỗ cho
những ngọt ngào, nồng cháy... Nó lấn át cả sự háo hức, đón đợi nơi người bạn
trai để cuối cùng tạo thành mối tương quan cộng hưởng giả tạo ở động tác “dướn
người”: “Vị quay lại. Chàng hôn tôi. Bỗng tôi cảm thấy đau nhói lên ở phía
sau lưng vì chiếc soutien bị cấn vào vách ván. Tôi dướn người về phía trước làm
như đáp trả lại nụ hôn vội vàng của Vị nhưng thật ra để tránh cho phiến lưng bị
chàng ép mãi vào vách”.
Viết một cách trần trụi như thế này,
nhất là một nhà văn nữ, hẳn nhiên sẽ gợi sự tò mò đối với người đọc. Nhưng để
cho sự trần trụi không làm “tổn thương” đến các nhân vật trong truyện,
chị đã khéo léo che giấu đi những nhục cảm khi “tôi dướn người về phía trước”.
Động tác ấy không phải là sự cộng hưởng, đáp trả mà tác động bởi khoá móc
soutien. Vị thì không nhận biết ở chỗ một đằng cái khoái cảm bị đè xuống, đằng
kia thì cứ bốc cao lên. Một sự lừa dối ngọt ngào!
Trong quyển Văn học miền Nam, tập
Tổng quan, Võ Phiến có nhắc nhiều lần cái cynique trong văn học và ông
cho trâng tráo là cách viết, cách nói cực đoan của tinh thần hoài nghi,
thể hiện rất rõ thông qua các nhân vật của Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ
Vũ, Trần Thị NgH, Lệ Hằng… Và, đấy là hậu quả của “chiến tranh và hỗn loạn,
hoàn cảnh xã hội của giai đoạn 64-75 tạo cho người ta một lối sống khác hẳn
trước” (sđd, trg 292). Nhận xét này cũng có phần có cái lý của nó, khi mà
tầng lớp thanh niên có học luôn tự dằn vặt về những tha nhân, thượng đế, tồn
tại hay không tồn tại, những khách thể và chủ thể, sống và chết… trong bối cảnh
đất nước loạn lạc, đều ít nhiều ảnh hưởng bởi trào lưu triết học hiện sinh của
Pháp từ giữa thế kỷ XX.
Hiện tượng này cũng dần lấp ló nơi
một Âu Thị Phục An bắt đầu bước chân vào làng văn với cái cynique đầu
tiên trong truyện ngắn đầu tiên của chị, tuy có nhẹ nhàng hơn, kín đáo hơn các
nhà văn nữ đi trước. Mà cũng có thể là chị biết điểm dừng, biết kiềm chế, không
để cho sự “nổi loạn”, cái trâng tráo của bản thân đi quá xa, khiến người
đọc (thuở đó) bỗng có chút giật mình như cái kết ở truyện thứ hai này? “Thăm
viếng lần nữa? Ồ, không ai đủ can đảm đưa tay đập vào vết thương của mình lần
thứ hai. Không bao giờ. Căn phòng tắm lộ thiên. Cái móc soutien bị cấn và trăm
ngàn nỗi cùng quẫn trong đầu… Không bao giờ. Tôi im lặng nghe Viên an ủi. Im
lặng vì không biết phải phân bày như thế nào. Mà dù có phân bày chắc Viên cũng
không thể nào tin được việc ấy đã xảy ra”.
Cả giới văn nghệ lẫn độc giả chờ đợi
ở sự bứt phá của Phục An, như họ đã từng trông đợi sự thành công của những Tuý
Hồng, Trùng Dương, Nhã Ca… và gần hơn là Trần Thị NgH., Lệ Hằng. Nhưng tất cả
đều đặt dấu chấm hết, kể cả người viết mới lẫn những nhà văn đã thành danh, sau
ngày 30.4. Một quãng lặng khá dài, không ai cầm nổi bút, ngoại trừ một số rất
ít…
Phục An cũng nằm trong số đó và chị
chỉ viết trở lại chừng 5, 3 năm nay với hơn 10 truyện ngắn, nhưng phong cách
thì không còn giữ được như trước 75! Tất cả các truyện ở giai đoạn này, hầu như
nói về bạn bè một thời. Vị trí của họ bị thay đổi. Họ lao vào các công việc
chân tay để mưu sinh; họ thất chí, rượu chè bệnh tật và cái chết (“Dù chỉ một
lần cũng không thể”, “Trạm cuối”), hoặc về mối tình lỡ kể chuyện người thì
chồng chết vì tai nạn, kẻ thì tự ái về cách đối xử của vợ, bỏ nhà ra đi. Họ
tình cờ gặp nhau, tìm đến với nhau, chia sẻ nỗi bất hạnh, cô đơn và rồi hạnh
phúc bên nhau (“Mùa thu ẩm ướt”)…
Nhưng thay vào chỗ khuyết trên, Phục
An chuyển sang làm thơ, với một bút lực khá mạnh mẽ. Thơ chị xuất hiện khá đều
đặn trên các trang mạng văn học. Yếu tính trong thơ chị vẫn là phận người, nỗi
cô đơn chồng chất, những bất hạnh, sự bất lực và chút hạnh phúc mong manh. Đọc
những dòng thơ của Âu Thị Phục An, tôi có cảm giác như đang ngồi thiu thiu nghe
những khúc nhạc đồng quê theo dòng Bluegrass, bởi chị luôn lồng vào đó là những
câu chuyện, đôi khi như một truyện ngắn rút gọn:
Nàng đang tắm.
Nàng đang khỏa thân trong phòng tắm.
Nàng đang ngồn ngộn sức sống trong
kia.
Chàng đẩy cửa bước vô.
Nàng đang kỳ cọ liền khựng lại. Anh
muốn tắm? Không, anh muốn nhìn em thôi, em cứ tắm đi. Nàng nói. Coi chừng ướt
anh. Không sao mà. Nàng cười rồi vô tư tắm táp.
Bỗng dưng nàng quay lại nhìn chàng.
Anh muốn… không? Chàng ngập ngừng.
Nếu có thể.
Nàng chống hai tay vào tường, đưa
lưng về phía chàng. Nếu anh muốn, thì có thể mà.
Chàng lả đi trên giường. Cơn mệt lại
đến.
Bất lực trước cái chết, hai dòng
nước mắt trào ra, ngoằn ngoèo chảy loang trên khuôn mặt hốc hác của chàng.
Nàng đã cố gắng giúp đỡ chàng thật
nhiều.
(Lần cuối cùng trong phòng tắm).
Có dịp ngồi bàn về thơ Âu Thị Phục
An, nhiều bạn trẻ và nhiều trung niên cho rằng chị khai thác sex đến mức tối
đa. Sex như là hơi thở trong thơ chị. Tôi không nghĩ vậy. Bởi sau khi đọc những
bài thơ chị đăng trên các trang mạng, sex chỉ là cái cớ để chị bày tỏ thái độ,
cảm xúc của cá nhân trước những vòng xoáy thời cuộc. Vì ngay chính chị cũng
phải hứng chịu cảnh ngộ cay đắng đó. Chị không sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh sex
như một thứ tình dục luôn đắt hàng (chữ dùng của Nguyễn Thị Hải Hà trên
Văn chương Việt, rằng: “Sex Sells. Người Mỹ thường hay nói thế. Cái gì có
dính líu đến chuyện chăn gối thường dễ hấp dẫn người nghe người xem người mua
bán, như tôm tươi thường đắt hàng. Các nhà văn Hoa Kỳ khá dạn tay khi viết về
tình dục. John Updike, Philip Roth, Paul Auster, Joyce Carol Oates đều mang
tình dục vào tác phẩm”
Thơ Phục An cũng không dung tục như
Vệ Tuệ trong tác phẩm “Điên cuồng như Vệ Tuệ” (Trung Quốc), hay sàm sỡ thô bỉ
như “Sợi xích” của Lê Kiều Như. Đó là những thứ cặn bã, rác rưởi của loại văn
chương hạ cấp!
Tính dục trong thơ Phục An trong veo
như giọt sương mai, chỉ để diễn đạt nội tâm, giãi bày những ẩn ức về mặt tâm
lý, không hề có sự ức chế sinh lý. Những hình ảnh chúng ta bắt gặp trong
thơ, thông qua từ ngữ mang tính ẩn dụ nhiều hơn. Chị không dùng ngôn ngữ nhằm
phô diễn sức nặng vốn có của hình ảnh thông thường, mà hơn hết là để chuyển tải
tứ thơ. Vì, theo ông Đặng Tiến: “Nói đến lời trong thơ là nói đến từ ngữ,
hình ảnh và nhịp điệu, nói đến cả khoảng im lặng bên trong câu thơ, hoặc chung
quanh bài thơ…” (Đặng Tiến - Thơ, thi pháp và chân dung, trg 58, nxb Phụ
nữ, HN, 2009). Và: “Ý trong thơ, khác với ý trong văn xuôi, ở chỗ nó không
có giới hạn, không có kích thước. Tạm nói là nó mông lung, bất định” (sách
đd, trg 60).
Đọc nhiều lần, cảm quan của tôi về
thơ Phục An vẫn là: sex phi sex. Xin dẫn một bài thơ của chị:
bám vào lềnh bềnh vỉa hè/ những bộ
xương người cúi xuống nâng ly/ bám vào phù hoa/ những bộ xương người cúi xuống
nâng bi/ da thịt em trắng ngần/ ướp nhầy nhụa máu trinh/ dâng anh một lần/
toang hoác bình minh/ con gái/ run rẩy lột xác trên những mép giường/ em trượt
trên chất nhờn/ cay đắng/ của em/ nụ cười em hóa đá/ cứng đờ lút vào dung nham/
cơn hứng lậm vào khuya/ chờ giờ hóa thạch/ em muốn bám vào cội nguồn/ lần nữa
tái sinh/ vỉa hè ủ em/ hằng đêm/ và anh đẩy em/ tuột trôi vào lỗ cống muộn
phiền/ em muốn ngậm vào em/ con vật nào/ có thật. (thả trôi)
Cách dùng từ ngữ (langue) như lời
nói (parole) để diễn đạt ý như kiểu bài thơ “Thả trôi” trên đây rất dễ gây ngộ
nhận, hiểu lầm, chỉ vì chị mượn những thực thể, những hình tượng ngoại giới tạo
chất liệu cho cái tứ sâu xa bên trong, là những phiền muộn, đau đớn không cùng
của một kiếp người là thân phận bị xô dạt một góc “lỗ cống” nào đó chỉ có mình
chị mới bị trói chặt chân tay?
Rồi đến cái nhếch nhác ở một góc phố
nhỏ trong thành phố chị đang sống có những cái “phình phịch, hổn hển, leng
keng” giữa một bên là thánh thiện và bên kia là sự trần trụi đến nao lòng. Nỗi
buồn cuộn lên từ ngoại cảnh “bị nhìn thấy” là con đường nhỏ Huyền Trân “tai
tiếng”, dội ngược vào trí não tạo thành những sắc màu, những âm thanh:
cái đầu chó gặm mất rồi/ não văng
tứ phía/ mạch đập ở cổ còn phình phịch/ cái lưỡi tuột lại le ra/ trái tim
tím tái còn thở hổn hển/ hai cái chuông đồng treo hai đầu vú nhỏ/ đung đưa
bài thánh ca trên những sợi lông tơ/ núp sau gốc cây đường huyền trân công
chúa/ áo xống tuồng tích hoa lá cành/ nghiễm nhiên kiếm sống/ phố chảy
cuồn cuộn ánh đèn đêm/ những con rắn lửa nhảy múa dưới háng/ nàng và trong
miệng nàng/ cỏ ướt đẫm tinh trùng/ người ta vẫn thấy khoái/ khi ngồi tuốt
trên gác chuông/ nhà thờ đức bà/ làm dáng/ với những hình nhân cục cựa dưới
chân đèn/ luôn nẩy ngược và rên/ thành phố không buồn ngủ/ thành phố nằm
ngửa nàng lại lắc leng keng/ hai cái chuông treo trên hai đầu vú/ nhỏ/ muộn
phiền (lắc chuông).
Đọc những câu thơ này, nghe ra thơ
không phải là thơ, càng không phải văn xuôi. Nó là sự sắp đặt cố ý của người
viết, như trong các thập niên 50, 70 của thế kỷ trước, Thanh Tâm Tuyền đã cách
tân thơ bằng cách “phá vỡ cái vỏ ngữ âm của câu, hay bài thơ… tháo gỡ guồng
máy ngôn ngữ ra từng bộ phận rồi lắp ghép lại thành những chức năng mới, trong
văn bản mới” (nguồn: Đặng Tiến, http://www.diendantheky.net/2012/03/ang-tien-thanh-tam-tuyen.html).
Không thể nói Phục An chịu hay không
chịu ảnh hưởng của Thanh Tâm Tuyền, nhưng chắc chắn một điều là chị đã chọn lựa
thơ tự do như là môi trường tốt nhất cho sự sáng tạo của mình, để hoàn thành
chức năng “tra vấn và trả lời” như nhà văn Alain Robbe-Grillet đã từng khẳng
định, rằng đó chính là thiên chức của nhà văn.
Không ai có thể ngăn cấm nhà văn:
thôi đừng phẫn nộ, đừng chua chát, rời xa bi kịch đã rồi của dân tộc. Cái ngóc
ngách đau đớn cùng tận kia, trước nhãn quan của nhà văn là thượng đế trên chính
mảnh đất mình, được Phục An giải mã bởi những hình ảnh chồng chất nhau, níu kéo
nhau, tạo thành những chuỗi âm thanh bi phẫn:
nàng xõa tóc
chạy dưới nắng tháng tư
hai cái mông tròn huyền hoặc
đung đưa
bình minh rọi những tia nắng đen
điên cuồng qua nách
cát nhảy dưới gót chân bất hạnh
máu ứa từ môi thâm
tháng tư đuổi từ sau lưng
xương rồng đâm lên vú
biển ôm nàng ngất ngư
nắng của tháng tư rơi từ một bình minh đen tối
nắng cũng rơi từ âm cung mê lối
chạy đi tìm bóng của ảo tưởng xưa xa
ngày về rất vội
về dù dòng sông quê hương chật chội...
chỉ muốn trần truồng gào khóc những điêu linh.(Bình minh đen)
chạy dưới nắng tháng tư
hai cái mông tròn huyền hoặc
đung đưa
bình minh rọi những tia nắng đen
điên cuồng qua nách
cát nhảy dưới gót chân bất hạnh
máu ứa từ môi thâm
tháng tư đuổi từ sau lưng
xương rồng đâm lên vú
biển ôm nàng ngất ngư
nắng của tháng tư rơi từ một bình minh đen tối
nắng cũng rơi từ âm cung mê lối
chạy đi tìm bóng của ảo tưởng xưa xa
ngày về rất vội
về dù dòng sông quê hương chật chội...
chỉ muốn trần truồng gào khóc những điêu linh.(Bình minh đen)
Và, dẫn thêm bài thơ khác để nhấn mạnh thiên chức nhà văn
trong ngòi bút chị:
tôi rất buồn
khi đi trên những con đường không còn vỉa hè
khi
(…) ngồi rung đùi trong nhiều biệt thự
spa, resort, hotel năm sao, du lịch Thái Lan, Sing, Trung Quốc
những cái chợ tự phát bên lề đường không cần đóng thuế
những “gái chợ đông” ôm thúng co giò chạy khi thấy công an
những “trai giữa chốn ba quân” trơ mặt chạy xe ôm nám đen khuôn mặt
khi đi trên những con đường không còn vỉa hè
khi
(…) ngồi rung đùi trong nhiều biệt thự
spa, resort, hotel năm sao, du lịch Thái Lan, Sing, Trung Quốc
những cái chợ tự phát bên lề đường không cần đóng thuế
những “gái chợ đông” ôm thúng co giò chạy khi thấy công an
những “trai giữa chốn ba quân” trơ mặt chạy xe ôm nám đen khuôn mặt
tôi rất buồn
khi đất nước tôi
chạy theo (…)
20 năm máu lửa chết chóc xảy ra.
khi đất nước tôi
chạy theo (…)
20 năm máu lửa chết chóc xảy ra.
(Năm mới vẫn không có gì mới)
Thế giới thơ của Phục An đa chiều,
rộng nghĩa. Chị đã phá bỏ những luật lệ trong thơ cổ điển (như nhiều nhà thơ đi
trước đã từng làm) để tìm kiếm cái đẹp, dẫu cho cái đẹp ấy hàm chứa bao nỗi
nhục nhằn của một kiếp người. Tuy nhiên, khi đến với thế giới thơ Phục An, nếu
chỉ lướt qua, một lần thì dễ bị những ẩn ngữ kia đánh lừa, bởi bề ngoài ngôn
ngữ mang đầy chất phồn thực, lớp lớp những khoái cảm của tính dục là “những
khắc khoải, thao thức về thân phận, khát vọng làm người của một con người” như
chị đã từng tâm sự.
Đa chiều và rộng nghĩa chỉ khi nào
người đọc chịu khó đào xới ở dưới tầng sâu để thấy được cái ý ẩn nấp trong lời,
như một vì sao lạ giữa muôn ngàn tinh tú giữa tầng không mênh mông.
Chị là người đã miệt mài mang thơ đi
tìm sự tự do tuyệt đối trong khoái cảm tính dục, vất vả lăn tới chân trời xa
lạ, mà ở đó cái đẹp là những câu trả lời từ những tra vấn liên tục về phận
người?
(tháng 3/2012)
NGUYỄN LỆ UYÊN
_______________________
Âu Thị Phục An: Tên thật là Âu Thị Nguyệt Thu, sinh năm 1954, từng đoạt giải thưởng truyện ngắn do báo Dân Chủ tổ chức, 1974. Cựu Sinh viên Văn Khoa Sài gòn. Có thơ văn đăng trên các báo trước 1975, và trên trietvan.com, damau.org, tienve.org, vanchuongviet.org, sangtao.org, litviet.com, hopluu.net... ...sau 1975. Hiện sinh sống tại Sàigòn.
Âu Thị Phục An: Tên thật là Âu Thị Nguyệt Thu, sinh năm 1954, từng đoạt giải thưởng truyện ngắn do báo Dân Chủ tổ chức, 1974. Cựu Sinh viên Văn Khoa Sài gòn. Có thơ văn đăng trên các báo trước 1975, và trên trietvan.com, damau.org, tienve.org, vanchuongviet.org, sangtao.org, litviet.com, hopluu.net... ...sau 1975. Hiện sinh sống tại Sàigòn.
Tác phẩm đã in :
- Nguyệt Thực, thơ, 2009, nxb Lưu Ly
- Im lặng và nghe, 48 tác giả nữ,
2009, nxb Lao động
- Văn miền Nam, in chung, 2009, Thư
ấn Quán, HK
- Tác giả tác phẩm Người Đồng Hành
Quanh Tôi, in chung, tập 3, 35 tác giả, Thanh Niên, 2011 .
No comments:
Post a Comment