Nhà thơ
Nguyễn Khoa Điềm từng làm Tổng thư ký Hội Nhà văn Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Văn
hóa Thông tin rồi Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tư tưởng & Văn hóa Trung
ương. Tôi không biết những năm nắm quyền lực lớn, ông đã có những công tích gì,
những sai sót gì; hẳn là ở những nơi như vậy, người ta khó tránh khỏi thị phi.
Nhưng điều ấy nằm ngoài sự quan tâm của tôi. Nguyễn Khoa Điềm, trước hết và sau cùng, ông là
nhà thơ.
Với nhà
thơ, tôi muốn nghe ông nói về sinh mệnh của thi ca; những phép tắc ứng xử với
thơ và thi pháp của nó. Chẳng hạn, trong hòa bình thì tinh thần chiến sĩ của
thơ là xây dựng nhân cách Việt, tôi đọc được điều đó trong bài ông mới cho in ở
báo Văn nghệ và chính nó đã đưa tới đề nghị rồi được ông chấp nhận cuộc trò chuyện
này. Trong khi trao đổi, như thói thường, tôi vừa nghe trả lời vừa đọc trong
tâm trí những câu thơ của ông, xin đặt trong các BOX để cùng chia sẻ với bạn
đọc.
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm |
Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm (NKĐ): Đúng là tôi có làm chính trị một thời gian dài, và như
người ta thường nói, “xay lúa khỏi bồng em”. Trong thời gian ấy, chỉ khi có
hứng mới làm và chỉ làm thơ. Không bao giờ dùng thơ làm cái loa phát ngôn cho
những nhiệm vụ và công tác chính trị. Một lý do nữa là thời gian đó tôi cũng ít
đưa in thơ. Nên khó gọi là một mùa.
Tôi có một hình dung vui vui, mình như
con dơi, chuột không nhận là chuột, chim không coi là chim. Anh em làm chính
trị thì bảo mình là nhà thơ, anh em nhà thơ thì lại bảo mình là nhà chính trị.
Đồng nghiệp nào thương coi mình là nhà thơ thì mình biết và cảm ơn, không thì
đành chịu.
Em mọc trên sườn núi ấy
Những năm chiến tranh
Đầy buồn vui can đảm
Trải bóng rộng đến bây giờ
Qua bao đớn đau mùa thay lá
Có thể nào khác được
Có thể nào em bật gốc giữa hồn anh
|
VC: Có hai nét khác biệt giữa ông và người tiền bối Tố Hữu, Tố Hữu, nhà cách mạng làm thơ, Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ trưởng thành làm chính trị. Ông cũng có một nét khác biệt nữa, là cùng sinh ở Huế, nhưng thơ ông ít chữ, ít vần còn thơ Tố Hữu thì thừa vần: “Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan/ Đường bạch dương sương trắng nắng tràn”mang đặc trưng ngữ điệu Huế - nơi từng là kinh đô với rất nhiều nghi thức phép tắc. Phải chăng, những năm thơ bé ăn học ở miền Bắc đã khiến ông có dịp học lời ăn tiếng nói của dân, còn nhà thơ Tố Hữu thì ra Bắc là làm ngay lãnh đạo đã làm nên khác biệt?
NKĐ: Tố Hữu cũng như nhiều nhà thơ về sau, trong đó có tôi, vẫn
dùng thi pháp của Thơ Mới. Nhưng có lẽ không nên đặt vấn đề như thế?
VC:
Thưa ông, tôi hiểu đây là vấn đề tế nhị, người Việt mình có nhiều điều kiêng
kỵ, nhất là khi nói về những giá trị đã vào lịch sử. Tôi cũng đồng ý với văn
học sử, Tố Hữu là một nhà thơ lớn của cách mạng, nhưng những cái chưa hay, còn
là nhược điểm thì cần chỉ ra. Vì rằng đời sống còn tiếp tục và nếu đời sống còn
phải chịu đựng có những nhà thơ làm cán bộ cao cấp in tới 80 bài thơ trong một
mùa báo Tết thì việc ít in thơ, không dùng thơ như một cái loa cho nhiệm vụ
& công tác chính trị khi còn làm Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thông tin và Trưởng
ban Tư tưởng văn hóa TW của ông là một cư xử với thơ rất đáng ghi lại. Bởi vì
nếu thơ quyền uy được tế nhị cho qua thì sẽ nói sao về thơ của những kẻ lắm
tiền bây giờ, họ dùng đồng tiền làm giám đốc công nghệ lăng xê, âu cũng là biến
thể của nó? Có lẽ, để thơ được tôn vinh trở lại, như một thời cả nước đọc thơ
Tố Hữu, thơ Phạm Tiến Duật, đọc Đất nước, Những người đi tới biển và Đường
tới thành phố… thì các nhà thơ cần chịu sự phê bình, bất kể họ là ai?
NKĐ: Cái khó của thơ là nó cần ảo diệu, hướng vào trong, nhiều
khi như một mật ngữ như thơ Hai Kư của Nhật Bản nhưng phải lay động cộng đồng,
lay động sâu xa. Một thời vận động cách mạng, một thời đánh giặc, lại một thời
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tư duy quan liêu bao cấp, thơ đã được sử
dụng công cụ - những vật rẻ tiền mau hỏng, như quang trành ky sọt trên công
trường; tạo nên rất nhiều sức ép nội tâm cho các nhà thơ. Các nhà thơ
phải hy sinh nghệ thuật cho thơ dễ hiểu, dễ phổ biến và về những việc cổ vũ
trước mắt. Nhân cách bị uốn là cái chết của thơ. Những kêu gọi sáo mòn “Vòng ngụy
trang bao lần thay lá mới” được ngâm được hát ở nhiều nơi, có thể duy trì tình
yêu thơ ca nhưng nó cũng dễ làm bằng lòng và cuối cùng là hạ thấp sinh mệnh của
thơ. Nhà thơ là chiến sĩ, rất đúng; nhưng sử dụng nó hồ đồ là chết người ta.
Phạm Tiến Duật khi viết Vòng trắng là đi tìm cách nói khác về chiến
tranh, thì bị ngay vì chúng ta hiểu tính chiến sĩ của nhà thơ không đúng. Ví
như khi hòa bình thì tinh thần chiến sĩ của nhà thơ không cần nữa sao?
VC:
Vâng, trong hòa bình thì tinh thần chiến sĩ của thơ là xây dựng nhân cách
Việt, tôi đọc được điều đó trong bài ông mới cho in ở Văn nghệ và chính
nó đã đưa tới đề nghị rồi được ông chấp nhận cuộc trò chuyện này. Đó là một
tiểu luận cô đúc chặt chẽ đến mức rất khó tóm lược, nhưng nếu đề nghị ông chọn
một đoạn văn tâm đắc nhất, ông sẽ chọn đoạn nào?
NKĐ: Có lẽ chúng ta sẽ chọn: “Nhớ lại những năm 30 của thế kỷ
trước, ta mất tự do độc lập, đó là nỗi đau lớn của mỗi người Việt. Tuy nhiên
lật lại hàng chục tờ báo ngày đó chúng ta không thấy người Việt có vấn đề nhân
cách, đạo đức, lối sống gay gắt như bây giờ hoặc nếu có thì cũng bị phê phán
không thương tiếc. Phải chăng với nhân cách cứng mạnh đó cộng thêm lòng yêu
nước được phát động mà dân ta quật khởi đập tan ách thực dân và bộ máy phong
kiến vào năm 1945? Ngày đó, có biết bao bậc sĩ phu, những nhà nho yêu nước,
những người cộng sản, những trí thức lỗi lạc, những nhà văn, những nghệ sĩ, nhà
báo, nhà giáo đã làm việc hết mình vì phẩm chất và nhân cách Việt để có một dân
tộc đầy súc mạnh, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” ? Tôi nghĩ đời nào cũng vậy, giáo
dục lòng yêu nước và xây dựng nhân cách Việt là vấn đề có ý nghĩa sống còn.
Hung bạo trên mạng trên sàn diễn,
trong lớp học
Hung bạo giữa bàn nhậu, cửa sau
công sở, hung bạo đường phố
(…)
Tôi thương xót những nhà khoa học
không đủ sức chống lại ngọn roi hung bạo
Tôi thương xót nhiều hơn cho chính
nước tôi
|
VC:
Như ông vừa nói, “thơ cần tôn trọng nhân cách, tôn trọng lựa chọn và tìm
tòi”. Thơ từ khởi thủy là Tự do nói về khát vọng Tự do, về Tình yêu, lẽ Công
bằng cùng lòng Bác ái; chỉ với Tự do, nó mới mong làm tròn sinh mệnh Tự do của
mình. Nhưng thật lạ là trong tập thơ Cõi lặng, ông cũng dè dặt, không
dám nói hết hoặc lảng tránh, hệt như chúng tôi. Vì sao vậy?
NKĐ: Nghịch lý này tích lũy qua nhiều thời cần hy sinh tất cả
cho cộng đồng, chúng ta quên con người. Ở đây cần thống nhất một sự thật lịch
sử; Chủ nghĩa xã hội là lựa chọn của chúng ta, lựa chọn với rất nhiều xương máu
– là lựa chọn đúng. Nhưng bản chất của CNXH là quan tâm đến số đông nhân quần,
chỉ tiếc về sau nó bị lái dần vào khuôn khổ chủ nghĩa Stalin, chính Mark không
giải thích đơn giản về đấu tranh giai cấp như chúng ta thường nhấn mạnh. Chủ
nghĩa Stalin dùng tăng trưởng làm thước đo cho tính hơn hẳn của CNXH nên hy
sinh tất cả cho con số tăng trưởng, không thấy con người; lấy mục đích (thực
ra mới chỉ là lý tưởng.VC) biện minh cho phương tiện, con người bị vứt bỏ
tàn nhẫn. Marx chủ trương cách mạng vì ông thấy chủ nghĩa tư bản thế kỷ XVIII
dã man với số đông nhân quần, chỉ quan tâm đến lợi nhuận của nhà tư bản và vì
nó kéo quá dài.
Từ trong sâu thẳm, con người không
chịu được cái cũ quá lâu, nhất là cái cũ xấu và ác; xã hội cũng thế. CNTB sau
thời kỳ đổi mới do sức ép của CNXH, quan tâm đến lợi ích của người lao động
hơn, nhưng bản chất của nó là quan tâm lợi nhuận cho chính nó, hiện nó lại lâm
vào khủng hoảng, phố Wall tràn ngập người biểu tình là vì vậy. Chúng ta, sau
thời gian đầu đổi mới tích cực, khiến con người được giải phóng, rất náo nức
phấn khỏi nhưng cũng đang dần bộc lộ những khuyết điểm. Ấy là tất cả cho GDP,
vẫn không nhớ con người, người dân vẫn lao đao. Nông dân bị lấy đất làm sân
golf vô tội vạ. Mà hình như người ta định làm gì ấy chứ, sân golf thì cần gì
nhiều đến thế? Nhiều người ngây thơ, coi dân là của mình, luôn luôn đứng về
phía mình là duy tâm chủ quan. Trí thức không thể không lo ngại về ngộ nhận ấy.
Rồi có một ngày
Có một người tốt
Bước ra từ lịch sử
Nói về cái tốt bị bỏ quên
|
VC: Vâng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói “Cán bộ lo cái lo trước dân, vui cái vui sau dân”, là trí thức thì không thể không hãi hùng trước cảnh tượng cán bộ cứ sung sướng, cứ sống vui trên cái đau khổ khốn cùng của dân chúng được. Nhân nói về trí thức, tôi sực nhớ câu chuyện năm 1995, tại Đại hội V Hội Nhà văn. Tôi lên đọc tham luận “Hãy tạo hành lang pháp lý cho văn học đổi mới.”Nội dung chủ yếu của nó là hệ lý luận hiện thực XHCN nói từ nghèo nàn lạc hậu (A) chúng ta tới thắng XHCN (Z), nay nói từ A qua thị trường (Y) rồi mới tới Z. Vì AYZ là một đường cong nên nếu cứ áp thước AZ vào đo tại bất cứ điểm nào của AXZ, đều thấy nó sai hoặc chệch hướng. Nhưng một số đại biểu vỗ tay đuổi xuống, dạy cho một bài học thấm thía về hội đoàn. Sau đó, tôi có đến Hội trình bầy với Tổng thư ký Nguyễn Khoa Điềm nội dung tham luận cùng những quy chế cho dân chủ hóa đời sống văn học. Nhưng có vẻ như nó đã không cần thiết?
NKĐ: Đúng là quá trình hiện đại hóa đất nước và văn học nói
riêng diễn ra ngập ngừng, chậm. Rất tiếc là hồi ấy tôi chỉ kiêm chức, thiếu thì
giờ dành cho Hội. Nhưng nếu đủ thì giờ thì vị tất đã làm được nhiều hơn vì
chúng ta bị vướng vào guống máy hành chính trì trệ. Jean Paul Sartre đã
viết rất kinh khủng về cái nạn hành chính, như một guồng máy, khi bị cuốn vào
nó, nó cuốn anh đi mất tăm tích luôn. Đã đến lúc cần nói rõ, chính thể nào cũng
sợ mất lòng dân và đều dành cho chuyên môn những thẩm quyền đặc biệt, tạm gọi
là thẩm quyền chuyên môn.
Lĩnh vực chuyên môn nhất định không
cho hành chính tràn vào, Đảng và Nhà nước cần tôn trọng ý kiến các chuyên gia
về những vấn đề chuyên môn. Ví dụ GS Tôn Thất Tùng ở thời của mình sẽ có thẩm
quyền cao nhất về các nghiên cứu mổ tim gan chứ không phải Bộ trưởng Bộ Y tế có
chuyên môn về vệ sinh dịch tễ chẳng hạn. Nhưng hình như hiện nay các nhà chuyên
môn lại có xu hướng hành chính hóa để hưởng lợi, dùng các lá phiếu, những ý
kiến đồng thuận để che chắn những khiếm huyết hoặc ý đồ cá nhân, như bóng đá
chẳng hạn bao lâu rồi mà vẫn không thoát được các chuyện bùng xùng tiêu cực.
Tôi luôn nhớ về họ
Những người đàn bà nhân hậu
Dong dỏng cao
Mông tròn
Vòng tay mềm mại
Sớm chia tay người đàn ông
Yểu mệnh
Bằng tất cả tình yêu cháy nồng
Riết róng
Đáp lại
Bọn đàn ông
Như cánh chuồn chuồn mỏng manh
Phất phơ đạp nước
Trên đại dương xanh biếc
Thanh xuân
|
VC: Vấn nạn hành chính quả thật kinh khủng, hẳn là ông có nghe những chuyện bất cập xung quanh Giải thưởng Nhà nước, Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật năm nay?
NKĐ: Có, tôi có nghe. Đây là việc không tính hết khi ban hành
pháp lệnh Giải thưởng. Từ thời ông Trần Hoàn kia, tôi kế tiếp cũng chưa thấy ra
hạn chế của nó. Vì tại thời điểm 1996, khi trao Giải Hồ Chí Minh cho Tố Hữu,
Xuân Diệu, Tô Hoài…thì thế hệ chống Mỹ chỉ ở mức Nhà nước là phải lẽ, không ai
thấy có gì bất ổn. Nhưng đời sống văn nghệ vẫn phải tiếp tục và quy chế 5 năm
một lần lại vẫn phải xét giải, thì mới nẩy sinh vấn đề những người đã nhận Giải
Nhà nước bằng các tác phẩm hay nhất của họ trong khi, thực tế là sau Tô Hoài thì
Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Phạm Tiến Duật… xứng đáng nhận Giải thưởng cao nhất tại
thời điểm này.
VC: Vâng, cả tôi và có thể hết thảy những người có lương tri
đều nghĩ như vậy, thế hệ chống Mỹ đang là trụ cột của nền văn học; tác phẩm của
họ đã và vẫn đang tiếp tục nuôi dưỡng tâm hồn nhân cách Việt.
NKĐ: Nhưng ở đây lại nẩy sinh vấn đề khác: Ví dụ cụ Tô Hoài chỉ
được nhận một lần Giải thưởng Hồ Chí Minh, mà giá trị giải năm 1996 ít tiền
lắm; còn những người chúng ta vừa kể lại được cả hai giải.
VC:
Mà chất lượng tác phẩm rõ ràng là không bằng những cuốn đã nhận Giải thưởng
Nhà nước của chính họ như Mưa mùa hạ không thể so với Mùa lá rụng
trong vườn, Sóng ở đáy sông không thể bằng Thời xa vắng, hoặc kém hẳn
như Tiếng bom và tiếng chuông chùa và Vừa làm vừa nghĩ của Phạm
Tiến Duật. Thưa ông, ngay từ buổi họp đầu tiên của cấp cơ sở Hội Nhà văn, khi
nhà văn Khuất Quang Thụy vừa từ cuộc họp ra, tôi đã nói như vừa nói. Ông Thụy
đáp, Đảng đoàn đã tính đến việc này, sẽ trao như là trao Giải trọn đời. Sau đó
báo chí cũng lên tiếng lo ngại, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều bầy tỏ lo ngại sẽ
xẩy ra chuyện lùng xùng (như đang diễn ra) trên VietNamNet. Thế rồi ý kiến của
chúng tôi trở thành chuyện gái góa lo việc triều đình! Sao vậy, như tôi biết,
Ban Tư tưởng văn hóa TW trước kia có viện Dư luận xã hội, lắng nghe mọi ý kiến
của dân chúng, tập hợp, phản ánh để Đảng ra những quyết sách đúng đắn kia mà?
NKĐ: Đúng là cần thêm Giải Trọn đời, ở cả Nhà nước và Hồ
Chí Minh. Ví dụ những người đã nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh và Nhà nước, nếu
xét thật chi tiết, họ có những đóng góp khác nhau cho văn học nghệ thuật, thậm
chí người nọ cách rất xa người kia. Sau chừng hai chục năm và có thể sau khi họ
chết, chúng ta sẽ đặt tất cả những người từng nhận giải cạnh nhau; xem xét và
trao Giải thưởng Hồ Chí Minh Trọn đời, Giải Nhà nước Trọn đời cho những người
xứng đáng hơn. Đáng tiếc là chúng ta lại xem xét một việc quan trọng ở cấp độ
Quốc gia trên tư duy của các chuyên viên của một vụ và tin họ quá chừng. Chúng
ta đang hành chính hóa những vấn đề chuyên môn. Không nhận ra như hồi chúng tôi
thì chỉ là nhược điểm không nhìn xa trông rộng. Nhưng công luận đã lên tiếng,
đã chỉ ra những bất cập, những trói buộc của chính sách mà cứ để nguyên, không
sửa pháp lệnh là quan liêu bảo thủ; là coi thường lẽ phải.
VC:
Như ông đã biết, văn hóa là nơi khu trú tinh thần của dân tộc; văn học vừa
thuộc về vừa là công cụ thúc đẩy quá trình kết tủa cho văn hóa. Vậy trong 10
năm là ủy viên Trung ương, 5 năm là Ủy viên Bộ Chính trị, ông đã nêu những vấn
đề của văn hóa văn học nào trong các kỳ hội nghị?
NKĐ: Rất ít. Tôi có tham gia một chút cho Nghị quyết 5, lấy ý
kiến rồi bàn thảo để ra Nghị quyết 23 về Trí thức trong đó có văn nghệ sĩ,
nhưng chắc chắn là văn học nghệ thuật cần nhiều quan tâm hơn thế nhiều. Chúng
ta đang bị những vấn đề kinh tế cuốn vào đến không thể có thời gian cho vấn đề
rất đáng quan tâm này. Đảng ta, qua nhiều thế hệ lãnh đạo luôn luôn nhấn mạnh,
văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận văn hóa tư tưởng. Về cơ bản, trước mắt và
lâu dài, họ là những người tiên phong bảo vệ cái tốt đẹp, chiến đấu chống cái
ác, cái xấu, cái bất công để xây dựng nhân cách Việt. Nhưng chúng ta làm không
được bao nhiêu.
VC:
Thưa ông, ngay cả cái áo giáp, ý tôi muốn nói đến hệ thống luật bảo vệ văn
nghệ sĩ; miếng lương khô cho họ cũng còn hẻo lắm, cũ lắm. Khi sang tuổi 60 tôi
hay cả nghĩ, tôi nghĩ thế này. Tổng biên tập báo Văn nghệ hiện nay là
đại tá, sắp 40 năm tuổi Đảng; ý tôi muốn nói là độ trung thành và lòng yêu nước
đã được thử thách kỹ lưỡng. Nhưng hễ cứ Văn nghệ in cái gì hơi khác biệt
thì Tổng biên tập lập tức lao đao. Như năm xưa in chùm truyện ngắn các nhà văn
Sài Gòn trước năm 1975 như một ngụ ý tốt đẹp rằng, ngày 30 tháng Tư năm 1975
chính là ngày thống nhất hòa hợp dân tộc, thống nhất văn học Việt Nam. Vậy mà
nhiều ý kiến của nhà văn, của những chuyên viên ở Ban ở Bộ gây rúng động văn
đàn; cứ như thể Văn nghệ đã phản bội máu xương đồng đội. Họ làm tê liệt
ý chí làm hay, làm khác của các ban biên tập; làm đau đầu nhức óc những người
mà lòng trung thành đã được thử thách hàng mấy tháng trời, hỡi ôi, lại
nhân danh lòng trung thành với Đảng, với cách mạng là lý cố làm sao?
NKĐ: Tư tưởng thật khó đổi mới, như thói quen. Như tôi biết,
tôi cũng như các anh về Ban sau tôi, không ai đặt vấn đề như vậy. Có nghe phản
ảnh thì cũng không có kết luận như vậy. Thật tiếc là chúng ta mất tâm sức quá
nhiều cho kinh tế cùng những phát sinh ngoài ý muốn do nó gây ra, để hệ thống
quyền lực của ta không có thì giờ đi sâu vào lĩnh vực khác, dù là quan trọng
như văn học nghệ thuật.
Ngay lĩnh vực do tôi phụ trách, cũng
chỉ quan tâm được đến báo chí. Và thường lại chỉ được quan tâm theo kiểu đặt
vấn đề “báo chí nói như thế này thì giao thông làm sao làm việc?” Do quan tâm
nhiều đến kinh tế, nhân sự hoặc vấn đề nhậy cảm quốc gia nên chính tôi cũng
phải nghe cấp dưới báo cáo về các lĩnh vực ấy, để khi dự họp có thể nghe, hiểu
và phát biểu được. Nhìn chung ai cũng thế, nghe cấp dưới báo cáo, tổng hợp rồi
trao đổi, rồi quyết định trên cơ sở của các báo cáo ấy. Ai có cấp dưới trung
thực, tài giỏi thì ý kiến thiết thực, đề xuất hoặc giải quyết công việc được
sáng suốt. Cấp dưới của ai quan liêu, đại khái thì đành chịu thế thôi.
VC:
Thật là nguy hiểm nếu có nhiều cấp dưới ở những văn phòng đại khái hoặc biết
đón ý chủ nhân. Hóa ra nạn hành chính không chỉ gồm quá nhiều các con dấu, các
thủ tục rườm rà; nó không chỉ làm khổ dân, nó còn làm đau đầu, thậm chí bó tay
che mắt ngay cả bộ máy quyền lực. Nhưng đó là việc không thể sửa một sớm một
chiều, tôi từng có lý thuyết chữa cái sai của 20 năm mất 19 năm không nên coi
là chậm.
Vả chăng, đây đang là mùa thơ trở về
vườn cũ của ông. Xin cho biết về công việc hằng ngày?
NKĐ: Tôi thường đạp xe thăm thú quê hương, thăm bạn cũ, chơi
với cháu; có hứng thì làm thơ, không thì đọc sách.
Cứ thế đoàn người hầm hố và cay
cực
Đi khắp núi sông
Đánh thức Nhân dân bằng cặp dùi
lục bát
Mong đợi những giọt nước mắt
Lăn trên bình minh trong trẻo mỗi
ngày
Các nhà thơ trên đường, 2010
|
VC:
Xin một câu hỏi ngoài thơ. Ông là người mực thước, ít giao du lại có người bạn
là nhà thơ Đồng Đức Bốn có tính cách thật khác biệt. Tại sao?
NKĐ: Nghe nói anh ta có nhiều tật, nếu có cũng phải thôi, có
tài thì có tật. Có chuyện rất tức cười, thế này. Bốn đến chơi, tặng tôi một ông
phỗng hai tay giơ lên đỡ một cục vàng to bự. Hẳn là với tâm thức dân gian, Bốn
nghĩ có vật đó trong nhà thì tôi phát tài! Cũng hồn nhiên như thơ anh vậy, đó
là thứ thơ vắt ra từ bùn đất. Tôi rất quý Bốn, có đến chơi nhà Bốn. Nhưng thi
nhân sao lại không thương nhau? Tôi có câu thơ Tôi sống với người, chết vì
người.
VC:
Cảm ơn ông về cuộc trò chuyện thú vị này.
(Nguồn: Báo Nghệ Thuật Mới số 1, tháng 2/2012)
Dẹp Điềm - cảnh sát tư tưởng lăm lăm dùi cui một thời - đi được rồi.
ReplyDeleteHão !