Bài viết dưới đây của nhà nghiên cứu Nguyễn Xuân Xanh cung cấp thêm một cái nhìn về chiều sâu văn hoá Nhật Bản, tuy chỉ nói về văn hoá đọc sách “khủng”, và những con số “khủng” khác về giáo dục, nhưng cũng giúp chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Nhật Bản nhanh chóng hơn bất cứ quốc gia nào khác đã là quốc gia đầu tiên của phương Đông xây dựng một nền công nghiệp phương Tây và trở thành cường quốc. Suy cho cùng, cuộc canh tân nào, muốn thành công, cũng cần một văn hoá đọc “khủng”, và văn hoá học tương ứng. Không có văn hoá đó, mọi cuộc canh tân sẽ không tránh khỏi què quặt. Vì thế, xin giới thiệu với bạn đọc…
Tại sao người Nhật mê đọc sách?[1]
Không có thú vui nào trên thế giới
có thể so sánh được với thú vui đọc sách. Khi người ta cảm nhận được sự đàm
thoại riêng tư với thế giới người hiền, thì đó là thú vui duy nhất không lệ
thuộc vào người khác.
Kaibara Ekken (1630-1714)
Chúng ta có thể nhân bản hơn bằng
cách trở thành hoàn vũ hơn.
Okakura Tenshin (1862-1913)
Tóm tắt. Những lý do nào khiến dân tộc Nhật
đã có một văn hoá đọc có thể nói vào bậc nhất thế giới? Văn hoá đọc này
không phải chỉ bỗng dưng bùng nổ vào thời Minh Trị Duy Tân 1868 khi đất nước
được mở cửa, hướng về phương Tây, mà có gốc rễ sâu xa từ thời Tokugawa
1600-1868, từ lúc dân tộc chỉ có văn hoá võ sĩ trên chiến trường, từ lúc thầy
tu khoẻ mạnh cũng muốn ra trận để thi thố tài năng đi tìm hạnh phúc. Cách đây
300 năm Nhật Bản đã có những con số “khủng” về giáo dục và văn hoá đọc. Những
lý do nào khiến cho một dân tộc võ sĩ lại trở thành mê đọc sách như thế? Và đọc
sách để làm gì? Tại sao không phải các dân tộc có truyền thống văn sâu
đậm như Trung Hoa hay Việt Nam mà lại một dân tộc có truyền thống võ như
Nhật Bản? Hai trăm sáu mươi năm tự đóng kín cửa như “hến” sau khi đuổi hết
người truyền giáo phương Tây khỏi nước (cùng thời với Việt Nam), nhưng tại sao
mảnh đất Nhật Bản lại “ngậm” được viên ngọc ‘Tây học’ (Western learning,
thông qua ‘Lan học’, Rangaku) hình thành bên trong, từ chất “nọc độc của
người man di”, để rồi viên ngọc khai minh đó biến thành quốc sách thời
Minh Trị? Một sự lặp lại kỳ thú của lịch sử: châu Âu đã từng có cuộc dịch
thuật vĩ đại thế kỷ 11 và 12 lúc đại học châu Âu ra đời để làm nền tảng
phát triển khoa học và văn hoá, thì tương tự, ở phương Đông, Nhật Bản cũng đã
có cuộc dịch thuật vĩ đại của mình trong hai thế kỷ thời đóng cửa, giúp
chuyển hệ hình tư duy kiểu phong kiến Trung Hoa sang hệ hình khoa học
hiện đại phương Tây dù tầng lớp trí thức ở Nhật Bản chịu ảnh hưởng rất sâu đậm
của Khổng giáo, có thể sâu đậm hơn cả giới trí thức Việt Nam cùng thời. Cuộc
dịch thuật là khó nhọc và không kém phần nguy hiểm, nhưng trí thức Nhật Bản đã
thể hiện tinh thần trách nhiệm cao cả của mình đối với quốc gia, rằng họ
không thể yêu nước trong sự vô minh. Đọc sách là việc làm của lòng yêu
nước, không phải chỉ để thưởng ngoạn, mà để khai minh và khai sinh một
thời đại mới cho đất nước. Đọc sách là thuộc tính của một dân tộc văn hoá có ý
thức. Họ không sợ học của kẻ thù, chỉ sợ ngu muội vì không học. Và họ đã thành
công.
Người ta đã từng nghe nói về sự đọc
sách khủng của người Nhật thời Minh Trị Duy Tân, cách chúng ta hôm nay
ngót một thế kỷ rưỡi. Thí dụ minh hoạ thường là quyển sách Bàn về Tự
do, On Liberty, của John Stuart Mill. Sách được xuất bản ở Anh năm 1859,
cùng năm với tác phẩm “Thuyết tiến hoá” của Charles Darwin. Bàn về Tự do
là một quyển sách rất có ảnh hưởng ở phương Tây, và ngày nay vẫn còn tiếp tục
được đọc. Khi được dịch sang tiếng Nhật quyển sách đã bán trên triệu bản.
Một quyển sách khác, có lẽ ít được
biết hơn đối với độc giả Việt Nam, là Tự lo, Self-Help của Samuel
Smiles. Quyển sách này là best-seller ở phương Tây, đến cuối thế kỷ 19 bán được
số lượng 250.000 ở Anh Mỹ, nhưng khi được Nakamura Masanao, một học giả Khổng
giáo từng học bên Anh, dịch sang tiếng Nhật những năm đầu của thời Minh Trị thì
quyển sách bán đến một triệu bản! (Nakamura cũng là người dịch quyển Bàn về
Tự do) Một con số thật “khủng” nếu ta biết rằng thời đó dân số Nhật Bản chỉ
khoảng trên 30 triệu thôi. Self-Help là một trong ba quyển sách được gọi
là “Bộ kinh thánh Minh Trị” có sức hút mãnh liệt đối với người Nhật,
nhất là giới trẻ, trong giai đoạn đất nước đổi mới của Nhật Bản. Cuốn sách Tự
lo thể hiện tinh thần độc lập tự chủ của các cá nhân, và từ đó làm cho quốc
gia độc lập và tự chủ. Cuốn sách mượn lời của J.S. Mill ngay trang đầu: “Giá
trị của nhà nước, xét lâu dài, là giá trị của các cá nhân cấu thành.” Đó là
tín hiệu mà quyển sách muốn truyền đạt: Muốn có một đất nước mạnh, độc lập,
phải có những cá nhân mạnh và độc lập, thông qua tự rèn luyện, tự lo. Đó là
điều kiện tiên quyết.
Nói chung vào thời mở cửa Minh Trị
Duy Tân, dân tộc Nhật lên cơn sốt đọc sách nước ngoài để biết phương Tây đã làm
gì và đang làm gì mà “nước giàu quân mạnh” như thế. Họ muốn biết và muốn học,
để xây dựng đất nước hùng mạnh như các cường quốc phương Tây. Chỉ có được một
nền văn hoá lớn, một xã hội phú cường, khi nào mọi người được học như nhau, khi
mọi người có quyền ao ước và có điều kiện vươn lên khỏi chức phận cũ của mình.
Tinh thần này, ethos, được diễn tả mạnh mẽ trong tác phẩm “Khuyến học”, Gakumon
no susume, của nhà khai minh Fukuzawa Yukichi (1835-1901): “Con người không
sinh ra cao quý hay thấp hèn, giàu sang hay nghèo khó. Chính những ai lao động
siêng năng ở những công việc tìm tòi của họ, và học nhiều, sẽ trở thành cao quý
và giàu có, trong khi những ai biếng nhác sẽ trở thành nghèo khó, thấp hèn.”
Hai sự kiện sau đây ở thế kỷ 20 minh
hoạ thêm óc tò mò học hỏi đặc biệt của người Nhật, điều mà các nhà truyền giáo
phương Tây đã ghi nhận khi tiếp xúc với những dân tộc này, so sánh với các dân
Trung Hoa hay Hàn Quốc mà họ biết trước đó. Năm 1922 khi Einstein thực hiện lời
mời sang thăm và diễn thuyết khoa học tại Nhật thì nước Nhật vừa có ngay một
tuyển tập Einstein gồm bốn quyển. Lúc đó không đâu ở châu Âu hay ở Mỹ có tuyển
tập này. Tương tự, ba năm trước đó, 1919, Nhật Bản cũng là nước đầu tiên xuất
bản tuyển tập Các Mác, Ăng-Ghen. Cũng không đâu trên thế giới, kể cả
Nga, Đức là những nơi có phong trào xã hội chủ nghĩa mạnh nhất thế giới có
tuyển tập này. Người Nhật quả muốn biết hết những nghĩ gì thế giới trước đó.
Công ty ra đời đầu tiên thời
Minh Trị Duy Tân kinh doanh gì? Được sách sử ghi lại, đó là công ty nhập khẩu
và kinh doanh sách Maruzen của Hayashi Yuteki. Năm 1869 ông Hayashi
Yuteki mở công ty đầu tiên tại Yokohama có tên Maruya, và năm sau mở thêm cửa
hàng thứ hai tại Nihonbashi, khu phố cổ trung tâm sầm uất và thời trang nhất
của Tokyo lúc bấy giờ! Năm 1880 Hayashi chuyển doanh nghiệp chính thức thành công
ty TNHH Maruzen. Sách là mặt hàng đi đầu trong “cuộc chấn hưng dân
khí”. Phần lớn các học giả và nhà văn đều là khách hàng của Maruzen, trong đó
có hai nhà văn lớn Akutagawa Ryunosuke và Natsume Sōseki. Hayashi Yuteki
vốn là một thầy thuốc hành nghề rồi sau đó trở thành học trò của nhà khai minh
Fukuzawa Yukichi. Ngoài các hiệu sách, Maruzen còn xuất bản một nguyệt san cho
giới văn sĩ, học thuật có tên “Ánh sáng của Khoa học”, Gakutō. Một thời
gian dài Maruzen là cửa sổ duy nhất nhìn ra phương Tây. [Công ty sách này ngày
nay vẫn còn tồn tại, hoạt động rộng rãi, có doanh số năm 1996 hơn một tỉ Euro
với 2.100 nhân viên. Khách hàng của họ là nhiều đại học, cơ quan chính quyền và
viện nghiên cứu.]
Chúng ta tự hỏi vì đâu mà người Nhật
lại có cái đam mê đọc sách cuồng nhiệt và sự đánh giá cao sách vở như thế? Có
phải dân tộc này chỉ mê đọc sách thời Minh Trị khi bừng tỉnh sau ‘cơn ngủ đông’
mấy trăm năm trước đó không? Dân tộc Trung Hoa cũng từng ngủ đông dài như thế,
và một số dân tộc khác cùng dòng văn hoá Khổng Mạnh, nhưng tại sao không có cái
đam mê đọc sách như dân Nhật?
Một truyền thống lâu đời
Thực ra người Nhật đã có truyền
thống đọc sách khủng lâu đời, ít ra từ thời Tokugawa 1600-1686. Trong
thời đầu của Tokugawa Ieyasu, người thống nhất đất nước và lập nên triều đại
Tokugawa hoà bình 265 năm lâu dài nhất lịch sử, thì chuyện một samurai có thể
diễn đạt được ý tưởng của mình một cách mạch lạc trên giấy trắng mực đen là
điều hi hữu, và tình trạng mù chữ là bình thường. Văn hoá Nhật Bản trước
1600 là văn hoá võ sĩ. Nhưng vào cuối thế kỷ 18, có thể nói một samurai mù chữ
là một điều hụt hẫng đáng buồn, và tới giữa thế kỷ 19, tình hình lại khác nhau
một trời một vực.
Trong thời Genroku (1688-1704),
được xem là thời vàng son của Tokugawa với kinh tế ổn định, nghệ thuật và văn
chương phát triển, Nhật Bản đã có một hệ thống xuất bản sách hiện đại đáng ngạc
nhiên, đặc trưng bởi sự hiện hữu của nhiều nhà xuất bản lớn, nhiều nhà minh hoạ
sách có tiếng và nhiều nhà văn tên tuổi. Sách thường được xuất bản với số lượng
đến hơn 10.000 bản! Đây là một con số “khủng” thời đó; Nhật Bản lúc đó chỉ có
chừng 20 triệu người, vì thời Minh Trị dân số Nhật Bản khoảng 30 triệu. Năm
1692 Nhật Bản cũng đã từng có những bộ danh mục hàng chục tập về các sách in
dành cho công chúng sử dụng. (Hiện nay VN chưa có được những bộ danh mục như
thế tại các nhà sách).
Con số phát hành 10.000 bản là rất
đáng ghen tị cho những nhà xuất bản và tác giả Việt Nam hiện nay, đất nước với
gần 90 triệu dân. Trong gần mười năm qua từ khi loại sách khai trí bắt
đầu xuất hiện, có mấy tác giả nào có số ấn bản tương đương như thế? Cho nên số
ấn bản 10.000 của người Nhật thời Tokugawa cách đây 300 năm quả là con
số “khủng”! [Việt Nam lúc bấy giờ đang trong giai đoạn Trịnh Nguyễn phân tranh,
không hiểu giáo dục và văn hoá đọc sách ra sao.]
Thương mại sách ở Nhật bắt đầu phát
triển mạnh từ đầu thế kỷ 17. Giới đọc sách truyền thống như quý tộc, tu sĩ và
thượng lưu trong thành phố được mở rộng sang các giới đại chúng. Mặc dù số
lượng phát hành cao, nhưng không đủ đáp ứng nhu cầu đọc sách của các tầng lớp
dân chúng, văn hoá đọc sách thuê, ra đời trong thời Kan’ei (1624-44),
trở nên phổ biến, đặc biệt tại các thành phố lớn như Edo, Kyoto và Nagoya. Các
cửa hàng cho thuê sách, kashihonya, đóng vai trò quan trọng ở đây. Cuối
thế kỷ 18 các cửa hàng cho thuê sách có mặt khắp nơi ở Edo (tức Tokyo) và các
tỉnh. Khách hàng được phục vụ bởi những người đi rong mang thùng sách trên
lưng. Sách vở có thể đi đến tận các hải đảo xa xôi. Edo có 650 cửa hàng cho mượn
sách năm 1808, nhưng đến 1832 đã có tới 800. Edo có dân số khoảng hơn triệu, và
tỉ lệ biết chữ lên đến 70%. Một cửa hàng cho mượn sách ở Nagoya, tên Daisō
của Sōhachi, như lịch sử còn ghi, được thành lập năm 1767 và hoạt động 132 năm
liền, đến khi chấm dứt hoạt động có một danh mục đến 26.768 quyển sách cho
mượn.
Nhật Bản thế kỷ 18 có những thành
phố lớn phát triển với dân số tập trung cao như châu Âu. Edo có trên một triệu
dân, nhất thế giới, hơn cả Paris. Các thành phố khác như Osaka có con số non
một triệu. Nhật Bản có văn hoá thành thị, có cả văn hoá salon (zashiki),
đời sống sung túc rõ nét như ở châu Âu thời Trung cổ. Và đó cũng là điểm hấp
dẫn đối với giới thương nhân nước ngoài khi họ kêu gọi Nhật Bản mở cửa. [Việt
Nam lúc đó chưa được như thế về mặt phát triển kinh tế.]
Chúng ta hỏi: Từ đâu người Nhật
có sự đam mê đọc sách như thế? Động lực nào?
Nguồn gốc đọc sách: văn đi trước võ
Sự học tại Nhật Bản trước 1600 là
độc quyền của giới quý tộc và tăng lữ, nhưng đến thời Tokugawa trở thành công
việc của cả nước. Năm 1615 tướng quân Tokugawa Ieyasu, sau khi đã bình định
được gần ba trăm phiên trấn (han), thiết lập nên một thể chế chính trị
gần như liên bang, phát đi mệnh lệnh như một ‘big bang’ cho các đại danh, daimyō,
chủ phiên trấn và các võ sĩ, samurai: Điều 1 của mệnh lệnh nói: “bun
bên tay trái, bu bên tay phải”. Bun là văn, sự học, là cây bút,
trong khi bu là võ, nghệ thuật chiến tranh, từ đó chữ bushi là võ
sĩ, bushido là võ sĩ đạo. Như thế Điều 1 nói “quyển sách bên tay trái,
thanh gươm bên tay phải”, và văn đi trước võ, để có thể trị nước lâu bền. Các
võ sĩ Nhật dần dần trở thành giai cấp cầm quyền có học. Ở Nhật Bản, cầm
quyền là việc của giai cấp của samurai, cha truyền con nối, không phải việc của
các Khổng nho như ở Trung Hoa hay Việt Nam, Triều Tiên. Khổng nho cao lắm chỉ
được làm tư vấn với đồng lương thấp. Nhật Bản cũng có xếp hạng “sĩ, nông, công,
thương” (shi, nō, kō, shō) dưới ảnh hưởng của Khống giáo Trung Hoa,
nhưng ở đây sĩ không phải là nho sĩ, mà là võ sĩ.
Các daimyō giờ đây phải học
văn hoá, các loại khoa học và nghệ thuật quản lý đất nước. Một daimyō có học
phải đọc sách hằng ngày. Để phục vụ cho việc học tập của daimyō, và các gia
thần, thư viện được thành lập, sách vở được sưu tầm một cách qui mô, và trở
thành biểu tượng cho tri thức. Thư viện bao gồm các loại sách về lịch sử Nhật
Bản và Trung Hoa, các sách về Khổng giáo, Phật giáo và Thần giáo; sách về nghệ
thuật quân sự, chiến lược quân sự, địa lý, thiên văn, kinh tế, toán học, y khoa
và vô số sách về văn chương cổ điển. Bản thân tướng quân Ieyasu từng lập thư
viện cho mình. Nhật Bản mỗi thời đều có những thư viện nổi tiếng, nhưng vào
thời Tokugawa, Nhật Bản có nhiều thư viện nhất chưa bao giờ thấy trước đó.
Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đã ghi lại trong “Tây dương sự tình” sự quan
sát đặc biệt của ông về các thư viện phương Tây khi ông có dịp đi tham quan:
Trong những thành phố lớn của phương
Tây đều có các sưu tập sách được gọi là “thư viện”, ở đó tất cả được sưu tầm,
từ sách cho nhu cầu hàng ngày đến những loại sách hiếm, và sách trong nước cũng
như từ nước ngoài. Người dân đến và có thể đọc quyển sách mình muốn, dù không
phải là mỗi ngày. Thư viện Anh có 800.000 quyển, của St. Peterburg 900.000, và
của Paris 1,5 triệu. Người Pháp nói rằng, nếu đem tất cả sách xếp nối đuôi nhau,
chúng ta sẽ có một chiều dài 7 dặm.
Phát triển giáo dục
Văn hoá đọc sách gắn liền với
giáo dục. Tokugawa là thời kỳ của sự bùng nổ giáo dục, hệ thống trường học,
phục vụ cho nhiều đối tượng, nhiều đẳng cấp, trường trung ương của shogun,
trường phiên của các daimyō, trường tư, cho dân thường và trường hỗn hợp cho cả
samurai và dân thường. Vài con số dưới đây sẽ làm chúng ta thêm ngạc nhiên để
thấy mối tương quan giữa văn hoá đọc và giáo dục.
Ngoài những trường chính thống dành
cho giai cấp samurai của Mạc phủ, như “Hàn lâm Khổng giáo”, Shōheikō,
thành lập năm 1630, và trường của các phiên, còn có các loại trường như trường terakoya
cho thường dân; trường gōgaku dành cho cả con em samurai lẫn thường dân
học chung, được chính thức hỗ trợ từ nhà nước, báo trước loại giáo dục hiện đại
phi đẳng cấp sẽ ra đời thời MinhTrị. Ngoài ra có loại trường tư thục, shijuku,
private academies, với khoảng 1.500 trường, từ qui mô nhỏ vài ba chục đến qui
mô lớn cả ngàn sinh viên, cạnh tranh với các trường trung ương hay trường
phiên, dành cho cả samurai và thường dân mọi tầng lớp.
Tại phiên Chōshū, một trong những
phiên quan trọng trong việc lật đổ Mạc phủ để phục hồi thiên hoàng, nhiều
samurai nổi loạn và trở thành lãnh đạo của chính phủ Minh Trị đã từng là học
trò của nhà yêu nước Yoshida Shōin (1830-1859) tại trường tư thục do ông thành
lập. Shijuku thường phục vụ cho giáo dục cao cấp (advanced education),
đi vào nghiên cứu, là trường của những người muốn tiến thân vào học thuật. Đó
là loại trường “vườn ươm nhân tài”, bất kể từ đâu đến, samurai hay thương gia,
thầy tu, tạo nguồn nhân lực quốc gia, jinzai (nhân tài, human resource),
điều cũng được các giới chính quyền trung ương và địa phương ủng hộ. Theo
tinh thần của jinzai, việc tuyển mộ nhân sự được dựa trên cơ sở tài năng
hơn là nguồn gốc thân thế, và tài năng có thể đi từ phiên này sang phiên khác
sống. Ngoài ra còn các trường dạy nghề và trường tôn giáo.
Năm 1868 khi Nhật Bản Minh Trị bắt
đầu cuộc duy tân, cả nước đã có 17.000 trường đủ mọi loại! Đây cũng là
một con số ‘khủng’ nữa. Hàng triệu người đã được học hành. [Việt Nam có được
bao nhiêu trường học và học sinh lúc đó? Nam Kỳ lúc đó vừa trở thành thuộc địa
Pháp.] Có một ước tính theo đó cuối thời Tokugawa Nhật Bản có khoảng trên 40
phần trăm con trai và 10 phần trăm con gái nhận được giáo dục ngoài gia đình.
Nhà nước không sợ sự phát triển giáo dục trong nhân dân, và dân chúng cũng đồng
tình để cải thiện vị trí xã hội của mình. Phát triển đất nước cần những người
có học. “Việc đầu tiên cần thiết cho sự trị vì một nhà nước là năng lực con
người. Mà năng lực con người thì đến từ sự học” như học giả Khống giáo Dazai
Jun (1686-1747) viết.
Qui mô của trường Nhật cũng không kém phần ngạc nhiên. Trường Shōheikō
được xây dựng lại năm 1799 thực tế không phải là một ngôi trường, mà là một campus
to lớn, nhiều dãy nhà ngang dọc, nhiều đường phố trong đó, với một đền thờ
Khổng tử lớn tại trung tâm, nó là một cái làng học thuật và đào tạo đúng hơn là
một cái trường đơn giản theo quan niệm của chúng ta. Trường Nisshinkan
tuy có thể nhỏ hơn nhưng cũng rất lớn. Chúng ta biết rằng tại Hoa Kỳ, các đại
học dạng campus hình thành chủ yếu từ Luật giao đất Morrill năm 1862
trước khi cuộc nội chiến chấm dứt. Phải chăng, xét về qui mô, các trường của
Nhật Bản thời Tokugawa đã đi trước các đại học campus của Mỹ gần cả trăm
năm?
Nước Nhật bước vào hiện đại hoá
không phải từ tro tàn của chế độ cũ, mà ngược lại, được xây dựng trên một nền
móng văn hoá đã phát triển cao, đa dạng về nội dung học, và vững chắc. Năm 1872
(cũng là năm sinh của cụ Phan Châu Trinh), tức chỉ bốn năm sau khi vua
Minh Trị được phục hồi, một chế độ giáo dục cưỡng bách toàn dân được thực hiện
trên khắp nước Nhật, một kỳ công. Điều này sẽ khó có thể được nếu Nhật Bản
Tokugawa không có gì cả. Năm 1900 Nhật Bản có tỉ lệ người biết chữ cao hơn tỉ
lệ của Anh. Đó là một môi trường văn hoá tốt và thiết yếu cho sự phát triển
mạnh của khoa học và kỹ thuật.
Nếu đầu thời kỳ Tokugawa lưỡi
gươm là quan trọng, thì vào cuối thời Tokugawa thì quyển sách là
quan trọng hơn.
Trước áp lực của nguy cơ nước ngoài
sự học cổ điển dần dần được hiện đại hoá bằng các môn học phương Tây. Các môn
tri thức quân sự, luyện kim, vẽ bản đồ, y khoa, hoá học…, cũng như các môn học
về các thể chế chính trị, kinh tế các quốc gia phương Tây có sức hút mạnh mẽ.
Các daimyō biết nhìn xa gửi sinh viên tài năng đi học tại Nagasaki hay tại
những trường Lan học tại Edo và Osaka. Và trong những năm 1850, 1860 họ thành
lập các trung tâm Tây học tại các phiên của họ. Các nhà lãnh đạo của Minh Trị
Duy Tân như Saigō của phiên Satsuma, Kido, Itō và Inoue của Chōshū, Soejima và
Okuma của Saga, Gotō, Sakamoto và Sasaki của Tosa, Yuri của Fuki, Mutsu và
Katsu của Mạc phủ, tất cả đều đã một lần học tại Nagasaki, trung tâm Lan học
hiện đại của cả đất nước.
Sự phát triển giáo dục thời Tokugawa
gắn liền với sự phát triển văn hoá Edo. Edo là thời kỳ của nghệ thuật và học
thuật. Tokugawa chọn con đường đóng kín không phải để suy tàn, mà ngược lại, để
phát triển bản sắc Nhật Bản không bị phá rầy, đưa sức sống của dân tộc lên đỉnh
cao văn hoá và nghệ thuật, vun xới đạo đức và bản sắc. Đó là thời kỳ của sự tự
tôi luyện, sự quyết tâm tự khẳng định mình, biến đổi miếng đất hoang sơ thành
một vườn hoa sặc sỡ, phát triển các hình thái nghệ thuật lên cao nhất, để bản
sắc Nhật Bản trở thành nền tảng không lung lay được trong thời mở cửa xáo trộn
sau, để tài năng Nhật Bản được tinh luyện làm niềm tin của dân tộc. Khi mở cửa,
nghệ thuật Nhật Bản đã chinh phục được các quốc gia phương Tây và quốc gia được
nể phục.
Tấm bình phong sơn mài hoa Iris của
Ogata Kōrin (1658-1716), bậc thầy tiên phong về hội hoạ thời Edo, là thời đại
hưng thịnh của nghệ thuật, để lại dấu ấn mãi mãi trong lịch sử Nhật Bản. Otaga
Kōrin là tấm gương lớn của những người trường phái ấn tượng đầu tiên của Pháp.
Các cuộc triển lãm tranh nghệ thuật của nghệ sĩ Nhật Bản nửa cuối thế kỷ 19
trong thời mở cửa tại châu Âu cũng như tại Hoa Kỳ đã mang đến cho Nhật Bản một
sự công nhận lớn trong lãnh vực nghệ thuật. Không phải chỉ có phương Tây chiếm
lĩnh Nhật Bản qua các hiệp định thương mại, mà Nhật Bản đã chiếm lĩnh sân khấu
nghệ thuật phương Tây qua nghệ thuật. Van Gogh cũng chịu ảnh hưởng của hội hoạ
Nhật Bản. Nhiều người Mỹ thừa nhận tính ưu việt của nghệ thuật Nhật Bản. Một
làn sóng lớn, “tsunami”, du lịch từ phương Tây, nhất là từ Hoa Kỳ đã đổ sang
Nhật Bản vì sự ngưỡng mộ dân tộc đặc biệt này. Người Nhật cảm thấy tự tin khi
bước vào sân chơi của cộng đồng các cường quốc. (Ảnh: nguồn Wikipedia)
Mùa Hội sách Tp. Hồ Chí Minh, tháng Ba, 2012
(Còn tiếp)
(Còn tiếp)
-------------------------------
[1] Bài viết này là sự rút ngắn từ
một bài nghiên cứu chi tiết hơn có cùng tựa đề của tác giả vào mùa Hội sách TP
2012. Một bài tóm tắt 850 chữ được báo Tuổi Trẻ đăng dưới tiêu đề “Không thể
yêu nước trong sự vô minh” (http://tuoitre.vn/Chinh-tri-Xa-hoi/Thoi-su-suy-nghi/483903/“Khong-the-yeu-nuoc-trong-su-vo-minh”.html)
[2] Tác giả cám ơn TS Trương Văn
Tân (Úc) đã cho nhiều ý kiến quý báu về lịch sử và thuật ngữ Hán-Nhật.
Nguồn: VHQN
No comments:
Post a Comment