(tiếp theo và hết)
IV.4.3. Có thể gọi thơ Mai Văn Phấn là một hình thức ngôn ngữ biểu
đạt và trần thuật các trạng-thái-thơ, chứ không hẳn là cảm xúc thơ. Có lẽ vì
thế Đặng Thân đã đặt tên cho thứ thơ trong Hôm sau là thơ robot.
IV.4.4. Thơ Mai
Văn Phấn có biểu hiện không mạnh mà đều đặn của chủ nghĩa tượng trưng Pháp: cảm
quan trực giác, không lý giải; tương hòa giữa con người và sự vật, thiên nhiên;
thế giới quan về cái bóng tượng trưng của vũ trụ đích thực; đề tài nhỏ, đời
thường không gắn với xã hội… Vô tình hay chủ ý, về cảm hứng Mai Văn Phấn
đã chuyển từ “thi sĩ của lòng” trong thời kỳ sáng tác đầu thành “thi
sĩ của linh hồn” để “đánh thức cái thế giới im lìm đương nằm ngủ ở trong
lòng nhân loại (…) thực hiện một cuộc trở về (….) với tấm lòng khi đất
trời khai lập”, đúng như Tuyên ngôn tượng trưng 1946 của Nhóm Dạ
đài / Trần Dần.
IV.4.5. “Cách
mạng trong thi pháp” - nếu có thực như mong muốn của tác giả - ở thơ Mai
Văn Phấn, phải nói là rất chắc cờ: Dùng các thi pháp có tính thể nghiệm nhưng
là làm thơ thật, không phải thứ thơ thử nghiệm; Sinh ra các sản phẩm người
thích người không, nhưng ít ai có thể không gọi nó là thơ. Về thái độ, thơ này
thiếu vẻ cực đoan thường có của những gì thuộc về khai phá.
IV.4.6. Liệu có
đúng, như Nguyễn Việt Chiến nhận xét, “từ
trữ-tình-cổ-điển” Mai Văn Phấn ‘bay’ thẳng một mạch vào hậu-hiện-đại”? Nếu
kể theo trường phái, chúng tôi thấy, giai đoạn hiện đại của cây viết này có hai
cột mốc là trường ca Người cùng thời (1999) và Vách nước (2003).
Có điều ở Vách nước, xảy ra chuyện các thi pháp… “tranh nhau làm tổ
trưởng”! Thiển nghĩ, đây là tác phẩm không chắc tay của nhà thơ khi chưa cầm
chịch được hai, ba phương pháp sáng tác trong một bài thơ. Để rồi, qua không ít
năm sau đó, anh đã thành đạt ở hậu hiện đại với Hôm sau (2009).
Được đọc và trao đổi gần như từng loạt bài trong khi sáng
tác và trong hai bản thảo song sinh, chúng tôi mừng cho cảm hứng, mà tiếc cho
sự ăn non của thi sĩ. Chỉ muốn chàng đẩy tới cùng mạch hậu hiện đại sung sức.
Hai năm trôi qua, mới thấy Mai Văn Phấn quả là người viết thông minh, biết mình
biết thơ! Nay nhìn lại, ba, bốn bài mà tác giả từng cùng chúng tôi hỉ hả đã đan
thành “mái che” của cái “bầu trời” đó rồi.
IV.5. Vấn đề thể loại:
Không chỉ ở sáng tác, cả trong lý
luận và nghiên cứu, khoảng ba chục năm nay ở trên thế giới và chục năm ở Việt
Nam, thể loại đã trở thành nhân vật chính trong câu chuyện dài của các
vấn đề văn học. Và, đó không hẳn là hệ quả của điều kiện hậu hiện đại trong văn
hóa nghệ thuật; nếu không nói là ngược lại.
Thơ, và văn chương Việt Nam nói
chung, trong bao nhiêu thế hệ đã coi thể loại như “của giời ơi”! Số lượng các
nhà cách tân về thể loại chỉ trên dưới mười đầu ngón tay; chưa kể chất lượng
hoặc còn ở dạng lý thuyết: Phan Khôi (Thơ mới), Đặng Đình Hưng (“Roman poem”)
và Trần Dần (Thơ ý niệm, Thơ tiểu thuyết/hồi ký bè đệm), Dương Tường (Thơ
ngoài lời/Thơ âm-hình), Nguyễn Đăng Thường (Tân hình thức), Nguyễn Thúy Hằng
(Thơ “cảm giác/ấn tượng sự vật”), Nguyễn Hoàng Nam (Thơ đồ họa), Đặng Thân (Thơ
tự điển), Khải Minh (Thơ cấu)… Sau dấu “…” chắc cũng chỉ còn một vài tên
tuổi.
Cảm nhận được nhân vật thể
loại, hay chỉ cần đối thoại được với nó, đã có thể đưa đến các chuyển động về
mỹ học hay phương pháp sáng tác. Mai Văn Phấn là một trong các nhà thơ như thế.
Không giống nhiều người làm thơ khác, kể cả các vị tay nghề
vững bậc nghiệp cao, Mai Văn Phấn, trong quan sát của chúng tôi, ít khi bị dính
bệnh nhầm-thể-loại. Đây là một thiên phú với thi hào thi bá; và là may
mắn với các thi nhân. Lý giải với bài này thì thể lục bát, bài kia dạng tự do,
đa phần là bất khả. Thường bằng linh cảm. Người làm thơ bị nhầm thể loại cũng
như kẻ bị lấy nhầm vợ nhầm chồng. Khó mà sửa vợ cải chồng được; chỉ có thể lấy
chồng cưới vợ lần sau; và sau nữa. Đa số thi sĩ khó quay bút được khi cảm thấy
thể loại thơ đang làm không hợp; chỉ có thể sửa sai ở bài thơ sau, rồi sau
nữa.
Trải qua hầu hết các thể loại thơ, ở giai đoạn đầu Mai Văn
Phấn tỏ ra chầm bập thể lục bát và tứ tuyệt. Trong khuôn mẫu, các ý lời không
toát được vẻ đặc sắc; người viết phải đi sang thể loại thoải mái hơn mới nên
sự. Các bài thơ tự do và thơ văn xuôi khi đó chưa thật hấp dẫn, nhưng báo hiệu
sự hơn người ở giai đoạn sau nếu thoát khỏi phong cách lãng mạn và hiện thực
đơn tuyến. Có lẽ vậy, trong một trả lời phỏng vấn, nhà thơ nói về tương quan
nội dung và hình thức rất thấu đáo.
Đã hơn một lần, chúng ta được bảo rằng, để làm thơ Việt cần
khởi thủy từ lục bát. Hẳn chỉ có Mai Thảo lại xui: “Những người trẻ tuổi bắt
đầu làm thơ nên bắt đầu ngay bằng thơ tự do. Nghĩa là một bắt đầu mạnh bạo,
đường hoàng, ở ngoài mọi kiến trúc tiền chế”. Đúng với tinh thần “sáng
tạo”, mà trật đường thơ Việt! Chúng tôi khó tin có một nhà thơ Việt nào làm
ngay và làm hay được bằng thơ tự do. Có thể họ làm rồi vứt đi, hoặc không cho
ra dưới ánh mặt trời. Thần đồng ba tuổi xanh Trần Đăng Khoa tiếng ta chưa rành
lục bát chảy ra từ sữa mẹ là chuẩn rồi; Thần đồng trung niên Bùi Giáng Pháp ngữ
Đức ngữ đủ thứ ngữ dày cả tấc thơ Đông Tây kim cổ thuộc làu vạn dòng mà có dám
lệch chuẩn khỏi lục bát đâu! Dường như chúng ta chưa được đọc thơ niên luật,
vần điệu của các “tổ sư” thơ tự do Việt như Trần Mai Ninh, Hữu Loan, nhưng đã
có chút kinh nghiệm với các vị khác là Văn Cao, Thanh Tâm Tuyền, và ngay cả
Trần Dần. Nhất là với Nguyên Sa, Nguyễn Đình Thi, Du Tử Lê về lục bát. Đỗ Kh. -
từ mươi năm trước có thể xem là “anh Hai quậy” về thơ tự do - từng có thời kỳ
đáng kể về lục bát. Để ý, sẽ thấy tính âm vần và chất 6-8 trong thơ hậu hiện
đại của chàng. Không quậy ở diện mạo của thể loại, Mai Văn Phấn vẫn ra khỏi
cách viết và cách đọc tự sự và trữ tình thông lệ, nhờ kỹ thuật chắc tay của thơ
truyền thống, của lục bát.
Với loại thơ văn xuôi, Mai Văn Phấn
đã tạo dấu ấn riêng ở những nơi nào có thể: hơn chục bài thơ độc lập trong giai
đoạn truyền thống (Lúc mặt trời mọc, Hoa bằng lăng…) và nhiều
bài ở thời cách tân; nhiều trường đoạn trong một bài thơ dài (các đoạn 6, 8,
16, 23… của Những bông hoa mùa thu); tất nhiên cả trong trường ca (Chương
VI: Cộng hưởng II; Chương VII: Mail cho em… trong Người cùng thời).
Cũng như trường ca, thứ “văn bản
nặng” và thâm niên này của lịch sử thơ ca thế giới và Việt Nam luôn là bến đỗ
cho các tranh luận, khiến nhiều người vẫn khoan khoái khi đánh đồng việc sáng
tác thơ văn xuôi (điều bình thường) với sự thay đổi thi pháp, làm mới lạ thơ
(điều bất thường). Mai Văn Phấn có vẻ cũng ham làm mới thơ văn xuôi, như anh tự
đánh giá: “Khuynh hướng cách tân của tôi, là xóa nhòa ranh giới giữa văn
xuôi và thi ca. Tôi đã từng thử nghiệm thành công, viết nhiều bài có hình thức
văn xuôi, nhưng quyến rũ bạn đọc vào một không gian thơ rộng lớn và thậm phồn.”[1]
Đánh giá phẩm chất của thơ văn xuôi là một mạo hiểm cho các
phê bình gia. Xin hãy thận trọng! Thường là phải đọc loại thơ này trong cả
không gian thơ của tác giả. Do còn nhiều chủ đề khác của thơ Mai Văn Phấn khác
biệt hơn, chúng tôi sẽ dừng lại ở ý “xóa nhòa ranh giới giữa văn xuôi và thi
ca”. Về điểm này, thơ Mai Văn Phấn và thơ Nguyễn Quang Thiều là bầu bạn.
Ngữ-pháp-thơ của Nguyễn Quang Thiều (nhiều ý thô mộc; âm điệu quyện trong hình
ảnh; chữ bị nuốt trong câu) có thể tìm thấy sự đồng dạng ở thơ Dương Kiều Minh,
Nguyễn Quyến, Vi Thùy Linh, Phan Hoàng… Mà không ở thơ Đinh Thị Như Thúy và Mai
Văn Phấn. Nhờ gián đoạn hơn về hình tượng và khí thơ, với cách đọc cũ, thơ của
nhị vị này dễ chấp nhận hơn 5 vị trước. Khí thơ, từ xưa đã là một trong vài
khái niệm chính của thơ Trung Hoa và thơ Việt. Đã lâu rồi, nó ít được bàn đến.
Giữa thời a còng, nhắc đến khí thơ, nghe có vẻ ông lang quá! Nhưng nhân
vật chính của buổi hôm nay lại là người trọng khí thơ. Trước thềm Hội thảo Thi
ca và Văn học Hàn Quốc - ASEAN với chủ đề Sáng tạo của nhà thơ châu Á,
tinh thần cho điểm đến) 2-7/12/2010 tại Seoul, Mai Văn Phấn đã phát biểu
trên Tạp chí Thi Bình: “Cách diễn đạt dứt khoát, tối giản, liên kết rời
và xa nhau tạo cho thơ một hơi thở mới, người phương Đông chúng ta quen gọi là
‘Khí’. Theo tôi, ‘Khí’ làm nên cốt cách thi sĩ và phân biệt được các thế hệ thi
ca.” Chúng tôi muốn thêm hai điểm nữa dễ thấy trong thơ Mai Văn Phấn: Khí thơ
rất cần cho các sáng tác dài hơi, dung lượng lớn, như trường ca, thơ dài và
loại hình tương tự (anh hùng ca, sử thi, ngâm khúc, tổ khúc…); Khí thơ là một
trong các yếu tố để giữ tính thể loại bất biến trong khi san bằng biên giới thơ
và văn xuôi.
IV.6. Tứ thơ:
Nói chung,
tứ thơ như không muốn hiển lộ ở thi ca Mai Văn Phấn! Các sáng tác ở giai đoạn
cách tân đã ủng hộ tác giả khi khỏa lấp được điều bị coi là nhược điểm đó. Rất
ít bài nổi trội về tứ; nếu là bài hay, thì ở đó tứ cũng bị lùi xuống hàng thứ.
Trong khi với phép làm thơ Việt, Trung Hoa, lao tâm khổ tứ nhất là… tứ thơ! Xét
đến cùng, hầu hết thi sĩ từ truyền thống cho đến hiện đại, đều là phu tứ.
Để cách tân, Lê Đạt đã biến mình thành “phu chữ”, nên thường gặp cảnh ngộ đi
ăn chữ về mất tứ! Trần Dần, điển hình của kẻ làm thơ luôn “cãi lại”
thi tứ. Phạm Tiến Duật mắt ham vui các ý hài sắc lẻm, hai tay giữ chặt thi tứ.
Hoàng Cầm về vụ này là tướng, từ bài tuyệt đỉnh đến bài chạm đáy. Cả 5 vị đều
là chủ nhân ông của thi tứ, gọi dạ bảo vâng được.
Chúng tôi
nghiệm thấy, lấy ngẫu nhiên 10 nhà thơ - đã thành danh hay chưa - có tới quá
bán mắc nan thi là trong một bài thơ có tới hai, thậm chí ba, tứ thơ!
Căn bệnh này không khó chữa lắm, nhưng khó phát hiện. Nếu biết mình mạnh ở các
thứ khác, thà cứ nhung nhăng giả vờ thơ như không tứ, nhiều khi lại ăn tiền! Lại
ở thơ hiện đại, tứ thơ huyền ảo vô cùng.
Ngay còn khi ở dòng thơ lãng mạn pha
hiện thực, lấy tu từ, lập ngôn, định tứ làm thi pháp, Mai Văn Phấn cũng không
có được nhiều bài thơ hay nhờ tứ. Như đã nói ở mục Những bài thơ tiêu biểu
với bài Gió thổi, tác giả có sở trường biến nhiều hình ảnh rời lẻ thành
tứ thơ, cho dù tập hợp các hình ảnh rời lẻ không tạo hình tượng thấu suốt và
độc nhất.
Trong quan niệm chung và cũ, tứ của
một bài thơ thường phải đi trên hai chân là ý tưởng trộn tình cảm và hình tượng
chủ đạo. Có tứ thơ rồi, với gia giảm tu từ, qua các âm điệu, sắp xếp câu chữ
thì sẽ cấu tứ được bài thơ. Phương cách kinh điển là vậy. Hiện đại hóa thơ đã
làm giảm thủ pháp này tăng thủ pháp khác. Ai càng thấy được sự ký sinh giữa các
thành phần của thi pháp, người đó càng dễ có thơ mới lạ, mà vẫn hay! Chế Lan
Viên là bậc thầy của thủ pháp mà chúng tôi đã tạm gọi là chuyển hình tượng
thành tứ thơ. Tại sao thơ họ Chế luận lý, hiện đại thế mà ít bị chê là Tây,
đọc mãi vẫn bất ngờ? Ấy là nhờ thi bá đã biến hóa nhiều hình ảnh chan chứa sắc
màu đại chúng trong một tư duy khoa học nhất nguyên; tức là chun chút áp đảo.
(Đọc thơ Chế Lan Viên, nhiều câu, ý thấy tức anh ách mà vẫn phải phục!) Trở lại
cặp bài vừa trùng vừa trái Mai Văn Phấn - Nguyễn Quang Thiều. Người thứ hai,
khi tung mở các hình ảnh, đã đi theo hướng ngược lại với người thứ nhất. Khó
hình ảnh nào có thể đứng trên vai hình ảnh nào! Ngay với tác phẩm nổi tiếng từ
thập niên 90 thế kỷ trước cho đến hôm nay, tác giả đã tạo ấn tượng “thơ dịch”
với độc giả truyền thống ở Việt Nam trong khi bạn đọc Tây phương hoan hỉ tiếp
nhận. Nếu - một chữ “nếu” chắc không còn thời gian để xảy ra - “học” được tư
duy luận lý và có ngón tay thơ để rút ngắn ngữ-pháp-thơ như Chế Lan Viên, thì
Nguyễn Quang Thiều sẽ thành “thầy”. Bởi ở anh có một hệ hình ảnh đặc Việt, có
thật và nghệ thuật. Còn ở vị thầy hiện tại, các hình ảnh đó là của thiên địa và
không thật, đó là các tượng hình văn học. Đang câu chuyện về ba nhà thơ ở thủ
pháp hình ảnh nhỏ hình ảnh lớn, có thể ví von như sau: trong khi Nguyễn Quang
Thiều làm thơ bằng cả bàn tay với 5 ngón một lúc, Chế Lan Viên và Mai Văn Phấn
điều khiển thơ bằng cả bàn tay theo mỗi ngón của mình.
IV.7. Ngôn ngữ, hình tượng thơ:
“Ghé môi vào miệng thời gian/ Cho
hơi thở mọc vô vàn cỏ non. (Tản mạn
về cỏ)
Chúng ta đang bàn đến một thi giới gần như không có vốn từ
vựng riêng, lạ. Nếu lướt nhẹ trên vài câu vài bài, tưởng đây là tay viết bình
dân. Đọc thơ Mai Văn Phấn không phải tra tự điển Việt-Việt! Không khó hiểu với
từng bài lẻ nếu có được vốn tối thiểu của luật câu cú tiếng Việt. Chẳng như với
Bùi Giáng (suốt đời) và Du Tử Lê (thời cách tân); Lê Đạt (thời cách tân mới là
tác giả nặng kí) và Cao Đông Khánh (tràn ngập); Phan Huyền Thư (thoang thoảng)
và Nguyễn Quốc Chánh (tá lả)… Còn không ít vị nữa, mà thượng đẳng kỳ ngôn ắt là
Hoàng Xuân Sơn và Thường Quán!
Trong ý nghĩa ngôn ngữ là công cụ, không là đối tượng, họ
Mai không thuộc vào hàng ngũ "thi sĩ là một người bình thường, nhưng mỗi
ngày, vào buổi chiều, ông lại đem ngôn ngữ ra khủng bố". (Paul Válery).
Và nếu từ điểm nhìn của ký hiệu học,
có thể thấy thơ ca Mai Văn Phấn ưu tiên quan hệ biểu tượng - ý niệm; còn âm
điệu, nhạc tính không là trọng. Anh luôn chuyển hình tượng thành các trạng thái
của ái tình và tâm thức linh nghiệm. Trạng thái, chứ không phải tình cảm. Đọc
thơ của người-đang-yêu này, thêm một lần ta hiểu hai chữ thanh tân nơi tình yêu
đôi lứa. Cống hiến mới của nhà thơ là đã thanh tân hóa cái địa hạt tưởng khô
cũ, giáo điều: tâm linh và siêu thoát.
“Ta ngồi nhập định cùng hoa/ Thành
chuông ai thỉnh ngân nga cỏ mềm” (Qua hoàng hôn)
Chúng ta lo cho sở đoản tạo ý niệm
bằng lý lẽ dễ làm ra thứ phẩm của ngôn ngữ? Nhưng, với người cầm bút tỉnh táo
như vậy, đã và sẽ không gặp sản phẩm tệ dưới tên Mai Văn Phấn. Nói thêm: đây
còn là một thi nhân có khả năng tự biên tập. Điều mà không ít thi bá cũng còn
chưa có; Như với Bùi Giáng, mà chúng tôi từng đã tham luận. Xin được nói mạnh
rằng, phải tới một phần tư các ấn phẩm đã in, thơ là chính, của Bùi tiên sinh
là… tệ! Bù qua sớt lại, có tới một phần tư của chính phẩm còn lại đã là tuyệt
phẩm.
Ngoài thể văn xuôi đã nói trên, Mai
Văn Phấn khá thoải mái khi đưa khẩu ngữ vào thơ tự do. Anh không tận dụng
Ferdinand de Saussure trong “quyền khế ước” của ngôn ngữ ở xã hội thơ ca, không
đẩy tính võ đoán của câu chữ đến chân tường nghệ thuật; như nhiều người lâu nay
làm thơ mới lạ theo cách truyền thống hay hiện đại, trong đó có các tác giả
thành danh vừa nêu trên mà “phê” hơn cả với chúng tôi là Thường Quán, là Hoàng
Xuân Sơn. Hầu hết các bài trong tập Hôm sau là thế: “Vợ lại bảo dù
trí tuệ uyên bác/ nhưng chân tay ngại cử động/ cũng chẳng nghĩa lý gì./ (…)
Tôi vắt sợi dây qua xà nhà/ buộc một đầu vào chỏm tóc/ cả lúc chăm chú đọc
sách/ tay vẫn giật như culi kéo quạt” (Sống hồn nhiên). Phi lý mà không cãi
vợ được! Hóm! Hóm đến thế là cùng!
Có một chi tiết. Với thơ Mai Văn
Phấn, như hạt cát trong giày du khách đường trường. Vào thời vi tính, ngôn ngữ
văn chương bị/được các thuật ngữ kỹ thuật tham gia ào ạt hơn ở bất cứ các thời
khác. Xưa, trong Thơ mới đâu có nhiều “ô-tô”, “xà phòng”, “đánh dây thép”? Dễ
hiểu. Trong nền văn học a còng, cuộc sống đời thường có thể ra vào thơ
văn mà không cần visa. Chúng tôi vẫn muốn các thi sĩ đẳng cấp cao –
trong đó tất nhiên có Mai Văn Phấn – tùy từng bài thơ, câu thơ cụ thể mà đòi
hỏi thị thực nhập cảnh với những đối tượng mới của ngôn ngữ mà thơ tiếng ta
chưa sẵn sàng đón tiếp, ví như: ”con chuột”, “ngoài vùng phủ sóng”, “điện thoại
cầm tay”… (Ngay khi chúng tôi vừa viết đến đây, trên phongdiep.net
15/4/2011 có thơ với các câu thế này: “Bật máy nhảy lên
mạng/ lướt sóng thăm khắp chốn tinh cầu (…) Ta lướt ‘Weo’ từ Đông sang Tây”)
Nhân chuyện hạt cát trong giày du
khách, sang chuyện khác, không chỉ về ngôn ngữ, hình tượng. Những khi được chia
sẻ với nhà thơ và để cùng răn nhau, chúng tôi thường dẫn câu của người xưa:
Người quân tử đi qua ruộng dưa, chớ ngừng cúi xuống sửa dây giày. Trong cái
“ruộng dưa” văn học mạng thơ nét, có quá nhiều thủ thuật rất dễ dùng,
chỉ cần sạch nước cản. Những người viết đã đeo thương hiệu nên tránh, nếu các
thủ thuật đó vô thưởng vô phạt. Như về sự ngần ngừ của chúng tôi với tên tập
thơ Bầu trời không mái che, sẽ nói ở phần sau…
IV.8. Nói riêng về ba tập thơ mới nhất:
Đó là Hôm sau, Và đột
nhiên gió thổi, và Bầu trời không mái che.
IV.8.1. Cả ba tập thơ gần như không bị quốc gia hóa bởi địa lý, xã
hội, tâm lý Việt Nam. Chúng vẫn mang được một số đặc tính dân tộc thuần Việt.
Thậm chí, nếu dịch ra tiếng nước ngoài, bỏ đi tên tác giả và một số rất ít tiểu
tiết thuộc về thông tin, thì độc giả khó có thể nhận ra đây là thơ của một
người Việt Nam, đang sống ở Việt Nam và làm thơ cho người Việt Nam. Bạn không
tin? Hãy thử nêu cho Hội thảo xem có những tác giả nào tương tự? Chúng tôi dùng
lại cách nói đã bị xem là nhàm, nhưng cần thiết: thơ cách tân của Mai Văn Phấn
có tính Việt và tính nhân loại.
Cả ba tập rất ít câu, bài, khúc,
đoạn định vị không gian và thời gian. Không có sự kiện xã hội, không có vấn đề
thường nhật. Chỉ có những gì xảy ra nơi nội tâm con người hòa cùng thiên nhiên,
vũ trụ…
Cả ba văn bản đều tự trị, ngoài ý
muốn của tác giả và độc giả, nếu nói theo chủ nghĩa cấu trúc. Không tìm thấy
một “trung tâm” nào của ba tập thơ. Rất nhiều bài thơ cho thấy chẳng có một
trung tâm nào ở đó. Các trang thơ không còn “kết thúc ở văn chương” theo thế
chân vạc chân -thiện - mỹ, mà là ở mặt phẳng văn hóa nói chung, ở nhân sinh và
sự sống muôn đời.
Nội dung ở hai tập Và đột nhiên
gió thổi và Bầu trời không mái che có lẽ đã khiến người biên tập,
nhà xuất bản nào lười biếng nhất hoàn toàn yên tâm! Tuyệt không có các liên đới
gì nhạy cảm, từ chính trị thời cuộc cho tới các chuyện “hot, sex”… Cấu
trúc của hai tập thơ cũng làm cho chúng trở thành một thứ thơ lạ, không ít tác
giả hiện nay vẫn đeo đuổi: Với tập Bầu trời không mái che và bài thơ dài
Những bông hoa mùa thu, bạn có thể đọc nhảy cóc từ đoạn khúc, kể cả đọc
ngược theo mỗi đoạn hay tiểu đoạn (được đánh dấu bằng kí hiệu hoa thị * hay số
thứ tự 1 đến 27). Đó cũng là một trong các cách đọc theo kiểu phê bình hậu cấu
trúc khi đảo lộn vị trí “ai cảm xúc ai”: văn bản thơ Mai Văn Phấn sẽ cảm xúc
bạn, thay vì bạn cảm xúc văn bản thơ Mai Văn Phấn.
Các ý sau đây đã quyết định suy ngẫm
của chúng tôi về giá trị chung của dòng thơ Mai Văn Phấn trong mươi năm cách
tân thi pháp: 1) Tập hợp này là một bộ “tiểu thuyết trường thiên” bằng ngôn ngữ
thơ ngợi ca nhân sinh và tình yêu. 2) Cần đọc đồng thời cả ba tập khi muốn đánh
giá toàn bộ về thơ của tác giả hay từng khúc đoạn, bài thơ lẻ. 3) Ba tập thơ
liên hoàn xứng đáng nhận được giải thưởng thơ nào đó của Việt Nam cũng như trên
thế giới.
IV.8.2. Hôm sau:
Trong một trao đổi, tác giả giải
thích: “Tên tập thơ Hôm sau, mang một hình thức bình thường về thẩm mỹ,
tưởng chừng không nhằm gây ấn tượng, nhưng lại mang nội hàm khác khi
mọi người đọc vào nội dung những bài cụ thể. Nó là Ngày hôm sau
của một Ngày trước đã vĩnh viễn ra đi, một lịch sử đã khép lại, một khao khát
giản đơn của Hôm sau như được thở, được yêu, được ăn uống.”
Hôm sau có không ít bài theo dòng ý thức, nghiệm sinh (Quay theo
mái nhà, Anh tôi, Biến tấu con quạ, Hắn…). Chúng tôi không
nghĩ là tác giả nhận ảnh hưởng trực tiếp từ Ô Mai của Đặng Đình Hưng,
nhưng thấy có gì đó gần gụi.
Dưới đây là bình bàn của chúng tôi
với Đặng
Thân về bài phê bình tập Hôm sau, mang tên Mai Văn Phấn
và công nghệ cách tân thơ:
Dùng chữ “công nghệ” là đúng
với loại thơ đọc chữ tưởng như thôn quê, đến nghĩa thì đô thị!
Phan Nhiên Hạo từng có chữ “Chế tạo thơ” cho một tập thơ của mình. Với
lối hậu hiện đại, thơ không còn là “làm” nữa. Đó là công nghệ của tâm hồn!
Chỉ ra loại thơ robot và gọi
tên cho từng loại robot ở tập thơ này là một phát kiến bất ngờ của Đặng Thân:
“Lần đầu tiên người đọc Việt Nam được đọc thơ robot, điều đặc biệt
là ngôn ngữ của chúng rất nghiêm trang.” Theo chúng tôi hiểu, lối viết lật
đật, vô cảm về giọng điệu và cú pháp (những câu có chủ ngữ cũng thành vô chủ)
đã từng có ở không ít tác giả trước và cùng Mai Văn Phấn. Không chỉ ở những tác
giả hậu hiện đại. Tập Gửi VB của Phan Thị Vàng Anh có giọng thơ khách
quan đến độ thờ ơ mà có nhà phê bình đã nêu. Chúng tôi còn thấy phong cách này
tương đối rõ ở Phạm Đình Ân trong giai đoạn đổi mới của anh ở vài năm qua.
Nhưng thành bút pháp thơ trạng thái với nhiều bài ổn định trong một tập thơ thì
Mai Văn Phấn là đầu tiên. Không cho giật cục ở mỗi con robot riêng lẻ như Mai
Văn Phấn, nhiều tác giả hậu hiện đại khác đã để cảm xúc không tới bến, vô lối
vô phương. Thi cảm này đạt đỉnh ở hai sáng tác thử nghiệm kiệt xuất của Đặng
Đình Hưng.
Lời bình nhiều bài (Vẫn trấn
tĩnh tiễn khách ra ngõ, Sống hồn nhiên, Anh tôi…) rất
tương xứng. Giá như bỏ bớt các “ông Tây” đi thì nội dung của bài phê bình sẽ
bay bổng. Nói thêm: Anh tôi là một bài thơ hay, theo cách vừa xa vừa gần
với thơ Việt hiện nay. Còn Sống hồn nhiên là bài thơ bản lề của bút
pháp cho cả tập. Như đã nói ở mục IV.7., kéo dài được sự hài hước trong
suốt cả bài thơ là một mạo hiểm: “Đung đưa một lúc cũng mỏi” được nâng
cấp ở “vừa tư duy vừa cầm dây giật”, đến “hàm tôi yếu và răng không
còn sắc” tưởng đã hài hết độ; nhưng vẫn còn: “tôi pha trà đem dâng cho
cây”. Cung kính và cà tửng kiểu nhà nho cuối cùng trong thời đại a còng.
Một bài thơ có kích thước thế giới, trong khẩu khí hậu hiện đại!
Âm mưu tạo sốc bằng vẻ rối rít của
logic của câu chót (“Những ai chưa chịu điên và đã chịu điên đều không
nên đọc Hôm sau”) dễ bị lộ, nhưng thế mới là made in Đặng Thân!
Tóm lại, bài phê bình có nội dung lạ
và đúng, trong tinh thần khai mở. Dẫn độ người đọc tới tác phẩm, sự giới
thiệu có phần ngỗ ngược, cực đoan. Nhưng thế mới đáng, với một tập thơ rất dễ
bị trượt qua của thị trường văn học Việt Nam lúc này!
IV.8.3. Và đột nhiên gió thổi sẽ được bàn đến trong một dịp khác.
IV.8.4. Bầu trời không mái che:
IV.8.4.1. Khi được đọc bản thảo, chúng tôi vừa mừng vừa lo cho
Mai Văn Phấn, vì nghĩ có lẽ đây là một tập thơ “được ăn cả ngã về không”. Sau
gần nửa năm sách ra lò, thì thấy tác giả đã không… ngã!
Như một cuốn truyện hiện đại với
ngôn ngữ thi ca, tập Bầu trời không mái che là ẩn dụ văn chương về từng
thời kỳ thành người và làm người của cuộc đời người-nữ-Việt. Chương cuối Hình
đám cỏ là một cuộc liên hồi các đợt làm tình, để quay vòng về chương đầu Cửa
mẫu. Trong cái nhìn thể loại, chúng tôi đề nghị xem tập thơ này như một
“trường ca lớn” được ghép từ hai “trường ca nhỏ” là Cửa mẫu và Hình
đám cỏ, ở giữa là các đoạn thơ lẻ chung nội dung và phong cách. (Xem tiếp
mục IV.9. Thơ Mai Văn Phấn và vấn đề trường ca.) Hình thức này là mới mẻ
trong thơ Việt Nam. Một cách giản dị, có thể coi đây là tập sách gồm nhiều đoạn
thơ dài, nối lại và riêng rẽ, có thể đọc bất kỳ từ đâu. Chín “bài thơ” độc lập
(phần II Mùa trăng) dù có tựa đề, cũng không hẳn là các bài thơ theo
nghĩa quen thuộc. Về tứ thơ theo cách hiểu thông thường, chúng tôi ưng ba bài Đỉnh
gió, Giai điệu xuân và Mùa trăng – thể hiện sở trường của tác giả về
bè thơ; các bài còn lại hơi dễ dãi; như bài Thu đến, nếu kết thúc ở câu “Biết
có ai được may mắn đến gần” thì mới tạo tứ thơ hay. Tất nhiên, nếu đọc như
là một “trường ca” thì không thể vi phân như vậy, với từng câu từng đoạn.
Ý tưởng dùng thiên nhiên làm đối
tượng mô tả và cách thể hiện bằng tình yêu trên một sáng tác thơ dài hơi thường
có ở các tác gia lớn trên thế giới; như ba gương mặt của ba châu lục là
Rabindranath Tagore (Ấn Độ), Octavio Paz (Mexico), và Tomas Tranströmer
(Thụy Điển).
Bỏ qua vấn đề thi pháp (ngôn ngữ hay
bút pháp; mỹ học cảm thụ hay nhạc tính…), nếu như thi phẩm này đứng vững được,
đó là nhờ điều mà chúng tôi xin được gọi lớn là “thi đạo”. Mục đích của tập thơ
như một lần chiêm nghiệm sự sống. Để đọc Bầu trời không mái che, phải
tạm quên đi các tiêu chuẩn quen thuộc về thơ, bài thơ, câu thơ, dù mới nhìn qua
tưởng đó là một tập thơ lắp ghép các bài thơ đơn điệu, các đoạn thơ nhàn nhạt.
Để nắm bắt thi đạo đó, bạn cũng có thể không cần “đọc hết” từng câu, đoạn,
chương; nhưng bắt buộc phải “thở” được trong khí quyển của tập thơ. Bởi đó là
không gian nghệ thuật.
Dễ tìm thấy ở bất kỳ đâu trong tập
thơ những câu, đoạn gần như vô nghĩa lý như: “Mơ giăng cỏ muợt/ Vồng ngực
săn chắc/ Hơi thở nồng nã đất đai/ Chạm nhau nghe đất đi xa/ Con đường ngủ yên
cây lá/ Đang thức giấc che chở/ Ghì níu gót chân” (Nhịp V, Hình đám cỏ)
Với cảm hứng chủ đạo về một niềm tin
sống và yêu, sự đơn nhịp về ý và tứ của toàn tập thơ hoặc ở các tiểu đoạn, chữ
nghĩa và nội hàm tầm tầm như không có đáng nói, lối dẫn các chi tiết, sự việc
phi hiện thực, các sự đơn giản, rời rạc của thiên nhiên… - Tất cả đã khiến
chúng tôi mạnh dạn gọi đây chính là một loại “tiểu kinh thi”. Vâng, kinh-thi-tình-ái.
Nếu như chỉ cần tiệm cận được điều đó thôi, Mai Văn Phấn sẽ thành một nhà thơ
kinh điển, kiểu Tagore vậy! Như đã dẫn trong mục IV.4. về thi pháp, nhà
thơ đã thổ lộ trong một trả lời phỏng vấn: “Đấy là cách tôi tìm về cội nguồn
thi ca cho cảm xúc trôi chảy tự nhiên và tìm cách nói hồn nhiên, tối
giản, trong trẻo nhất.”
Có lẽ tính đơn nhịp đồng điệu đã làm
nên một thứ thơ mới, đọc cũng được mà không đọc cũng chẳng sao, đối với các độc
giả cần thơ như một phương tiện nhận thức hay cảm xúc. Không, tác
giả cần ở bạn linh cảm. Bởi thơ này là tâm thức. Chúng tôi
cho rằng, đây là rào cản của loại thơ này với không ít độc giả coi thơ chỉ là
văn chương, là văn học.
Nói về nhịp điệu của thơ tự do, Bầu
trời không mái che đạt mức tưởng như không-tự-do! Các đường gợn giữa văn
xuôi và thơ lặn xuống. Các nhấp nhô từ văn nói đến văn viết trở nên bằng phẳng.
Không nhiều người viết đương đại làm được thế, như Mai Văn Phấn.
IV.8.4.2. Tên tập thơ, với chúng tôi, độc mà chưa đắt. Nói hết
nhẽ, vui tình văn hữu thôi. Không có gì nghiêm trang nghiêm trọng! Bầu trời
không mái che là hay với tên bài thơ, tên một chương trong trường ca, một
đoạn khúc trong tập thơ... Hoặc hay ở thời 5-6 năm trước, khi Mai Văn Phấn đang
loay hoay tìm thi pháp. Giả sử rút lại chỉ là Bầu trời: sai chủ ý, nhưng
xét ra hợp với uy tín và chất lượng thơ của tác giả lúc này, và hợp với phong
cách của cả tập thơ hơn. Các chữ “không mái che” mới nghe thì lạ, lập
dị. Nhìn lại thấy nó thành cái mái che cả bầu trời thơ Mai Văn Phấn! Lan
man, chúng tôi nhớ đến hai tập sách khác mà việc làm sách theo hướng khác lạ có
vài điều gần gũi…
Tựa sách Người (tập chân dung của nhà báo Nguyễn Quang
Thiều) quả có cái ngất ngưởng, trơ trọi và kiêu hãnh “cây thông đứng giữa trời
mà reo” của Uy Viễn Tướng công. Nhưng chúng tôi nghĩ sẽ không có sự sau: Tập
thơ Người của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều! Có vẻ như phạm luật ngôn ngữ
thơ, sai lệ chữ nghĩa bìa sách thơ? Xin gợi ý cho tập thơ tưởng tượng của nhà
thơ này, hay của nhà thơ khác: Những người. Và mạn phép cho cả tập chân
dung đang có: Tuyển tập chân dung nhân vật mang tên Những người của
nhà thơ - nhà báo Nguyễn Quang Thiều. Sẽ là hay và đẹp với thi sĩ. Đúng hay
không, chửa dám chắc.
Việc “dát vàng sách thơ” Phim đôi - Tình tự chậm
của Vi Thùy Linh được dư luận quan tâm trong tháng qua. Với những gì đang có về
nhân thân, nhân cách, văn cách, nghệ thuật thi ca của chủ nhân cuốn sách, chúng
tôi thấy chuyện này OK! Còn nếu sang một giai đoạn sáng tác khác, khúc quanh
thành tựu khác, ví như được Nobel văn chương chẳng hạn, thì việc dát-vàng-thơ
của nữ sĩ sẽ không còn giá trị tự thân. Cũng vậy, với Trần Dần ở tập Thơ
(2008) từng thoát thai từ “đất nâu và đêm đen”, nhà xuất bản Đà Nẵng đã không
là kẻ mờ màu khi cho sinh hạ một ấn phẩm với hình thức hay, đẹp và đúng dường
thế! Cũng vậy, cả với một tuyển tập nào đó của thơ Tố Hữu. Ở hai nhân vật này,
trong mỗi thẩm mỹ văn chương riêng, tên tác giả đã là vàng ngoài bìa, thi ca đã
là vàng trong sách.
IV.8.4.3. Cửa mẫu là một liên khúc 9 đoạn thơ như một câu chuyện không
cốt truyện, không nhân vật, lấy đạo Mẫu làm thể tài, làm hình tượng thơ. Trong
thơ Việt Nam hiện đại, không kể rất ít các bài thơ ngắn, “nhỏ” dùng đạo Mẫu như
một đề tài xã hội, sinh hoạt, hình như chưa thấy sáng tác nào có nội dung nghệ
thuật cao trong một thể loại “lớn” như Mai Văn Phấn đã làm? Tư tưởng đạo giáo
và tín ngưỡng dân gian của vấn đề không được khai thác; trong khi đó thần tượng
Mẫu (Mẹ) với thiên chức sinh sản, che chở con người đã được thi vị hóa. Điểm
sáng tạo ở đây về tư tưởng tâm linh là sự sinh, sự sống của nhân loại cũng được
sinh sôi và bao bọc của người Mẹ Cả khác – đó là thiên nhiên, vũ trụ. Trong
niềm tin và tín ngưỡng đó, người Mẹ Việt là nguồn, là trung tâm của người con,
người cha nên đã được toàn quyền ước muốn, giải thoát khỏi những định kiến mà
cuộc sống thực sự ràng buộc họ.
Về cấu trúc, nhịp thơ, nhất là về
thể loại biểu hiện (trữ tình trong tự sự), Cửa mẫu hoàn toàn có thể xem
như một “trường ca” thu nhỏ, nếu như tác giả kéo dài và tăng cảm xúc ở 9 tiểu
khúc đang có. Loại hình thơ-dài-có-tính-trường-ca của thơ hiện đại Việt đã có
những ví dụ lừng danh như Em ơi - Hà Nội phố (Phan Vũ).
Khi làm chương đầu cho tập thơ –
đúng ra là tập “kinh tình yêu bằng thơ” - ý nghĩa nhân sinh và tư tưởng
của Cửa mẫu mới được xuất hiện. Còn khi in riêng, như ở Tạp chí Văn
nghệ quân đội số 35 - 8/2010, hay trên một số trang mạng, bài thơ
tương đối dài đó đã thể hiện tầm vóc tâm linh của nó. Tặng thưởng năm 2010 của
Tạp chí Văn nghệ quân đội đã trao cho một thi phẩm giá trị như thế!
IV.8.4.4. Đỉnh gió có thể xem là một bài thơ độc lập trở về chất lãng mạn cổ
điển trong cảm xúc hiện đại với thái độ nhi nhiên. Nhi nhiên là nguyên thủy của
thơ. Sau Cửa mẫu, đây là bài thơ lẻ, đẹp nhất tập thơ. Dùng phê
bình trường phái hình thức Gasparov và Jarkho, chúng ta thử đọc bài thơ để
thấy cách viết mới nhất của tác giả.
Ở cấp độ 1: Tư tưởng, hình tượng:
Đoạn đầu tốt; đoạn cuối: rất tốt. Toàn bài “nhất trí cao” trong nội dung nhân
tính. Hình ảnh dù nhiều, nhưng cần thiết cho một trận-làm-tình tơi bời giang
san! Sang cấp độ 2: Phong cách (ngôn từ, chữ nghĩa): Đoạn giữa cũng đạt; đoạn
cuối: hơi làm dáng, trở lại sở trường của tác giả mà ở đây thành sở đoản. Đáng
lẽ đoạn cuối sẽ tốt về tứ: sự tản mạn của tu từ (“Mắt quắc sáng áp lực đại
bàng xoải rộng”), sinh ra nghĩa mới, tứ thơ lỏng đi. Khiến cho bút
pháp bị mắc căn bệnh chung là lộn xộn giữa lãng mạn, hiện đại, hậu hiện đại
(xem mục IV.4.6.) Trong cấp độ 3: Âm điệu, nhịp thơ: đạt; toàn bài mang
nhịp điệu nội tại, theo hơi thở của cặp tình nhân đang yêu. Câu thơ đọc lên
trôi mượt, dù nghe khô. Tính khách quan của thơ cao.
IV.9. Thơ Mai Văn Phấn trong vấn đề trường ca:
“Mình lại đang viết một cái dài dài, chắc không phải trường
ca, cũng chẳng là tập hợp thơ, nhưng sẽ rất riêng và có cái gì...” Tâm sự của Thi Hoàng - tay bút đã làm mới và lạ cho thơ và
trường ca Việt chiết trung và đằm thắm ở mức đầu bảng kể từ thời hậu chiến 1986
- đã nôm na hóa điều chủ chốt để những sáng tác văn vần có dung lượng lớn trở
nên hiện đại. Đó là tính bất định của thể loại văn học lâu nay mang tên chung
là trường ca.
Trong cuốn sách[2]
đang được làm bằng “những nỗ lực tìm hiểu khái quát các ‘hiện tượng
trường ca’ từng xuất hiện trong lịch sử văn học Việt Nam”, với ước vọng “lục
khảo và hệ thống hóa có quy mô lớn lần đầu tiên về các hiện tượng trường ca” (Trần Thiện Khanh), chúng tôi quan tâm đến Mai Văn
Phấn như một tác giả trường ca và thơ-dài-có-tính-trường-ca, với các nét riêng
biệt của nội dung và cảm hứng tâm linh. Ở đây chỉ nêu một số điểm gần gũi nhất
với cả dòng thơ của tác giả, nhất là ở hai tập hợp thơ đã nói.
Mai Văn Phấn thuộc vào phong thổ nghệ thuật thành phố Cảng -
một đất trời sản sinh “trường phái thơ Hải Phòng”, trong đó có dòng trường ca
đặc sắc với khoảng 30 tác giả. Nhưng Hải Phòng tính ở thơ và trường ca
của tay viết này không hề bị địa phương hóa, cũng như đã không bị dân tộc hóa
quá đặc thù Việt như đã nêu trên.
Phê bình riêng hoặc đầy đủ về trường
ca Người cùng thời (1999) - cho đến nay là văn bản duy nhất của tác giả
ở thể loại trường ca theo cách đánh giá chuẩn tắc chế ngự đường hướng sáng tác
và phê bình lý luận trường ca Việt - chúng tôi thấy có hai bài của Phạm Quang
Trung và Dương Kiều Minh với nhiều ý kiến xác đáng bao quát và cụ thể (Phụ
lục 8. và 9.)
Xin có một số nhận xét bổ sung và mới như sau.
Nằm trong cách viết tương đối phổ biến so với mươi năm trước
ở mạch tự sự và suy tưởng, bằng 10 chương hồi với 7539 chữ, Người cùng thời
là một trường ca đáng kể trong dòng trường ca Việt Nam hiện đại và đương đại.
Ngoài giá trị lớn nhất đóng góp trong dòng trường ca Việt là mang chở nội dung
nhân sinh muôn đời và thời sự cụ thể của thời đại trong tâm thức của chủ nghĩa
nhân văn tưởng như đang bị lãng quên tại khúc rẽ hậu hiện đại, với riêng Mai
Văn Phấn trường ca Người cùng thời như cuộc tổng duyệt các hình thức thể
hiện và ngôn ngữ thơ. Cảm hứng sử thi đã trào dâng; hồn dân tộc Việt qua các
biểu tượng và truyền thống được bay bổng. Và hai điều này luôn là “quân chủ
lực” của hầu hết các vị “tướng lĩnh trong quân khu” trường ca Việt, mà tham luận khác[3]
chúng tôi đã đề nghị coi là một “trường phái” trong thơ Việt. Nguồn phù sa của
dòng sử thi hiện đại trong thời kỳ thứ ba 1954-1986 của lịch sử trường ca Việt
được bồi đắp khởi đầu có thể kể tới Thái Giang, và được dạt dào trong suốt năm
tháng chiến tranh chống Mỹ từ Thu Bồn và Nguyễn Khoa Điềm; Hữu Thỉnh và Thanh
Thảo; Trần Mạnh Hảo và Nguyễn Đức Mậu… rồi thời hậu chiến và thời hiện đại với
Thi Hoàng và Hoàng Trần Cương; Trần Anh Thái và Nguyễn Quang Thiều… cùng rất
nhiều tác giả đã có những tác phẩm nặng kí mà chưa được dư luận để tâm thích
đáng như Nguyễn Hoàng Đức và Nguyễn Thụy Kha; Lê
Vĩnh Tài và Vũ Xuân Tửu…
Trong hai cảm hứng chủ đạo đó, tác giả Người cùng thời
có góp phần nhưng không nổi bật. Anh chọn một giọng điệu trung dung. Không chỉ
ngợi ca một chiều các giá trị nhân loại và dân tộc, tác giả phê phán và đề nghị
cải cách như một nhà nhân văn hiện đại. Không làm một nhà văn hóa hậu hiện đại
đay nghiến và diễu cợt thời thế ở các mặt trái hiển nhiên của nó, Mai Văn Phấn
du ca trong day dứt. Theo kiểu Trịnh Công Sơn. Khác Phạm Duy. Đây là một biểu
hiện để độc giả hiểu rằng, sang giai đoạn hậu hiện đại tác giả này không có các
chủ đề cộng đồng, xã hội hay dân tộc, như nhiều tác giả trường ca hậu hiện đại
khác ở trong và ngoài Việt Nam.
Không hợp với tư duy luận lý, và đặc biệt – như là một sở
đoản của ngôn ngữ thi ca Mai Văn Phấn – không “đẻ” ra các con tự, cú pháp, mệnh
đề chính luận của riêng mình (xa như Chế Lan Viên, Trần Dần; gần như Nguyễn
Hoàng Đức, Trần Anh Thái), nên tác giả Người cùng thời đã thiếu (và chắc
là không có) giọng điệu tương hợp với các cụm đề tài thời thế và thời sự bao
trùm nhân loại đã được tầm nhìn cao rộng và trái tim nhân bản mang đến. Thi sĩ
ở trường ca của chúng ta như một công trình sư hơn là một nhà xây dựng! Các tựa
đề, câu thơ, đoạn thơ nào dính đến các đại tự sự đều mang được tinh thần Mai
Văn Phấn, và thiếu diện mạo Mai Văn Phấn. Cũng chính trong Người cùng thời,
ở một số tiểu khúc riêng lẻ, có cảm hứng và nội dung ngẫu hứng, nhà thơ như
thoát khỏi cái “áo giáp” sử thi, đại tự sự mà tung tăng trần mình trong cảm
giác lãng mạn và hồn nhiên ở hai đề tài làm nên thi nghiệp: tình yêu và thiên
nhiên.
Khi cần đến với các chủ đề lịch sử và xã hội, quốc gia hay
cộng đồng loài người, trong tư tưởng nhân văn rộng lớn, nhân sinh muôn đời, hẳn
người đọc chỉ muốn Mai Văn Phấn nghiêng theo các đỉnh Tagore hay Paz, hơn là
xuôi về các dòng Hugo hay Evtushenko.
Nếu chạy tiếp theo vệt Người cùng thời, chúng tôi
đoán rằng, anh sẽ không hơn các trường ca gia khác, mà buồn hơn: sẽ thua chính
mình. May thay cho thơ Mai Văn Phấn, cho thơ và trường ca Việt Nam. Chữ “nếu”
đã không xảy ra! Nỗi buồn đã không có! Chúng ta đang vui, đang thấy: Mạch văn
bản có sức chứa lớn Mai Văn Phấn vẫn chảy, như đã chảy vào hai tập thơ Và
đột nhiên gió thổi và Bầu trời không mái che. Biết tự “bịt” mình ở
thể trường ca chuẩn tắc với cảm hứng sử thi trong cấu trúc chương hồi, đó là
một chuyển biến thông minh và dứt khoát của tác giả không chỉ ở sáng tạo trong
thể loại, mà còn ở quan niệm sinh tử của một kẻ làm thơ với câu hỏi đầu tiên và
cuối cùng “Thơ là gì?”.
Có một nghịch lý nảy ra khi chúng tôi đi tìm các lý do cách
tân ở thơ và trường ca Mai Văn Phấn. Nếu đồng ý với nhận định thú vị rằng,
“Trong loại hình trữ tình, xu hướng cách tân ở thơ bình thường có lúc tỏ ra cực
đoan và nhiều bài không thể đọc thì ở trường ca, những cách tân tỏ ra hợp lí
hơn”[4]
(Diêu Lan Phương), chúng ta tưởng mảng trường ca sẽ là nơi Mai Văn Phấn thâm
canh và canh tân sau Người cùng thời.
Cuối cùng, để nhận dạng thơ Mai Văn Phấn trong hướng trường
ca chính tắc hay các sáng tác dung lượng lớn, xin nói nhanh về
thơ-dài-có-tính-trường-ca - một luận điểm mới trong thơ và trường ca Việt
Nam được đề nghị ở cuốn sách nói trên.
Như đã công bố trên một số trang
mạng, cập nhật đến 15/4/2012, khảo cứu của chúng tôi cho thấy, từ thời Thơ mới
tới nay, có khoảng 401 tác giả Việt Nam đã viết ít nhất một trường ca hoặc một
bài thơ-dài-có-tính-trường-ca, trong đó có 291 tác giả trường ca và 110 tác giả
thơ-dài-có-tính-trường-ca, với tổng số khoảng 976 tác phẩm.
Với độc giả chưa đọc bài Tác giả và tác phẩm trường ca Việt Nam, có
thể hình dung như sau: Tác giả Mai Văn Phấn (với trường ca Người cùng thời)
nằm trong con số 291 tác giả trường ca. Còn trong 110 tác giả chỉ làm
thơ-dài-có-tính-trường-ca, có các tên tuổi lớn như Chế Lan Viên, Tố Hữu, Thanh
Tâm Tuyền, Hữu Loan, Tô Thùy Yên; có những nhà thơ nổi danh như Trần Vàng Sao,
Lưu Quang Vũ, Nguyễn Xuân Thiệp, Bùi Chí Vinh, Dương Kiều Minh, Vi Thùy Linh;
và có những thi sĩ nổi bật trong phạm vi riêng như Tam Lệ, Nguyễn Thị Thanh
Bình, Lê Nghĩa Quang Tuấn, Nguyễn Thế Hoàng Linh, Lê Ngân Hằng; đặc biệt có nhà
thơ Trịnh Sơn mới xuất hiện ba năm nay với những sáng tác dài hơi giá trị.
Hai tập thơ mới của Mai Văn Phấn
được kết cấu như tổ khúc thơ, và đã có 3 bài đi vào danh sách
thơ-dài-có-tính-trường-ca của chúng tôi. Đó là: Những bông hoa mùa thu, Cửa
mẫu, và Hình đám cỏ.
Như thế, sau hơn 10 năm, từ trường
ca chuẩn tắc về cảm hứng sử thi, thể tài nhân văn, phương thức tự sự cùng
trữ tình và cấu trúc chương hồi, Mai Văn Phấn đã có sáng tạo trong thể loại marathon
của văn vần Việt Nam khi sinh ra cho trường ca Người cùng thời hai người-em,
góp phần, có lẽ quyết định, đi đến Hội thảo hôm nay.
V. Tạm kết:
Tham vọng nhận chân thơ Mai Văn Phấn
của chúng tôi không phải chỉ ở các tiêu chuẩn nhị nguyên đối lập (hay-dở,
mới-cũ, hiện đại-truyền thống, cách tân-cổ điển, v.v…) mà là vấn đề hệ thống và
phân định.
Hiểu rằng, mỗi tác giả, tác phẩm là một chữ, một câu trong
bài-thơ-chung của nghệ thuật thi ca, chúng tôi muốn được bình bàn mỗi tác giả
của dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị như những liên-tác-giả. Luận về tác
giả này cũng là ít nhiều bàn đến tác giả khác, hay chuỗi tác giả khác, trong
hoặc ngoài hệ hình. Không chỉ ở quan hệ trong nghệ thuật thi ca; quyết định là
ở các liên kết về văn-hóa-của-thi-ca.
Hiện nay, chúng tôi có danh sách
dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị gồm 35 tác giả, đó là: Chân Phương, Đinh Thị
Như Thúy, Khế Iêm, Hoàng Xuân Sơn, Lê An Thế, Lê Đình Nhất Lang, Lê Ngân Hằng,
Lê Văn Ngăn, Lưu Mêlan, Mai Văn Phấn, Ngô Tự Lập,
Ngu Yên, Nguyễn Đình Chính, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đức Tùng, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Thị Ánh
Huỳnh, Nhã Ca, Phan Nhiên Hạo, Phạm Phú Hải, Tam Lệ, Thi Vũ, Trần Khiêm, Trần
Huyền Trân, Trần Thiên Thị, Trịnh Sơn, Thường Quán, Trần Nhuận Minh, Trần Tiến
Dũng, Tuyết Nga, Uyên Nguyên, Văn Cao, Vương Ngọc Minh, và Yến Lan.
Với chúng tôi, đó là những thi sĩ
đã/đang/sẽ góp phần tạo nên hình thể thi ca Việt hiện đại, bằng những bút pháp
có một không hai của mình, và đa số ít được hoặc chưa được giới phê bình và dư
luận quan tâm tương xứng.
Ở ý nghĩa này, Mai Văn Phấn là một trong những tác giả có
một không hai, với sự cải cách đa phong cách nhất và thuyết phục nhất của thơ
Việt đầu thế kỷ 21.
Chúc mừng thi sĩ bằng Thơ tuyển Mai Văn Phấn - một
thành phẩm mới của văn chương nước nhà - đã sung mãn về sáng tạo, thân thuộc
trên truyền thông, nay đang qua ngưỡng cửa của học thuật và nghiên cứu!
Cám ơn Hội thảo đã đón nhận tham luận của chúng tôi, và thể
tất cho những gì sai sót.
Vancouver (22/4/2011; Tu chỉnh 15/4/2012)
ĐỖ QUYÊN
----------
*) Đã in trong Kỷ yếu Hội thảo thơ Mai Văn
Phấn và Đồng Đức Bốn; Đình Kính biên soạn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội 2011
Chú thích:
[1] Ko Hyeong
Ryeol: “Sáng tạo, tinh thần cho điểm đến”, Poem
and Comment Magazine 12/2010, Tuần báo Văn Nghệ Trẻ số
1-2/2011 & cuabien.vn
[3] Đỗ Quyên:
Đến trường phái thơ Việt từ cảm thức hậu hiện đại Việt”;
Tạp chí Sông Hương số 257 tháng 7/2010, và tapchisonghuong.com.vn
30/7/2010
[4] Diêu Lan
Phương: “Trường ca từ 2000 đến nay: xoá bỏ khoảng cách sử thi để gần
gũi hơn với đời sống”, Tuần báo Văn Nghệ Trẻ số 10,
5-6/3/2011 & vanhocquenha.vn
No comments:
Post a Comment