Những tuyệt phẩm của ông đều toát lên niềm tự hào về một nền văn hóa truyền thống lâu đời của tộc người mình. Ông luôn tự hào vì mình đã được sinh ra và lớn lên trưởng thành bên chân núi cao vút - Một trong những ngọn núi cao nhất vùng Đông Bắc - Quanh năm sương sa mây phủ. Một miền sinh thái ôn hòa ngây ngất tình người.
Tương truyền, thủa xa xưa nơi đây
chỉ có dấu chân của thú dữ với rừng rậm hoang vu. Một ngày kia người vùng thấp
bỗng phát hiện trên đỉnh núi Phja-Bjoóc cao vút xuất hiện một ngọn đèn rực sáng
suốt ngày đêm. Ngọn đèn trên đỉnh núi đã là một điềm lạ. Lạ hơn nữa là ngọn đèn
cháy từ mùa rẫy này sang mùa rẫy khác. Bốn mùa đã trôi hết mà ngọn đèn vẫn lung
linh chiếu sáng bốn phương trời. Cho đó là điềm lành dân các vùng gần xa bèn hú
gọi nhau về hội tụ ở quanh Núi Đèn ngày một đông đúc.
Từ đó núi mang thêm một
cái tên: Núi Đèn (Phja Đén). Núi Đèn đứng bên cạnh núi Phja-Bjoóc (Núi Hoa).
Một sự trùng hợp ngẫu nhiên: Người làm thơ ở chân Núi Đèn cũng đã cất tiếng
khóc chào đời trong một hang đá có tên là Xí-Kèng. Đứa con trai của một
bà mẹ nghèo khổ vùng cao. Người mẹ đó đã được Mẻ Bjoóc trên trời thả hoa vàng
trên ngực (1). Đó là vào năm 1913 Quý Sửu.
Uống sương mà lớn, ăn củ mà khôn.
Sớm có lòng yêu nước thương nòi, vào những năm đầu của cuộc Cách mạng giải
phóng dân tộc, nhà thơ Bàn Tài Đoàn đã gia nhập mặt trận Việt Minh với tất cả
nhiệt huyết của tuổi thanh xuân. Được sự dìu dắt trực tiếp của Cách mạng và
nhất là của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp. Tư tưởng trong sáng tạo văn học của Bàn
Tài Đoàn là tư tưởng của Cách mạng. Tất cả nguồn cảm hứng sáng tác của nhà thơ
là những nguyên mẫu gần gũi, thân thuộc. Tất cả xoắn theo một định hướng rõ rệt
như một con đường sáng trong phong cách sáng tạo rất Bàn Tài Đoàn: "Anh
lìa em ra đi cứu nước. Em khắc ở nhà trông đứa con thơ..." (Bài thơ
Dặn vợ dặn con). Ông là người cùng khổ biết vì những người cùng khổ vươn
lên đòi quyền sống, quyền bình đẳng tự do từ giai cấp thống trị Thực dân, phong
kiến. Thơ ông trọn đời chiến đấu cho mục đích cao cả đó. "Cụ Phan, Cụ
Hoàng cũng đã đánh... mặc dù không thắng cũng làm Pháp kinh hoàng. Đến đời Cụ
Hồ mới tìm thấy, con đường Các-Mác mà đi theo..." (Bài thơ Lịch sử
nước Việt Nam).
Bàn Tài Đoàn viết như kể chuyện tâm tình, rủ rỉ khúc triết
đời thường. Những câu tục ngữ, ngạn ngữ, những trải nghiệm gập ghềnh đèo dốc
trong sâu thẳm tâm hồn cũng như ngoài thực địa. "Không phải người Dao
con với cái, mới là bỏ đi được mẹ cha". (Bài
thơ Đừng nghe gió hoang). "Khi còn ở trên lưng con
vịt, lông làm con vịt hóa chiếc thuyền, khi bị người ta lấy đi mất, thân vịt
tiêu tan một lúc ngay" (Bài thơ Lông vịt).
Có thể nói bài thơ "Muối của Cụ Hồ" là một sáng tác tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tạo của Bàn Tài Đoàn. Bài thơ rất giàu âm sắc của trường ca Bàn Hộ:
Có thể nói bài thơ "Muối của Cụ Hồ" là một sáng tác tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tạo của Bàn Tài Đoàn. Bài thơ rất giàu âm sắc của trường ca Bàn Hộ:
Con khóc đòi ăn cơm chấm muối
Mẹ tìm đâu hột muối cho con
Mẹ dỗ: Con ơi đừng khóc nữa
Bố gánh củi đi đổi muối rồi
Con nín nghe theo lời mẹ bảo
Bố về được muối đầu đũa ngon".
Khi cánh cửa xác xơ mở ra đón bố vào thì:
Con hỏi muối đâu bố lắc đầu
Không đủ tiền người giàu không bán...
Thế rồi:
Đến ngày không có tàu bay giặc
Quân Pháp phải bỏ đất Hà - Giang
Từ khi cán bộ Cụ Hồ đến
Ngoài chợ có bán nhiều thứ hàng.
Mẹ tìm đâu hột muối cho con
Mẹ dỗ: Con ơi đừng khóc nữa
Bố gánh củi đi đổi muối rồi
Con nín nghe theo lời mẹ bảo
Bố về được muối đầu đũa ngon".
Khi cánh cửa xác xơ mở ra đón bố vào thì:
Con hỏi muối đâu bố lắc đầu
Không đủ tiền người giàu không bán...
Thế rồi:
Đến ngày không có tàu bay giặc
Quân Pháp phải bỏ đất Hà - Giang
Từ khi cán bộ Cụ Hồ đến
Ngoài chợ có bán nhiều thứ hàng.
Bởi vậy các cô sơn nữ mặc dù quanh năm ngày tháng tất bật
với công việc nương rẫy nhưng cô nào cũng xinh đẹp hơn vì có quần áo, giầy dép
đẹp. Mỗi buổi chợ phiên các cô dậy sớm hơn mặt trời để xuống núi. Các cô như
một rừng hoa xuân vậy.
Những câu Páo-Dung đối đáp của trai gái Dao đã đi vào thơ
ông và vật vã sinh nở. Từ một thành viên của tộc người rẻo cao heo hút với vốn
ngôn ngữ chỉ đủ để nói chuyện với thần thánh, Bàn Tài Đoàn đã dùng Hán
Nôm bước ra hội nhập, giao thoa với 54 dân tộc anh em của dải
đất hình chữ S, góp thêm vào nền văn hóa chung của Việt Nam bằng văn hóa
Dao hồn nhiên đặc sắc. Đó là 11 tập thơ do Nhà xuất bản Văn
học, Nhà xuất bản Việt Bắc, Nhà xuất bản Văn hóa ấn hành trong khoảng thời gian
liên tục từ năm 1960 đến năm 1985, chưa kể hai tập văn xuôi ký và tiểu
luận do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cùng với một tập hồi ký hoạt động Cách
mạng của ông. Đó đúng là một kho báu, biểu trưng về tinh thần Dao trong lao
động sáng tạo không mệt mỏi với trách nhiệm công dân cao nặng.
Long đong trong chuyện tình duyên nhưng rồi ông cũng vừa
lòng với những gì thượng đế đã ban cho: "Được làm chồng một người mẹ
trẻ". Đã là một vợ chồng rồi thì: "Khi yêu chẳng
muốn rời một buổi, lúc giận nặng lời chẳng muốn trông, nhưng làm cỏ nương mong
trời tối".
Bàn Tài Đoàn còn là một người sơn cước mẫn cảm, luôn luôn xúc động trước đồng loại. Tuy nhiên chỉ xúc động thôi thì chưa đủ, ông tỏ ra là một cây bút tài năng thiên bẩm. Ông biết cách truyền tải, chia sẻ những xúc động đó với bạn đọc một cách mộc mạc bất ngờ đến kỳ tài qua ngôn ngữ rất hữu hạn của mình. Thơ ông cập bến khắp mặt bằng cuộc sống sơn dã của tộc người Dao trong một mối liên kết với cộng đồng các dân tộc anh em khác qua các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thơ ông ấm áp thủy chung son sắt như tình bạn, tình anh em, vợ chồng, cha con.
Bàn Tài Đoàn còn là một người sơn cước mẫn cảm, luôn luôn xúc động trước đồng loại. Tuy nhiên chỉ xúc động thôi thì chưa đủ, ông tỏ ra là một cây bút tài năng thiên bẩm. Ông biết cách truyền tải, chia sẻ những xúc động đó với bạn đọc một cách mộc mạc bất ngờ đến kỳ tài qua ngôn ngữ rất hữu hạn của mình. Thơ ông cập bến khắp mặt bằng cuộc sống sơn dã của tộc người Dao trong một mối liên kết với cộng đồng các dân tộc anh em khác qua các giai đoạn cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Thơ ông ấm áp thủy chung son sắt như tình bạn, tình anh em, vợ chồng, cha con.
Dưới chế độ cũ, không có tiền đồng nghĩa với không có gì cả.
Không bạn bè, không muối ăn, không người yêu thương, không dám đi hỏi vợ, không
cả tình nghĩa ruột rà. Bởi vậy mọi quan hệ tốt đẹp nào đến với ông là ông hết
sức nâng niu:
Đoàn với Chấn và Chấn với Đoàn
Hai người tình bạn nặng nhân văn
Người ở xa nhau cách sông núi
Tấm lòng thì ở cạnh thêm gần. (2)
Hai người tình bạn nặng nhân văn
Người ở xa nhau cách sông núi
Tấm lòng thì ở cạnh thêm gần. (2)
Những gì mà dân tộc ông có được hôm
nay là nhờ Đảng và Bác Hồ đem lại như tất cả các dân tộc anh em khác. Cuộc đời
và sự nghiệp sáng tạo văn học cách mạng của ông đã góp phần nâng ngọn núi
thiêng của quê hương Nguyên Bình - Nơi có cánh rừng Trần Hưng Đạo tôn nghiêm,
khai sinh lực lượng quân đội Việt Nam hùng hậu ngày nay - Lên thành huyền
thoại! Ông là niềm kiêu hãnh là cây cổ thụ của đội ngũ cầm bút ở Cao Bằng nói
riêng và của tất cả đoàn quân sáng tạo văn học nói chung. Ông đã làm được điều
kỳ diệu: Tạc được tên tuổi của mình vào trái tim những người yêu văn học khắp
mọi miền Tổ quốc Việt Nam.
Ông bây giờ đã ở cõi vĩnh hằng nhưng
tất cả những gì ông cống hiến cho dân tộc mình nói riêng và nói chung cho cách
mạng là vô giá.
TRẦN THỊ MỘNG DẦN
__________________
1. Tục truyền khi người đàn bà vùng cao sinh con trai hay con gái là do có một đấng quyền năng trên trời có tên là Mẻ-Bjoóc ban cho hoa vàng thì người đàn bà đó sinh con trai, ban cho hoa bạc thì người đàn bà đó sinh con gái.
2. Ý Bàn Tài Đoàn nói đến người bạn thơ thân của ông là nhà thơ lớn Nông Quốc Chấn.
Nguồn tin: TCNV
02-2012
No comments:
Post a Comment