Tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của PGS.TS Trương Đăng Dung có thi mệnh là lạ. Cha đẻ của nó là dân lý luận phê bình xịn, hơn 50 tuổi mới tòi ra một
đứa “cỡ” rách giời. Dân thơ chuyên nghiệp mặt nghệt ra vì sợ, chẳng nhân nào
còn húng hắng Hoa Sơn luận kiếm. Chỉ trong một thời gian ngắn, hàng loạt bài
của các nhà phê bình hạng nặng công phá trực diện, đạn nổ rầm trời. Tập thơ của
Trương Đăng Dung mười mươi như ăn giải trung ương của HNV Việt Nam, nào ngờ đã
về mo trong kỷ niệm.
Hội Nhà văn Hà Nội
cũng lắm chiêu trò, đợi đến những ngày cuối tháng 2, rét vu hồi, cóng cả còng,
lại rủ nhau họp bỏ phiếu xét giải thưởng năm. Đúng là Đáo xuân, tập thơ “Những
kỷ niệm…” đoạt giải chính thức Hạng mục thơ của Hội Nhà văn Hà Nội, như một “…tưởng
tượng”. Việc “lựa ngọc” của Hội Nhà văn Hà Nội, suốt mấy năm nay luôn được anh
hùng trong thiên hạ tâm phục, khẩu phục. Xuất một chiêu, nhà LLPB văn học "thi ẩn"
Trương Đăng Dung làm bé lại cả làng thơ. Phẩm thi “Những kỷ niệm tưởng tượng”
xứng đáng có mặt trong tuyển thơ Việt Nam Thế kỷ 21 như một đóa kỳ hoa. (Đinh Tam Lệ)
(Văn chương +), trân
trọng giới thiệu với quý vị, 10 bài viết (50 trang A4, gần 25 nghìn chữ) của
các nhà thơ, nhà phê bình về tập thơ đoạt giải của Hội Nhà văn Hà Nội năm 2011.
Bài 1:
NHÀ THƠ ĐỖ QUYÊN - “TÁI ÁM ẢNH VỀ MỘT BÀI
THƠ ÁM ẢNH”
|
Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras[1]
Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
Tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu
Các nữ y tá nhìn ta
Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
Không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu
tiên
Những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
Chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
Rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh viện
Chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
Rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
Cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
Cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
Và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống ruộng
Cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
Và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
Chân người chết thò ra khỏi chiếu
Cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
Vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
Và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
Bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
Khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
Em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
Giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Chân người chết thò ra khỏi chiếu
Cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
Vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
Và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
Bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
Khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
Em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
Giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
Có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
Để làm búp bê cho em tôi chơi
Làm dùi cho em tôi đánh trống.
Có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
Để làm búp bê cho em tôi chơi
Làm dùi cho em tôi đánh trống.
Budapest, 4/1983
_________
1. Hollo Andras là nhà thơ Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng
hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông
Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam.
TRẦN ANH THÁI: MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH
Khoảng cuối năm 2004, tôi vô
tình đọc được bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng,” đăng trên tạp chí Sông
Hương, tác giả của nó là Trương Đăng Dung. Lúc đó tôi chưa biết Trương Đăng
Dung chính là PGS-TS, tác giả của cuốn sách Tác phẩm văn học như là quá
trình, một chuyên luận nổi tiếng, được các học giả trong nước và ngoài nước
đánh giá rất cao; chuyên luận nghiên cứu về phương thức tồn tại của tác phẩm
văn học, dưới ánh sáng của mỹ học tiếp nhận… Nhưng bài thơ dài ba mươi hai câu,
ông viết tưởng nhớ một người bạn nước ngoài là nhà thơ người Hungary Hollo
Andras, đã gây nên chấn động mạnh mẽ đến gai người; một ấn tượng đau thương,
quằn quại trong sâu thẳm người đọc là tôi.
Đọc lại lần nữa, rồi một lần
nữa, tôi càng yêu quí và trân trọng sự giản dị mà sâu xa ẩn chứa trong từng
câu, từng chữ. Bài thơ không chỉ lôi cuốn tôi bằng một giọng lạ, mới và về một ký
ức đau thương, xa xót mà còn vì nó có được một cách sử dụng hình ảnh, cách kiến
tạo bài thơ, cách sắp xếp ngữ pháp câu thơ rất riêng, tạo nên một hiệu quả nghệ
thuật khác thường. Bài thơ của Trương Đăng Dung được viết từ tháng 4-1983, tức
cách nay đã gần ba mươi năm (đã in lần đầu trên tạp chí Tác Phẩm Mới của
Hungary , số 10-1983). Vào thời điểm ấy, nếu được in ở trong nước, bài thơ của
ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm. Cảm ơn Trương Đăng Dung đã cho tôi thưởng lãm
bài thơ rất hay này.
NHÀ THƠ ĐỖ QUYÊN: TÁI
ÁM ẢNH VỀ MỘT BÀI THƠ ÁM ẢNH
Một sáng tác thơ đặc sắc đến
rùng mình! Đọc bài trên phongdiep.net, tôi cũng bị “ám ảnh” theo người
bình, và thấy nó ánh lên một thứ “thi pháp” khác lạ. Khác lạ, không chỉ với thơ
phương Đông (điều quá rõ!) mà có lẽ cả trong thơ phương Tây. Thi sĩ Anh-Ấn
Rudyard Kipling, ở đâu khác nữa thì không biết chứ ở bài thơ “Những kỷ niệm
tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, Đông và Tây đã “tay nắm trong tay” rồi!
Chia sẻ với các nhận định
khái quát của Trần Anh Thái, tôi thử minh họa bằng năm nét sáng nên bài
thơ:
1. Thủ pháp áp đặt:
Bí kíp thi pháp là đây! Dẫu
chưa cần biết Hollo Andras (1) là ai – miễn là một ông Tây/Tàu/Phi/Mễ/Hàn/v.v…
không cùng hoàn cảnh sinh hạ với chủ thể “tôi” – nhưng độc giả vẫn nhận được
thi cảm qua thủ pháp áp đặt chủ thể và nhân vật (“tôi với anh”). Do tựa đề đã
có các từ “tưởng tượng,” sự áp đặt này logic về trật tự tư duy, dù khiên cưỡng
về sắp xếp nghệ thuật. Chính cái khiên cưỡng đã gợi hương vẻ kỳ quái của thơ.
Đến lượt mình, chính cái phi lý lại giải khiên cưỡng, trả thơ về đời bình
dị.
2. Thủ pháp phi lý:
2.1. Phi lý về thời gian
khiến độc giả choáng ngay ở câu đầu (“Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm
1054”) cho tới câu “tôi với anh…”, rồi “ngày ta sinh…”! Bạn có thể hỏi: Cái
“ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý Thái Tông nhà mình, sao
lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này? Hay lỗi nhà báo in sai
– 1954? Đọc tới câu “giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn” đặt gần đoạn
kết, ta càng thấy Trương quân quả có nghênh ngang thật đấy nhưng đến là khôn,
lại còn khéo nữa!
2.2. Phi lý về không gian địa
lý (Âu-Á), về hoàn cảnh xã hội (Tây-Ta) được khỏa lấp bằng loạt hình ảnh phi
thực, siêu thực, hay cực thực tạo bất an nơi người đọc ngay từ đoạn đầu. Thế
rồi lý trí lại bị che lấp trong chuỗi tự sự đầu cua tai nheo. Nhân vật phụ “em
gái tôi” xuất hiện (“đột ngột ra đời”) như giải pháp mạnh, hợp lý hóa sự phi lý
không gian, hoàn cảnh; và cũng để lý giải cho sự hồi tưởng song sinh của “tôi”
và “anh.” Nhân vật phụ ấy vụt trở thành VIP trong tác phẩm! Tính nhân bản của
sáng tạo là chỗ này: Sinh nở gọi sinh nở! Chất trữ tình ở bài thơ cũng là đấy!
Nếu đọc ẩu sẽ tưởng như một dòng hồi ức bằng thơ, khùng dở và rời rạc, dằn vặt
và khô khan.
2.3. Phi lý về ngữ nghĩa ở
hàng loạt tượng hình siêu/phi/cực thực (“lấy nhau… làm đồ nhắm rượu,” “chuột ăn
cắp tã vá,” “tranh nhau chỗ ngồi với rắn”…) đã dung hòa, nhất là đã xoa dịu các
hiện thực có thật trong đó nhà thơ, khoảng bốn mươi năm trước, từng là một
chứng nhân cho thời kỳ bi thương của đất nước Việt Nam mà quê hương miền Trung
của ông là tuyến đầu. Ở sáng tác này, yếu tố hiện thực huyền ảo đáng được
thưởng huân chương chiến công của một bút pháp! Cái “ký ức đau thương, xa xót,”
cái “ấn tượng đau thương, quằn quại,” nhờ đó, đã vượt lên bề mặt của văn bản,
khiến văn bản lớn dậy và trở thành tác phẩm văn chương. Viết về hậu chiến mà
đạt tới độ-không như vậy, chiến tranh chỉ còn biết treo cờ trắng!
2.4. Phi lý về kết cấu, bài
thơ nom xộc xệch; như dang dở. Đúng là một xâu “kỷ niệm” không chỉ “tưởng
tượng” mà còn đầu Ngô mình Sở; như thể câu nói vô thức liền hơi bạ gì kể nấy.
Mở bài và kết bài đều đột ngột, tạo sốc, nhưng nhộn nhàng, hồn nhiên. Giống câu
chuyện cổ tích thời a-còng!
2.5. Phi lý về cảm hứng chủ
đạo giữa cái Bi và cái Hài, cái Trữ Tình và cái Tự Sự; trong đó hai cái sau
(Hài, Tự Sự) nói chung là xa lạ với thơ Việt.
3. Thủ pháp thành phần
phụ:
Có thể nói, bài thơ của
Trương Đăng Dung đã sử dụng hết mình thủ pháp này; từ tựa đề, tới lời đề tặng
và cuối cùng là địa điểm, thời gian viết. Tức là toàn bộ văn bản, từ đầu đến
chân. Tựa đề, như nói trên, “ăn nhau” là ở các từ “tưởng tượng.” Lời đề tặng
“Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras” khẳng định thêm các trích ngang về nhân vật
“anh.” Địa điểm, thời gian làm bài thơ “ Budapest , 4-1983,” nhất là mốc “1983”
dự phần vào các điểm 2.1, 2.2. (Ở bản đăng trên trang mạng tạp chí Sông
Hương, thì là các con số “5-1984”; chúng càng trở nên đẹp khi sánh với câu
thơ đầu tiên và át chủ, ta hãy đọc lại: “Tôi không thể quên một ngày tháng Năm
năm 1054”.) Tức là, bài thơ vớ i“ba mươi hai câu” thơ ấy có cả thảy
ba-mươi-lăm-dòng-thơ.
Thông thường, phần “phụ tùng”
của một bài thơ rất dễ bị (và cũng nhiều khi là được), những “mẫu nghi thiên hạ
thơ” ở các tòa soạn ra tay sửa chữa, cắt gọt, thậm chí… liệng xừ đi cho gọn!
Tựa đề thì khỏi nói; dù sao cũng là đỉnh núi chứa tinh túy và chủ ý của toàn
tác phẩm. (Nói cho ngay, không thể nào coi tựa đề như một thành phần phụ! Ở đây
chỉ mang ý khu biệt nó, cùng hai cái “phụ tùng” kia, với thân bài thơ.) Nhưng
còn lời đề tặng và địa điểm, thời gian hoàn thành, dường như ít được người đọc,
người biên tập ngó tới khi thưởng thức, xem xét; thi thoảng mới có nhà phê bình
để mắt khi cần tìm hiểu. Thế nên, không chỉ với bài “Những kỷ niệm tưởng
tượng,” xin được mạnh bút mà rằng, với không ít thi phẩm, hai phần phụ đó có
thể mang chở các thông tin hữu ích về nội hàm và ngoại vi thơ. (2)
4. Thủ pháp kết hợp
Đông-Tây:
Biểu hiện thi ca qua các yếu
tố văn hóa (từ phong tục ẩm thực “cùng nhau ăn thịt chó” tới sinh hoạt nhi đồng
“làm búp bê cho em tôi chơi”), y tế (“các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời”),
v.v… mà chí tử ở bài thơ này là yếu tố chiến tranh (“và những cánh tay trẻ thơ
bom hất lên cành cây vắt vẻo / bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…) của hai
khu vực Đông-Tây, hai lãnh địa Á-Âu đã được diễn đạt không úp mở qua cả nội
dung tư tưởng cho đến cấu trúc, phong cách rồi hình tượng, giai điệu…
Mạnh hơn các thủ pháp khác,
thủ pháp xóa nhòa không nhân nhượng mọi đường biên quốc gia, dân tộc, cá thể
trong bài thơ đã làm nổi lên một nhân sinh quan phổ cập từng được nổi danh qua
nhà thơ Nga Konstantin Simonov với “Nỗi đau này đâu chỉ của riêng ai.” Phải
rồi, đó là của “chúng ta,” bởi đã “lớn lên cùng nhau,” “cùng nhau thấy…”, “cùng
nhau thấy….” và “cùng nhau thấy…”! Chúng ta – đó là Hollo Andras và Trương Đăng
Dung, là Trần Anh Thái và Đỗ Quyên, là Sông Hương và phongdiep.net, là
v.v… và v.v… Danh sách chủ thể và đối tượng thơ cứ kéo dài theo hành trình tiếp
nhận thơ. Nghệ thuật thi ca phải là vậy!
5. Thủ pháp điểm rơi của
bài thơ:
Thiển nghĩ, không chỉ như nhà
bình thơ đã nói – “Vào thời điểm ấy (1983), nếu được in ở trong nước, bài thơ
của ông sẽ thật độc đáo và lạ lẫm.” – mà ngay bây giờ, những năm 2000, nó vẫn
“độc đáo và lạ lẫm” về cách dẫn dắt thơ và về giọng điệu thơ. Nhưng vì thi ca
Việt, trong lẫn ngoài nước, vẫn đang qua cái thời né tránh hiện thực thô,
thẳng; nên nếu đọc nhanh đọc đều “Những kỷ niệm tưởng tượng” giữa cả một
dòng-thơ-thô-thẳng hôm nay, có lẽ ta sẽ dễ để trượt khỏi mắt mình cái Siêu lấp
la lấp lánh từ cái Thực chói chang của bài thơ.
Ám ảnh là đức tính chính của
sáng tạo văn nghệ.
Thay cho từng lời cám ơn nhà
thơ Trương Đăng Dung, cám ơn nhà bình thơ Trần Anh Thái, cám ơn các diễn đàn
thơ Hung, Việt Tác Phẩm Mới, Sông Hương và phongdiep.net,
mời tất cả chúng ta hãy có lời tổng cám ơn Nàng Thơ – mẫu nghi của cái thiên
địa tràn đầy thơ ca này!
Vancouver, 30-9-2009
Chú thích & Phụ lục:
1) Hollo Andras là nhà thơ
Hungary, tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Budapest năm 1977, là một trong những văn
nghệ sĩ các nước XHCN cũ ở Đông Âu dành nhiều thiện cảm với Việt Nam. Tác giả
Trương Đăng Dung đã học và nghiên cứu ở đó, là người dịch nhiều bài thơ của
Hollo Andras ra tiếng Việt.
2) Chúng tôi cũng đã ít nhiều
lưu tâm tới ý nghĩa của các thành phần phụ trong một bài thơ, và xin khất ở dịp
khác. Một ví dụ khá rõ cho “sức mạnh” của lời đề tặng là với bài thơ “Nếu” của
Nguyễn Đức Tùng, đăng lần đầu trên talawas.org, từng làm lao xao độc giả
trong và ngoài nước hồi năm ngoái (http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=12515&rb=0101)
3) Bài bình của Trần Anh Thái
và bài thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung:
Bài 2:
INRASARA
– “TRƯƠNG ĐĂNG DUNG, THƠ NHƯ LÀ THỎA THUẬN Ý NGHĨA”
|
(Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, tập thơ của Trương Đăng Dung, NXB Thế giới, H., 2011)
Xao xuyến (angoisse) – một khám phá lớn của triết học hiện sinh, là nỗi sợ hãi căn nguyên. Sợ hãi không gì cả, không đối tượng cụ thể, không thể nắm bắt. Nỗi sợ vô hình. Nó có đó, nhưng không thể gọi tên. Khi ta muốn gọi tên nó, khi ta ý định giải thích nó thì nó liền lẩn mất. Lẩn mất, mà vẫn ở lại. Đột ngột xuất hiện trở lại, và gây xao xuyến, khắc khoải.
Chỉ có vài sinh thể ưu tư thâm trầm mới bắt gặp
sợ hãi căn nguyên này. Một bắt gặp không cần biến cố lớn lao trong cuộc sống,
mà là rất tình cờ. Khi ta lang thang lơ đễnh một mình giữa đồng không mông
quạnh, hay khi nửa đêm chợt tỉnh ta thấy ta bất chợt có mặt trên đỉnh núi lạ
lẫm. Hay như trên một chuyến tàu đêm nơi một thành phố xa lạ:
Một chuyến tàu hối hả
chạy về đâu trên đất lạ trong đêm.
Tôi thức với trái tim
những ý nghĩ lang thang trong lồng ngực
không còn đủ sức
chạy theo con tàu.
Khi ta thoát khỏi thao túng hay bận tâm của sự
vật quanh ta. Bằng hữu, anh chị em, đồ đạc quen thuộc trong căn phòng quen
thuộc.
Khoảng cách bỗng dài thêm
đêm choàng hết những gì còn lại
đâu đó còn ai thức với tôi không?
(“Đêm ở Roma”)
Không gì cả. Tất cả vật thể đều trôi đi. Chỉ một
mình ta ở đó. Ta “thấy” nó và, “được” nó. Như một tặng vật, đặc ân ban tặng cho
kẻ trầm tư. Ban tặng không như một chiếm hữu nó, mà ngược lại, chính nó chiếm
hữu ta. Lay động ta dữ dội ở thẳm sâu nhất tâm thức ta, cả con người ta. Chối
bỏ không được. Chạy trốn càng không.
Đạo Phật cho rằng chỉ khi nào con người vượt qua
nỗi sợ hãi căn nguyên này, họ mới đạt đến hạnh phúc viên mãn. Các bậc tu hành
với bản lĩnh tu tập và quả phước từ ngàn kiếp trước mới đạt đến cõi đó. Con
người phàm trần thì cực khó. Thi sĩ càng không, có lẽ. Không có vấn đề hơn hay
kém ở đây, mà khác đi: thi sĩ không muốn “đáo bỉ ngạn”.
Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung đầy tràn nỗi xao xuyến, khắc khoải
đó. Thời gian, cái chết (“lũ quạ” mang ý nghĩa tượng trưng) và đau khổ (qua,
với và trong “bức tường”) như thứ ám ảnh – ba trong một, một mà ba – đi xuyên
suốt tập thơ mỏng này.
Những bức tường, những bức tường, những bức
tường là nhịp ba đập liên lỉ, lặp đi lặp
lại không dứt. Những bức tường chính là nguyên do của nỗi khổ ải tạo thêm nhiều
dòng sông đau khổ gọi mời phụ lưu đau khổ khác đổ thêm bao đau khổ vào bể khổ
cuộc đời – mênh mông, bất tuyệt.
Có những bức tường ta xây
và ta phá,
có những bức tường ta không xây
và không nhìn thấy.
Nhìn thấy hay không nhìn thấy thì vẫn vậy. Dù ý
thức hay không ý thức, chủ hay khách, tác nhân hay nạn nhân, buồn hay vui, chia
tay hay sum họp, khóc cười, yêu ghét, hồ hởi bắt tay hay xoay lưng lánh mặt
hoặc đầu gối tay ấp… ta đều dựng lên bức tường. Những bức tường tạo đau khổ.
Tôi khổ, em khổ, anh khổ, chúng tôi khổ, các anh khổ… Tất cả đều bị bao quanh,
bị khu trục – không thoát ra được.
Vậy thì làm sao?
Đức Phật ban phát Tứ diệu đế hòng đưa con người
thoát khỏi vòng trầm luân của kiếp nhân sinh. Krishnamurti đơn giản hơn: hiểu
tức là giải thoát. Nhưng thế nào là hiểu?
Hiện thực thời hậu hiện đại chỉ còn là vật thế
vì giả tạo (simulation) đã mất hết hệ quy chiếu với hiện thực như thực
mà chỉ quy chiếu đến các kí hiệu khác rồi kéo theo vô vàn kí hiệu khác nữa,
trùng trùng duyên khởi tạo tác từ chính ngôn ngữ và hình ảnh đang ngập tràn thế
giới ta sống.
Con người [thời] hiện sinh vong thân giữa thế
giới đồ vật và trong tha nhân; còn hơn thế, con người hậu hiện đại chìm ngập
trong vô vàn hình ảnh phi căn nguyên. Trong khi kẻ hiện sinh bất lực và đau khổ
và than vãn, thì kẻ hậu hiện đại kêu gọi nhập cuộc chịu chơi.
Thế nhưng, thii sĩ không phải là tư tưởng gia
hay đạo sư, hắn có cách khác: cách đặc thù của thi sĩ. “Chỉ chúng ta kẻ ngụ
cư ngang thời gian/ là không rớt lại” (Inrasara, Sinh nhật cây xương
rồng). Trương Đăng Dung có cách khác nữa:
Anh không thấy thời gian trôi
chỉ thấy những đám mây di chuyển…
(“Anh không thấy thời gian trôi”)
Nghĩa là chết đi thời gian, chết đi ba phân kì
thời gian: quá khứ – hiện tại – tương lại. Chết đi cả kì gian (durée).
Biến “sát-na thành thường trụ“. Chết đi với thời gian có nghĩa là hiểu
thời gian, cũng có nghĩa là giải thoát khỏi khổ đau và cái chết. Giải thoát
không phải là cắt đứt, không là thoát đi, ra đi, bỏ đi mà là ở lại. “Đi –
như là ở lại“. Bởi thi sĩ vẫn ở trong cõi người ta, hắn đang bổn phận canh
giữ ngôn ngữ dân tộc. Bố tát là hàng đạt đạo, nhưng khác với A-la-hán quả vị
đầu, Bồ tát không bỏ đi mà ở lại. Ở lại và chấp nhận nói ngôn ngữ của cõi
người. Ngôn ngữ như là thứ phương tiện thiện xảo của thương lượng, hay của
“thỏa thuận” ý nghĩa – nói như Trương Đăng Dung.
Văn chương Việt Nam thiếu tư tưởng, – các tư
tưởng nền tảng. Triết lí nếu có, chỉ là mấy lí sự vụn, triết lí cóp nhặt đầy
chắp vá. Có được một tác phẩm mang tính tư tưởng là điều hiếm.
Năm năm trước Gửi VB (NXB Hội Nhà văn,
H., 2006) là một. Phan Thị Vàng Anh đánh thức sự vật đang có mặt trong sinh
hoạt ngày thường giữa đời thường. Đúng hơn, các bài thơ gọi tên sự vật đang
thức, những sự vật đang trầm tư. Những phố, chung cư, mưa, con hẽm,
chiếc taxi, áo len đỏ, cầu thang, cái điện thoại, ngọn đèn, giường, bàn, máy,
đồng hồ trên tường, mọt nghiến chân bàn, lá xanh vươn qua song, những đàn bướm
trắng, hoa lít nhít… tất cả sự vật có đó. Với con người. Trong cái
mà thi sĩ đã gọi tên qua ngữ ngôn của thi ca. Qua đó thiết lập sợi dây tương
liên con người với sự vật gần gũi ngày thường, con người gắn kết mình với mặt
đất, và an cư trên mặt đất như là ở nhà.
Tập thơ Gửi VB khá mỏng, nhưng nó rất nền
tảng. Như Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung, không dày,
nhưng đủ đầy trong suy nghiệm về thời gian, đau khổ và cái chết qua thứ ngôn
ngữ “thỏa thuận” (như Heidegger buộc phải sử dụng ngôn ngữ siêu hình học để nói
lên tư tưởng):
và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa.
Thế giới không thuần nhất
bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận.
Chỉ có thi sĩ đích thực mới có thể sử dụng thứ
ngôn ngữ “thỏa thuận” như phương tiện thiện xảo mà không tổn hại đến ngôn ngữ
như là ngôn ngữ. Ngôn ngữ ở đó, hắn – như một mục tử – bổn phận đứng canh giữ.
Sài Gòn,
7-8-2011
INRASARA
Bài 3:
ĐỖ LAI THÚY – “TRƯƠNG ĐĂNG DUNG VỚI THƠ –
THỜI – GIAN”
|
Anh không thấy thời gian trôi
thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khóe mắt làn môi
thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khóe mắt làn môi
Trong dáng em đi nghiêng nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi
như đang viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi
(T.Đ.D.)
1. Bạn đọc trước đây đã từng quen với một Trương – Đăng –
Dung – lý – luận, thì từ đây sẽ quen với một Trương – Đăng – Dung – thơ, những
chiều kích khác nhau của một con người. Làm lý luận, Trương Đăng Dung thích thứ
lý luận thuần túy, làm việc với các ý tưởng để sản sinh ra ý tưởng. Lý luận văn
học của anh, vì thế, gần với triết học, hoặc đi ra từ triết học. Mà triết
học với thi ca thì, như Aristote nói, là hai chị em ruột. Bởi vậy, nhìn ở cấp
độ này, người ta không hề ngạc nhiên thấy nhà lý luận Trương Đăng Dung làm thơ.
2. Khác với nhiều người chỉ làm thơ khi đã về hưu, hoặc sớm
hơn “nghỉ quản lý”, tức sau khi đã đạt được những viên mãn nào đó trên chính
trường hoặc trong học thuật, mới làm thơ, theo cái truyền thống “trẻ Nho già
Lão” (trẻ văn xuôi già thơ) của Đông Á, thì Trương Đăng Dung làm thơ khi còn là
sinh viên đại học và liên tục cho đến ngày nay. Nhưng khoảng cách thời gian kể
từ khi những bài thơ đầu tiên của anh được in ở báo Văn nghệ (1978) đến
khi thơ anh xuất hiện lại trên tạp chí Sông Hương (2002) là hai mươi bốn
năm. Bao năm qua, theo cách nói của Nietzsche, anh bị chi phối bởi “sức mạnh
phản ứng”, nên dồn tâm trí nhiều vào việc đi tìm chân lý, dĩ nhiên với anh là
chân lý học thuật. Và, lệ thường, một khi đã khẳng định chân lý này thì phải
phủ nhận chân lý kia. Người ta phải đi vào khoa học, và với Trương Đăng Dung là
khoa học văn học, là vì thế. Và cũng vì thế mà sức mạnh nguyên thủy nguyên khối
trong con người bị phân chia, cuộc sống trở nên bị thiến hoạn. Dù là để tạo nên
công trình khoa học đầy tính chiến đấu. Nhưng ngày càng, ở Trương Đăng Dung,
“sức mạnh hoạt năng” vốn thuộc về nghệ thuật càng trở nên chiếm ưu thế. Thẩm mỹ
cũng có xung đột, nhưng là thứ xung đột để ngỏ, không vì sự đúng sai mà vì sự
khác biệt. Nghệ thuật, nhất là thơ, nhờ thế bảo toàn được sức mạnh uyên nguyên
và sự đa dạng đời sống và thẩm mỹ.
3. Khoảng dăm năm trước đây, tôi, Trương Đăng Dung và Bửu
Nam đi ăn tối ở Huế xưa và bàn phiếm về văn học. Nhân đà hứng chuyện,
Bửu Nam nói sau này có lẽ Trương Đăng Dung “tồn tại” không phải nhờ những công
trình lý luận của anh, mà bằng những bài thơ anh cho đăng tải gần đây. Lúc ấy,
tôi thấy Trương Đăng Dung thoáng sững người, im lặng. Tôi vội ra hiệu cho Bửu
Nam đừng nói tiếp và lảng sang chuyện khác. Nhưng gần đây, tại một quán cà phê
ở Hà Nội, lời nhận xét này vô tình lại được thốt ra từ miệng một người bạn khác
của Trương Đăng Dung. Lần này, tôi đã thấy anh mỉm cười vui vẻ. Hóa ra, nhận
thức thơ, dù là thơ của mình, cũng là một quá trình. Thơ Trương Đăng Dung càng xuất
hiện nhiều trên Sông Hương và tạp chí Thơ, càng được dư luận
trong và ngoài nước đánh giá cao, thì càng khẳng định thêm điều đó ở anh. Và,
giờ đây, tập thơ Những kỉ niệm tưởng tượng được trình làng. Sự
kiện này không nói lên rằng con người thơ Trương Đăng Dung chiến thắng con
người lý luận trong anh, mà chứng tỏ là trong “hoàn cảnh hậu hiện đại”, khi các
“thần tượng” của Nietzsche hoặc các “đại tự sự” của Lyotard bị hoài nghi và sụp
đổ, chân lý trở nên tương đối bởi sự đa nguyên và đa thể của nó, thì đây chính
là thời của văn chương nghệ thuật. Trương Đăng Dung, tôi nghĩ, bao giờ cũng là
người – của – hiện – tại, như tự ngôn của Picasso, “tôi không tiến đi đâu cả,
tôi là hiện tại”.
4. Có thể nói, thơ Trương Đăng Dung là thơ – thời – gian.
Người Việt ta, kể từ khi tiếp nhận văn minh phương Tây là bắt đầu từ giã thời
gian truyền thống, thứ thời gian quay theo vòng quay của mùa màng hoặc sự tuần
hoàn của vũ trụ, để chấp nhận thời gian khoa học, tuyến tính. Từ đó, với họ,
thời gian một mặt là sự thành công, là của cải, tiền bạc, mặt khác là cái chết,
một cái chết không thể đảo ngược, không thể cứu vãn. Thời gian, vì thế, trở
thành một ám ảnh. Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những tiếng nói khắc khoải
muốn vượt qua nỗi – ám – ảnh – thời – gian này. Thơ Trương Đăng Dung đôi khi
còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước.
Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu thời – gian – Thơ –
Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt ráo, thì vẫn cứ là cái
bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong khi đó, thời – gian –
thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người, thời gian chính là
con người, hay nói như M. Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ,
tồn tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ, chính thứ thời
gian có tính kiến tạo này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước,
đều là sự thỏa thuận của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ. Thơ Trương
Đăng Dung hẳn vì thế mà có không khí hậu hiện đại.
5. Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ,
thậm chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào
đó về cuộc đời. Có điều, khác với thơ cổ điển, thông điệp thơ anh không phải là
những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói, mà là những chấm phá phía chân trời
vẫy gọi người đọc đến thám mã và đồng sáng tạo. Bởi lẽ mọi ý tưởng có sẵn, đúng
cho tất cả mọi người đều là những ý tưởng đã hóa thạch, còn những tư tưởng sống
thì đều đang vận động, dang dở và chưa hoàn kết. Tuy nhiên, làm một nhà thơ tư
tưởng là rất khó. Nếu anh để cho một “sứ mệnh” nào đó lấn át ngôn ngữ, thì yếu
điểm lập tức trở thành điểm yếu. Rất may là tư tưởng thơ Trương Đăng Dung không
đông đặc mà trôi chảy với một khí lực mạnh mẽ vào từng câu chữ, khiến ngôn ngữ thoát
khỏi được thân phận công cụ, để có đời sống tự thân, đôi khi tự phát sinh tư
tưởng. Nhờ thế, trên đường đến với ngôn ngữ, mỗi bài thơ Trương Đăng
Dung là một trạng – huống – ngôn – ngữ – nhân – sinh của anh. Và, qua anh, của
người đọc.
Kon tum, đêm 13 – 1 – 2011
NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG
TƯỢNG
(Tưởng nhớ nhà thơ Hollo Andras)
Tôi không thể quên một ngày tháng Năm năm 1054
tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời
ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
họ lấy nhau của mẹ ta chia nhau làm đồ nhắm rượu
các nữ y tá nhìn ta
kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
không có bông, họ lấy tà áo choàng lau vội.
Đêm đầu tiên ta nghe những tiếng động đầu tiên
những chú chuột ăn cắp tã vá của ta làm áo choàng vào bệnh
viện
chúng sờ lên mặt ta tìm môi ta liếm liếm
rồi chúng ra đi, ta hồi hộp nằm chờ.
Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau thấy những con trâu vừa kéo cày vừa đái bừa xuống
ruộng
cùng nhau thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông đầu gục xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi…
Sáng nay em gái tôi đột ngột ra đời
khi nhìn thấy tôi mẹ tôi cười đau khổ,
(mẹ ơi mẹ sinh em đâu phải là tội lỗi)
em tôi nằm mặt cau có đầy nhăn
giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ một ngàn.
Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống.
Budapest, 4-1983
ANH CHIẾM CHỖ BÓNG ĐÊM
Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn.
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp.
Anh chiếm chỗ bóng đêm
cơ thể lún sâu đến kiệt sức
những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
sâu lắng và bí ẩn.
Bóng đêm chạy trốn
Thủy triều lên từng đợt, từng đợt
Bãi cát mịn mượt mà dâng hiến.
Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ.
Có phải chúng ta đang bị tự nhiên lừa*
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
4.2007
——————-
* Ý của Arthur Schopenhauer
Bài 4:
NGUYỄN TRỌNG ĐỨC – “NỖI BUỒN NHÂN
THẾ TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG”
|
(Cảm nhận về tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng)
Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách
là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện
của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượnglàm xôn xao văn đàn
Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra
rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung
thơ. Có thể nói rằng ở Trương Đăng Dung, lí luận và thơ là hai thái
cực khác nhau nhưng lại có sự xuyên thấm hài hòa; những công trình
lí luận của ông không cứng nhắc trên lí thuyết, mà đã có sự tác
động tích cực vào đời sống văn học nước nhà; còn với thơ, dù mới
chỉ trình làng tập thơ đầu tay, nhưng Trương Đăng Dung đã chứng tỏ
được tài năng của một cây bút có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư
tưởng và cảm xúc, giữa chất trí tuệ và độ mặn mà của tâm tư tình
cảm. Đó là chưa kể đến một lối diễn đạt mới lạ mang đậm dấu hiệu
của Chủ nghĩa Hậu hiện đại.
Những kỷ niệm tưởng tượnglà một tập thơ hiện thực – sản phẩm của một tâm
hồn lãng mạn, là nỗi lòng thất vọng về hiện thực đang diễn ra, và
niềm khát vọng về một hiện thực bình yên, hạnh phúc trong tưởng
tượng. Những ai không trải nghiệm đắng cay, gian khổ trong đời, những
ai dửng dung với cuộc đời và tình người thì không dễ cảm được những
điều tác giả gửi gắm trong tập thơ này.
Đến với Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương
Đăng Dung, chúng tôi nhận ra trong cái dòng chảy trầm buồn của thơ ông
một chiều sâu tư tưởng. Bao trùm lên tập thơ này là một nỗi
buồn nhân thế. Nỗi buồn ấy được thể hiện ở nhiều trạng thái
khác nhau. Có khi đó là sự hoài niệm về quá khứ, về hình
ảnh dòng sông và dòng đời thủa thiếu thời, khi người với người sống
với nhau đầy ắp nghĩa tình:
Anh trở về với bến sông xưa,
Em không nhớ thời gian nước chảy
Anh không biết những ngày thơ bé ấy
Những giọt nước qua má, qua môi
Rơi xuống bàn tay ấm nóng hơi người.
(Có thể)
Và hình ảnh người mẹ với đức hy sinh cao cả cũng
làm cho Trương Đăng Dung cháy lòng:
Có một thời
Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét nồi
Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa.
(Có một thời)
Quá khứ thật nhiều gian khổ, nhưng Trương Đăng Dung
không buồn vì sự gian khổ ấy, ông chỉ buồn vì sự đổi thay của xã
hội và tình đời đã làm cho cuộc sống trở nên nhạt nhẽo, những giá
trị tinh thần, những dấu tích văn hóa truyền thống đã trở nên phai
nhạt:
Hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này
Tôi không còn nhiều bạn
Cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
Tôi không còn kí ức
Những giọt máu cuối trời tuổi thơ…
(Ghi chép hè 2009)
Điều đáng nói là lúc hoài niệm về quá khứ lại là
lúc mà tác giả thiết tha với cuộc đời hơn. Ông viết:
Anh không thấy thời gian trôi
Chỉ thấy lòng ngày một tha thiết với trời xanh
(Anh không thấy thời gian trôi)
Nỗi buồn nhân thế của Trương Đăng Dung có khi lại thể
hiện ở những khắc khoải về kiếp người ngắn ngủi. Trạng thái
này được lặp lại nhiều lần như một nỗi ám ảnh của tác giả. Nhà
phê bình Đỗ Lai Thúy thật đúng đắn khi bàn về vấn đề thời gian
trong tập thơ này; đó không phải là thời gian bên ngoài như nỗi ám
ảnh của các nhà Thơ mới, mà trong tập thơ này, tác giả quan niệm
thời gian ở trong máu, trong khóe mắt, làn môi, trong dáng đi,… Thời
gian chính là con người. Tác giả tập thơ dường như cảm nhận được
bước đi rất nhanh của thời gian trong cơ thể mình. Bởi vậy mà ông luôn
khắc khoải, lo sợ.
Anh không thấy thời gian trôi
Thời gian ở trong máu, không lời
Ẩn mình trong khóe mắt, làn môi
Trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi.
(Anh không thấy thời gian trôi)
Ý thức được bước đi của thời gian và sự ngắn ngủi
của kiếp người, Trương Đăng Dung càng day dứt bởi những việc ấp ủ,
những khát vọng còn chưa kịp thành hiện thực:
Sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được
Mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành.
(Anh không thấy thời gian trôi)
Những khắc khoải, lo sợ về kiếp người ngắn ngủi
càng cho thấy tấm lòng hết mực yêu đời và tư tưởng lớn, khát vọng
lớn của Trương Đăng Dung.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng
Dung, chúng tôi thấy một trạng thái tư tưởng, cảm xúc được thể hiện
tập trung và xuyên suốt tập thơ, đó là nỗi buồn, sự thất vọng
trước hiện thực đời sống con người và xã hội. Khi hoàn niệm về
quá khứ, Trương Đăng Dung tiếc nuối đến cháy lòng, lúc trở về hiện
tại, ông đau đớn vô cùng bởi đâu đâu trên thế gian này cũng thấy chiến
tranh, chết chóc, đói khổ, sự bon chen, chia lìa, đơn chiếc, lạnh
lùng, đỗ vỡ; đâu đâu cũng đầy những trái ngang, phi lí,…
Trên dòng đời hối hả mấy ai dừng lại để thổn thức
trước nỗi đau của đồng loại trên khắp thế gian này như tác giả của Những
kỷ niệm tưởng tượng. Ông nhìn đâu cũng thấy đau thương. Đơn giản
nhất là nỗi đau vì những toan tính mưu sinh, những gian nan vất vả
của kiếp người:
Còn đây gương mặt của con người
Nhàu nát mưu sinh và hy vọng.
(Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi)
Kế đến là nỗi đau sự đói khổ, túng thiếu:
Ngày ta sinh là ngày đầu tiên ta nằm bệnh viện
Các bác sĩ hân hoan khi có trẻ ra đời
Họ lấy nhau của mẹ ta làm đồ nhắm rượu.
Các nữ y tá nhìn ta
Kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói
Không có bông, họ lấy
tà áo choàng lau vội.
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Và nỗi đau của những cảnh ngộ:
Anh đã thấy những người dị dạng
Dang tay đòi hái mặt trời
Những bóng ma thọt chân, lang thang
Đòi trở về quê cũ,…
(Chân trời)
Cuộc đời vốn đã lắm gian nan, cớ sao con người lại
chuốc thêm nhiều đau khổ, gây nên cảnh loạn lạc, và chiến tranh đãm
máu. Đây là hậu quả của chiến tranh mà Trương Đăng Dung đã tái hiện
một cách đau đớn và khủng khiếp đến ghê người:
…..và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí
Trên nóc toa là trẻ nhỏ người già.
Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những
người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn,
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo,…
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Thánh đường Hồi giáo lẽ ra là nơi ban phát đức tin
và tình yêu thương che chở của chúa, nhưng Trương Đăng Dung lại nhìn
thấy:
Bom nổ ở một thánh đường Hồi giáo
Máu người nhuộm đỏ sách Kinh.
(Ghi chép
hè 2009)
Trong bài Giấc mơ của Kafka, tác giả lại một
lần nữa nhấn mạnh sự phi lí của xã hội loài người trong bối cảnh
hậu hiện đại:
Ở New York chiều chiều
Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông
cứu những con chim sẻ.
Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng
Người nằm ngáp
Trâu xếp hàng mua cỏ.
Ở Moskva những thiếu phụ da vàng
Chơi với hổ
Trên quãng trường ngập nước
Ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình
Không có miệng
Huơ tay chào khán giả…
Chính những nơi được xem là văn minh nhất của thế
giới lại là nơi ngập tràn những điều phi lí, trái ngang. Loài người
đang đi đâu, về đâu? Hướng đến sự văn minh, hay đang đi ngược lại quy
luật sinh tồn và phát triển. Trương Đăng Dung đau buồn trước hiện thực
nhân loại “càng bước càng lún sâu vào đất”.
Hiện thực cuộc sống vốn nghiệt ngã, lạnh lùng, lẽ
ra con người phải xích lại gần nhau. Vậy mà vẫn còn đó cảnh khi
cánh cửa nhà này mở ra/ cánh cửa nhà kia khép lại (Những người đàn
bà), người với người đi theo hàng dọc, nên chẳng bao giờ họ gặp
được nhau. Viết những dòng thơ như thế, Trương Đăng Dung dường như muốn
gửi đến người đọc chúng ta một thông điệp giàu ý nghĩa nhân sinh:
đời vô cảm thì con người cần phải hữu cảm, có như thế cuộc sống
này mới bớt thương đau.
Hiện thực xã hội đang đỗ vỡ từng ngày đã nằm
ngoài sức tưởng tượng của Trương Đăng Dung, khiến ông không chỉ buồn,
không chỉ đau mà còn ngơ ngác không hiểu nổi. Trong bài thơ Chúa đã
ra đi ông viết:
Ta lớn lên ngơ ngác cõi người
Tình thương, thù hận, buồn, vui
Hun hút đường xa cát bụi
Người đi không biết về đâu
Điều kì lạ vẫn là thế giới
Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ thơ
Chúa đã ra đi
Chúa không thể nào ngờ.
Trong một xã hội đầy nghịch lí như thế, hạnh phúc
là điều rất mỏng manh và cũng không dễ gì có được. Trương Đăng Dung
đã thể hiện điều này qua kết cấu đầy thú vị của bài thơ Ảo ảnh.
Mở đầu bài thơ tác giả đã giới thiệu về một hiện thực đầy nghịch
lí:
Bao năm rồi anh tìm em
Trong những bình minh không có mặt trời
Trong những lâu đài chỉ có cánh dơi
Trong những giấc mơ không đầu không cuối.
Khổ thơ tiếp theo được mở đầu bằng một mệnh đề nghi
vấn: Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời. Đến cuối khổ
thơ, câu trả lời có được là hai từ Nước mắt. Vậy là, theo
Trương Đăng Dung, cuộc đời trong xã hội này đồng nghĩa với nước mắt,
khổ đau, còn hạnh phúc chỉ là ảo ảnh.
Cũng trong bài thơ này, tác giả mở đầu bằng hình
ảnh bình minh không có mặt trời, đến cuối bài thơ tác giả lại
kết thúc bằng hình ảnh ánh nắng nhạt nhòa thấp thoáng bên khung
của. Cái kết cấu khép kín này đã mở ra cho người đọc nhiều suy
nghĩ về một xã hội không có gì chắc chắn, không có gì rõ ràng,
không có gì bất tử. Tất cả chỉ nhạt nhòa tựa như ảo ảnh.
Buồn đau, không hài lòng với thực tại xã hội loài
người, nhưng Trương Đăng Dung không có cảm giác bi lụy khi đối diện với
hiện thực ấy. Là một người lạc quan, yêu đời, ông luôn ấp ủ niềm
khát vọng về một thế giới bình yên. Khi cuộc sống này có quá nhiều
Những bức tường, khi xã hội này đầy nắng, mưa và gió,…
Trương Đăng Dung vẫn âm thầm hy vọng về một thế thái nhân tình ấm áp
nghĩa tình. Ông dặn con và cũng là để nhắc nhở chúng ta:
Bố chỉ
mong trái tim con đừng bao giờ lạc lõng
Trước mọi vui buồn bất hạnh của thời con
(Viết cho con).
Có thể nói rằng, mỗi câu, mỗi chữ của Trương Đăng
Dung đều ẩn chứa một nét buồn, và cả tập thơ Những kỷ niệm
tưởng tượng của ông là một khối buồn về thế thái nhân tình. Nỗi
buồn của Trương Đăng Dung có cội nguồn từ một ý thức trách nhiệm cao
đối với cuộc đời, con người. Nỗi buồn ấy cũng cho thấy những khát
khao muốn cải tạo, muốn thay đổi để mai này cuộc đời sẽ tốt đẹp
hơn. Nếu nói mỗi nhà thơ là một nhà tư tưởng, thì điều đó quả rất
đúng với Trương Đăng Dung. Với tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng
ông đã chứng tỏ được tầm cao tư tưởng của mình.
Nói về nghệ thuật biểu đạt trong tập thơ, chúng tôi
thấy Trương Đăng Dung có một lối diễn đạt rất giản dị nhưng cũng rất
mới mẻ. Lời thơ của ông thiên về kể, nhưng ông không kể tràn lan, ông
chỉ điểm nhãn một số hiện tượng nổi bật mà ông đã trải nghiệm và
chứng kiến trong đời nhưng không làm mất vẻ đẹp hàm súc vốn là đặc
tính của thơ. Câu chữ của Trương Đăng Dung vừa giàu tính biểu tượng,
lại vừa giàu sức gợi cảm. Với Trương Đăng Dung, thơ chỉ đơn giản là
một trò chơi ngôn ngữ:
Ngôn từ kết nối
Phân chia,….
Và ngôn ngữ
tự do tạo nghĩa
Những gì thơ muốn nói thì người nghe tự hiểu.
Thơ luôn mang đặc tính ý tại ngôn ngoại, thơ hay lại
càng nhiều bí ẩn. Những gì tác giả bài viết này thể hiện trên đây
cũng chỉ là một góc nhìn, một cách nhìn về tập thơ Những kỉ
niệm tưởng tượng. Những mong bạn đọc gần xa sẽ tiếp tục kiếm
tìm và sẻ chia những điều bí mật đang tiềm ẩn trong tập thơ này.
Thành
sen, tháng 8 năm 2011
Bài 5:
HOÀI NAM – CẢM THỨC LẠC LÕNG TRONG
TẬP THƠ “NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG”?
|
Ai đó, hình như mặt trời của thi ca Nga, Alecxander Pushkyn, nói rằng tác phẩm văn học bắt đầu từ cái nhan đề của nó. Điều ấy, ít ra, là đúng với tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung. (NXB Thế Giới, 2011). “Những kỷ niệm” – cho phép người ta hình dung về sự trải nghiệm trong thực tế của tác giả, những trải nghiệm đã biến thành một phần di sản của ký ức. Nhưng “Những kỷ niệm tưởng tượng” thì thật lạ: kỷ niệm được chưng cất từ sự tưởng tượng, hay là sự tưởng tượng đã hóa thân thành kỷ niệm?
Câu hỏi này có lẽ sẽ treo mãi ở đấy, như một bí mật không ai khám phá
được; đồng thời, lại như một sự kích thích, một hối thúc người đọc phải dấn
thân vào cuộc phiêu lưu với tập thơ đầu tay của “ông đồ Nghệ nhiều chất Tây”,
nhà lý luận – dịch giả văn học Trương Đăng Dung. Và điều đó, chắc chắn, cũng
đồng nghĩa với việc người đọc sẽ được nếm trải cảm thức lạc lõng từ thơ ông, trong
thơ ông.
Tôi sẽ bắt đầu bằng một bài, có thể chưa phải bài hay nhất trong tập,
nhưng là bài có ý nghĩa như một lời tự bạch của Trương Đăng Dung, bài “Chúa đã
ra đi”. Hãy đọc những câu: “Một trưa tháng Năm tôi nghe tiếng xôn xao/ Tiếng
của con người tôi sẽ học/ Tôi nghe tiếng ai cười như khóc/ Và tiếng chim kêu
lạc lõng phía chân trời/ Tôi lớn lên biết nói tiếng con người/ Những tiếng đầu
tiên bà dạy: trời ơi/ Theo cánh bướm tôi đi học từng buổi/ Tôi lớn lên biết đọc
chữ con người/ Những chữ đầu tiên; quân giặc, bom rơi/ Đội mũ rơm tôi đến
trường mỗi buổi”. Là gì đây, nếu không phải là cảm giác ngỡ ngàng đến đau xót
của người “bị sinh ra” (nói theo chữ của nhà văn, triết gia Pháp Albert Camus):
tại sao tôi lại sinh ra ở cuộc đời này, tại sao tôi phải sống cuộc sống này,
một cuộc sống đầy những điều trái khoáy vì đã không còn Chúa? (Chúa đã chết,
muốn làm gì thì làm – đó là câu nói bất hủ của văn hào Nga F. Dostoyevsky). Đứa
trẻ không được học những tiếng nói của tình yêu thương của con người như lẽ ra
nó phải học, mà đó là những tiếng nói nhuốm mùi chiến tranh, giết chóc, tiếng
nói tuyên cáo sự tàn sát giữa con người với con người! Thơ Trương Đăng Dung có
khi cô đặc lại thành những câu ngắn, vừa là sự quan sát ghi nhận, vừa là sự
chiêm nghiệm đầy ưu tư của tác giả. Những câu ngắn, nhưng chứa đựng sự cật vấn
dai dẳng, riết róng và đau đớn của con người trước thời cuộc, sự cật vấn trước
chính những gì mình đã trải qua. Tôi muốn nói tới bài “Có một thời”, bài thơ có
những câu: “Có một thời/ Đi về đâu mà ai cũng vội/ Có một thời/ Hạt bụi cũng
quẩn quanh/ Có một thời/ Nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi/ Có một thời/ Nghe lá
vàng rơi lòng ta không xào xạc…”. Bằng một cái nhìn ít nhiều mang màu sắc xã
hội học thô thiển, khi quy chiếu những câu thơ trên vào hiện thực đời sống của
một thời chưa xa – bài thơ được viết năm 1987 – nhiều người ắt sẽ không tránh
khỏi giật mình vì sức mạnh bóc trần và phản tỉnh của nó. Đời sống sao mà quẩn
quanh, bế tắc, tầm thường, bé mọn, vô cảm, vô nghĩa lý! Đời sống như thế bị tác
giả khai tử bằng một câu hỏi nhức buốt: “Có một thời/ Có một thời/ Ta đã sống
thật sao?”. Cả một quá khứ bỗng trở nên bị tẩy trắng các giá trị, con người
bỗng trở nên lạc lõng với chính một phần cuộc đời của mình! (Phải mở ngoặc đơn
để nói riêng về một chi tiết ở bài thơ này, một chi tiết mà cá nhân tôi thấy
cực kỳ thú vị. Đó là mấy câu mở bài: “Có một thời/ Đến bữa cơm mẹ ngồi đợi vét
nồi/ Răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa?”. Viết về cái đói kinh niên, cái đói
gây ám ảnh hãi hùng của một thời, theo một cách vừa hóm hỉnh vừa xót xa như
Trương Đăng Dung thì quả là ít thấy). Vượt lên khỏi sự đeo bám của một thứ nội
dung thời cuộc nào đó, đôi khi, trong cái nhìn của tác giả, toàn bộ đời sống và
những con người đang sống đều là những tồn tại chưa có lời giải đáp, nói cách
khác, là những tồn tại chưa tìm được tính ý hướng của nó, mục đích của nó, cho
nó. Vì thế, ông có một câu thơ với hình ảnh thật lạ: “Thành phố phía chân trời/
Mặt trời lên/ Những con người ngồi trên xe/ Những dấu hỏi chạy trên đường/ Lặng
lẽ” (Thành phố phía chân trời).
Cảm thức lạc lõng của con người trước con người, trước thế giới, thậm chí
với chính mình, còn được Trương Đăng Dung định vị bằng hình ảnh những bức
tường, được hiểu như một sự chia cắt bên này – bên kia. Những bức tường, có
loại do con người xây lên, nó hữu hình, nên có thể phá; lại có loại không do
con người xây, và con người cũng không nhìn thấy, vì nó vô hình, nên không có
cách gì phá được. Với loại bức tường thứ hai, thì đó là sự chia cắt mang tính
tiên nghiệm (apriori), sự chia cắt tựa như định phận cho mỗi cá thể thuộc loài
người. Trong bài thơ cùng tên, “Những bức tường”, Trương Đăng Dung đã xác nhận
thứ định phận – sự chia cắt tàn nhẫn này: “Giữa những cái bắt tay/ Có một bức
tường/ Giữa em và người em thấy trong gương/ Có một bức tường/ Giữa hai chiếc
gối nằm kề nhau/ Có một bức tường”. Ông nhận thấy, một cách phổ quát, những bức
tường này có mặt ở khắp nơi trong thế giới này, như một thuộc tính của thế
giới: “Khi ta ngước mắt nhìn trời xanh/ Trên mặt đất đã có những bức tường/ Khi
ta cúi xuống nhìn mặt đất/ Xung quanh ta đã có những bức tường/ Khi ta nghĩ đến
những miền xa/ Phía trước ta đã có những bức tường/ Những bức tường, những bức
tường, những bức tường/ Có mặt khắp nơi/ Trong những lời vui đoàn tụ/ Trong
những lời buồn chia tay”. Không thể nói rằng cái nhìn về và vào thế giới như
vậy là một cái nhìn tươi tắn. Sự u ám, thậm chí mang màu sắc bi thảm của cái
nhìn ấy còn được tô đậm thêm bằng câu thơ kết bài: “Đêm đêm anh vẫn nghe lũ
quạ/ Cười nói huyên thuyên trên những bức tường này”. Con quạ, trong thi liệu
của truyền thống văn chương cả Đông lẫn Tây, là sứ điệp của cái chết và là
chính bản thân cái chết (hãy nhớ tới bài thơ “Con quạ” nổi tiếng của nhà thơ Mỹ
Egar Alan Poe và hình ảnh con quạ trong những thi phẩm ma quái của Lý Hạ thời
Đường). Tiếng quạ cười nói huyên thuyên trong câu thơ này, không gì khác, là
cảm nhận của tác giả về bước đi tàn khốc của thời gian, về tiếng cười chế giễu
của cái chết trước tất thảy những bận rộn lăng xăng vô nghĩa trong kiếp nhân
sinh. Ta sẽ gặp một lần nữa tiếng quạ kêu trong thơ Trương Đăng Dung: “Thời
gian rơi/ Qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ Không giữ được đâu em/ Anh nghe ngày
một gần hơn tiếng lũ quạ”. Đó là câu kết của bài “Anh không còn gì ngoài em”.
Cũng vẫn là như vậy, sự ám ảnh về bước đi của thời gian, của cái chết, trong
tâm trí con người. Đôi khi, sự ám ảnh này được thể hiện theo cách khá chân
phương, như một câu hỏi buột thẳng ra từ nỗi âu lo: bao giờ thì ta chết? Để cảm
nhận điều đó, hãy đọc những câu: “Anh chuẩn bị sống tự lúc mới sinh ra/ Nay hai
màu tóc đan nhau/ Ai biết được/ Còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu?” (Anh
không còn gì ngoài em). Chuẩn bị sống, nghĩa là chưa từng được sống một cách
đích thực. Cảm thức lạc lõng với đời sống ngấm ngầm lan tỏa và nhức buốt trong
câu thơ này. Đôi khi, sự ám ảnh về thời gian – cái chết lại được lồng qua thi
ảnh khá ấn tượng (bàn tay): “Chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ Bàn tay ta bất
động giữa đất dày/ Bàn tay ta thôi tìm nhau run rẩy” (ảo ảnh).
Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy từng viết trong Lời giới thiệu cho tập thơ
“Những kỷ niệm tưởng tượng”: “Thơ Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút
thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng của mùa đông trước”. Đó là ông nói tới nỗi
ám ảnh về thời gian – cái chết của Trương Đăng Dung trong thế so sánh với các
tác giả thời Thơ Mới, nhất là với Xuân Diệu. Tôi không có ý kiến khác với nhận
định này, nhưng mạn phép được thay chữ “đôi khi” bằng chữ “nhiều khi”. Chỉ có
điều, Trương Đăng Dung đã không còn… hồn nhiên như thi sỹ tiền bối. Nếu nỗi ám
ảnh về thời gian – cái chết khiến cho Xuân Diệu phải vội vàng: “Tôi muốn tắt
nắng đi/ Cho màu đừng nhạt mất/ Tôi muốn buộc gió lại/ Cho hương đừng bay đi…
Mau với chứ, vội vàng lên với chứ/ Em em ơi, tình non đã già rồi” (Vội vàng)
thì, Trương Đăng Dung níu kéo thời gian – sự sống theo một cách chậm rãi và ít
ồn ào hơn nhiều: “Em ở lại/ Một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ Ta
cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối/ Tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi” (ảo
ảnh). Ông sợ bước đi của thời gian: “Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ Khi
môi ta rời nhau/ Hơi ấm đã thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng sẽ trở nên trống
rỗng/ Khi em xếp lại chăn màn/ Ký ức không còn nơi ẩn náu”, nên muốn dừng thời
gian lại, muốn đóng khung thời gian trong một nỗ lực tuyệt vọng: “Em đừng xếp
lại chăn/ Em đừng chải lại tóc/ Em đừng tô lại môi/ Cứ để nguyên áo quần trên
ghế/ Cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ Trước thời gian”
(Vật chứng). Nhà nghiên cứu Đỗ Lai Thúy phát hiện ra một điều: thời – gian –
thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con người. Không phải không
có lý. Thì đây, Trương Đăng Dung viết: “Anh không thấy thời gian trôi/ Thời
gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ Trong dáng em đi
nghiêng nghiêng như viết lên mặt đất thành lời/ Về kiếp người ngắn ngủi” (Anh
không thấy thời gian trôi). Cảm quan về thời gian của Trương Đăng Dung, vì thế,
trong chừng mực nào đó, cũng thể hiện chính cảm thức lạc lõng của ông: lạc lõng
với chính những cái bên trong con người, tưởng gần gặn mà rất đỗi xa lạ! Bởi
vậy, ông mới có thể xáo trộn những khoảng thời gian quá khứ – tương lai gần như
vô tận vào với nhau, như trong một cơn mê sảng của cảm thức lạc lõng: “Có thể
em quên rằng anh đã gặp em/ Hai mươi ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ Có
thể em đã quên cánh buồm nâu ngày ấy/ Trôi giữa trời xanh không biết đến bao
giờ… Anh không biết dòng sông trôi về đâu/ Bốn mươi sáu ngàn năm nữa/ Có thể em
vẫn nhớ một ô cửa của con tàu/ Nơi anh đứng/ Và bàn tay thấp thoáng vẫy trong
đêm” (Có thể). Thậm chí, quãng cách thời gian còn được Trương Đăng Dung kéo dài
ra hơn nữa, trong khi vẫn để mặc cho con người sống với sự hoang mang, lạc
lõng, sống với những câu hỏi khôn nguôi về ý nghĩa đích thực của tồn tại người:
“Còn đây gương mặt của con người/ Nhàu nát mưu sinh và hy vọng/ Thăm thẳm trời
cao đất rộng/ Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi” (Ba mươi năm hay ba triệu năm
rồi).
Đọc tập thơ “Những kỷ niệm tưởng tượng” của Trương Đăng Dung, khoan nói
tới những vấn đề đã được bàn tới sờn mòn như nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật, tư
tưởng v.v… ấn tượng đầu tiên đập mạnh vào sự tiếp nhận của chúng ta chính là
một hệ thống thi ảnh kỳ lạ, thậm chí quái đản: “Anh đã thấy những người dị
dạng/ Dang tay đòi hái mặt trời/ Những bóng ma thọt chân, lang thang/ Đòi trở
về quê cũ/ Và những đội quân không mũ/ Tay súng, tay đao chân bước thụt lùi/
Những nhà thơ chống gậy đứng cười/ Trước những con trâu mông dính đầy mạng
nhện” (Chân trời). Cái quái đản của hệ thống thi ảnh này, đôi khi lại chỉ là
những hình ảnh thật, nhưng trong cái nhìn và sự sắp đặt của tác giả, chúng thật
đến mức trần trụi, thật đến mức tạo cảm giác kinh ngạc về sự phi lý mang khuôn
mặt tàn nhẫn của hiện thực: “Chúng ta lớn lên cùng nhau ăn thịt chó… Cùng nhau
thấy những đám tang không có hòm/ Chân người chết thò ra khỏi chiếu/ Cùng nhau
thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra/ Vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh
nhau chỗ ngồi với rắn/ Và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/
Bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi” (Những kỷ niệm tưởng tượng). Không nên
quên rằng Trương Đăng Dung chính là người đã chuyển ngữ tiếng Việt tiểu thuyết
“Lâu đài” của F. Kafka, đồng thời là tác giả của một tiểu luận xuất sắc: “Thế
giới nghệ thuật của Franz Kafka”. Trong tiểu luận này, ông viết: “Hình ảnh của
Kafka là hình ảnh của cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang
mang lo sợ trước thế giới. Điều đó làm nên đặc trưng của thế giới Kafka… Sự độc
đáo của nhà văn nhạy cảm đến mức bệnh hoạn này là ông đã không đưa giấc mơ vào
phục vụ nghệ thuật mà ngược lại, theo cách riêng, Kafka đã đưa nghệ thuật của
mình phục vụ những giấc mơ” (Tuyển tập tác phẩm Franz Kafka. NXB Hội nhà văn,
2003). Nói sao mặc lòng, ít hay nhiều, Kafka cũng đã “ám” vào tư duy nghệ thuật
của Trương Đăng Dung và làm thành một trong những khởi nguyên của hệ thống thi
ảnh kỳ lạ trong thơ ông. “Giấc mơ của Kafka” là bài thơ rất đặc trưng cho
phương diện này. Với tôi, đây là bài thơ hay nhất của cả tập, và vì thế tôi sẽ
dẫn nó toàn văn: “ở New York chiều chiều/ Những con voi nhảy từ tầng mười một
xuống sông/ Cứu những con chim sẻ/ ở Paris trước cửa Viện bảo tàng/ người nằm
ngáp/ Trâu xếp hàng mua cỏ/ ở Moskva những thiếu phụ da vàng/ Chơi với hổ/ Trên
quảng trường ngập nước/ ở Tokyo nữ phát thanh viên truyền hình/ không có miệng/
Huơ tay chào khán giả/ Khắp nơi/ Những đôi mắt/ Dính trên cổ những người không
có mặt/ Những tiếng kêu/ Phát ra từ miệng những người không có cổ/ Những bàn
chân/ Càng bước càng lún sâu vào đất”. Tất cả đều là những hình ảnh kỳ lạ, phi
lý một cách không thể tưởng tượng nổi. Chúng giống như một sự lộn trái logic
thông thường của thế giới và của trật tự các sự vật. Đọc bài thơ này bằng con
mắt thuần lý và bằng tư duy mục đích luận, ta sẽ vấp phải những câu hỏi không
thể trả lời được: Những con voi nhảy từ tầng mười một xuống sông cứu những con
chim sẻ để làm gì? Trâu lại có thể xếp hàng mua cỏ trong khi người thì nằm ngáp
(như trâu) chăng? Nữ phát thanh viên truyền hình mà lại không có miệng? (ám dụ
của sự bị bịt miệng chăng?)… Chìa khóa giải mã những hình ảnh quái đản này có
lẽ nằm ở câu cuối: “Những bàn chân/ Càng bước càng lún sâu vào đất”. Đó chính
là không khí căng thẳng đặc trưng mà ta thường gặp trong các cơn ác mộng: con
người muốn thoát khỏi nỗi kinh hoàng mà chân thì cứ bám vào đất, càng cựa quậy
vùng vẫy thì lại càng lún sâu hơn. Từ đây nhìn trở lại những hình ảnh ở trên,
có thể nói, đó chính là kiểu hình ảnh trong những cơn ác mộng: các sự vật gắn
kết với nhau một cách ngẫu nhiên, bất định, phi lý, không tuân theo bất kỳ nguyên
tắc nào hết. Thế nhưng, từ đây mới toát ra điều đáng nói ở bài “Giấc mơ của
Kafka”: thế giới này đã trở nên xa lạ biết bao với con người, nó không dành cho
con người; càng cố hiểu thế giới, con người càng lạc lõng trong sự xa lạ ấy!
Thông điệp ấy, khi được hiển ngôn, rất có thể sẽ khiến nhiều ai đó cau
mày. Nhưng theo tôi, với tôi, đó chính là thông điệp – nhận thức – nỗi đau nhân
sinh mà Trương Đăng Dung muốn gửi gắm qua tập thơ đầu tay của mình – tập thơ 25
bài, chắt ra từ trên ba mươi năm tác giả âm thầm đắm đuối với thơ.
Bài 6:
HOÀNG THỤY ANH – ÁM
ẢNH THỜI GIAN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
|
Trương Đăng Dung dạo vườn thơ khi
mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978,
ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi
công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy
lâu nay. Chính ông cũng đã có lần bộc bạch: Có lúc vài ba tháng, một năm hay
hai năm làm một bài thơ. Vì thế, sau hơn 20 năm, thơ ông mới xuất hiện trên Tạp
chí Sông Hương và gần đây là trên Tạp chí Thơ với những cảm xúc lạ, đầy tính
triết lý.
Thơ ông viết ra đều như một thứ rượu
quý được chưng cất. Và bây giờ rượu thơ ấy đã lên men.
Hầu hết các bài thơ của Trương Đăng
Dung đều ngập bóng thời gian. Cái độc đáo và tinh tế của Trương Đăng Dung là
cách cảm nhận thời gian. Với ông, thời gian đi trên những lối mòn không thể
thấy. Thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khoé mắt, làn môi/
trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp
người ngắn ngủi. Thời gian được ông cảm nhận song trùng với thân phận con
người, với tình yêu, với cuộc sống. Vì thế, nỗi trăn trở, day dứt, tiếc nuối…
là âm hưởng chủ đạo trong thơ Trương Đăng Dung. Điều này thể hiện rất rõ qua
các bài thơ như: Trên đồi Vọng Cảnh, Anh chiếm chỗ bóng đêm, Anh không thấy
thời gian trôi, Có một thời, Những kỷ niệm tưởng tượng, Vật chứng, Thành phố
phía chân trời, Ảo ảnh, Có thể, Đêm ở Roma, Ghi chép hè 2009, Chân trời, Ánh
sáng này…
Theo Trần Đình Sử (1), “thời
gian nghệ thuật là thời gian mà ta có thể thể nghiệm được trong tác phẩm nghệ
thuật với tính liên tục và độ dài của nó, với nhịp độ nhanh hay chậm, với các
chiều thời gian hiện tại, quá khứ hay tương lai… Thời gian nghệ thuật là một
biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một quan niệm của nhà văn về cuộc đời và
con người”. Nó là sản phẩm của sự lao động miệt mài, không ngưng nghỉ của
nhà thơ. Thời gian trong thơ dung chứa những tâm tình của nhà thơ. Mỗi nhà thơ
đều có một cách cảm nhận và tổ chức thời gian riêng. Trương Đăng Dung khai thác
thời gian theo tư duy triết lý của mình.
Nhiều cách cảm nhận tất yếu nảy sinh
nhiều kiểu thời gian. Thời gian trong thơ Trương Đăng Dung được phóng chiếu tự
do, không theo chiều véc-tơ. Thời gian là nỗi xót xa khi răng mẹ rụng lúc
nào không biết nữa, là tình yêu đồng vọng với những giọt nước qua má,
qua môi/ rơi xuống bàn tay nóng ấm hơi người, là những kí ức mà nhà thơ cảm
thấy tôi không còn kí ức/ tôi không còn những bông hoa gạo bởi tất cả
chỉ còn những giọt máu cuối trời tuổi thơ. Nỗi niềm đó ám ảnh hiện tại: Giọt
nước của ngày xưa còn lại đến hôm nay. Nhà thơ hỏi dòng sông, hỏi núi, hỏi
con người về hạnh phúc nhưng tất cả đều im lặng bởi ngày vẫn thế/ và mặt
trời vẫn thế… Những dấu hỏi chạy trên đường/ lặng lẽ vô tình. Và nhà
thơ thấy: Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/
hơi ấm đã thuộc về quá khứ. Rình, động từ được sử dụng rất sáng tạo khi
diễn tả cái chủ động của thời gian. Thời gian luôn rình rập, kề cận trên
những lối mòn không thể thấy. Nó đồng hiện quá khứ và hiện tại. Trong những
khoảnh khắc hôn nhau, hơi ấm của tình yêu đã là hơi ấm của quá khứ. Thời gian
không chờ ai, đợi ai và khước từ bất cứ ai. Chỉ có những tâm hồn tha thiết với
cuộc sống mới cảm nhận được như thế. Có lúc nhà thơ bảo Anh không thấy thời
gian trôi nhưng lại cảm nhận rất tinh tế từng thay đổi, từng bước chuyển
của thời gian: Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một tha
thiết với trời xanh/sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc khoải
việc chưa thành. Càng ý thức giá trị thời gian, Trương Đăng Dung càng ý
thức mãnh liệt về sự tàn phai của tình yêu, của cuộc đời. Vì thế, nhà thơ gấp
gáp hơn trước nhịp sống hối hả để lưu giữ, để hoá đá tình yêu muôn đời bằng
sự cao thượng: anh chiếm chỗ bóng đêm/ anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn
ông/ có tự ngàn đời/ để cho em rạng rỡ. Trương Đăng Dung còn muốn lưu giữ
những kỷ niệm, những phút giây huyền diệu: em đừng xếp lại chăn/ em đừng
chải tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện
trạng căn phòng/ anh cần vật chứng/ trước thời gian. Nhưng thời gian như
một chuyến tàu hối hả nên dẫu tôi thức với trái tim/ những ý nghĩ lang thang
trong lồng ngực/ không còn đủ sức/ chạy theo con tàu.
Dường như một bài thơ hay nào cũng
có biểu tượng. Biểu tượng có thể xuất hiện xuyên suốt bài thơ, một khổ thơ hay
trong một câu thơ. Nguyễn Thái Hoà(2) cho rằng: “biểu tượng văn
học là những biểu tượng trong sáng tạo văn học tức là những hình ảnh, tín hiệu
ngôn ngữ trong tác phẩm văn học có tính khái quát và phổ biến đến mức có khả
năng gợi ra một hình ảnh khác hoặc một số phẩm chất, một số đặc trưng khác với
đối tượng biểu hiện”. Nguyễn Vũ Tiềm(3) cũng định nghĩa tương
tự: “Biểu tượng trong thơ là hình tượng có tầm khái quát rất rộng hàm chứa
nhiều ý nghĩa tượng trưng, gây xúc động mạnh và để lại ấn tượng sâu sắc, có sức
sống lâu bền. Văn chương càng đạt tới biểu tượng nhiều mặt, càng hay”. Như
vậy, khai thác biểu tượng trong thơ là một việc làm cần thiết để khám phá các
tầng nghĩa do nhà thơ đem lại.
Trong thơ Trương Đăng Dung, thời
gian trở thành biểu tượng. Mỗi biểu tượng thời gian đều được cấp những tư tưởng
nghệ thuật riêng. Trương Đăng Dung lựa chọn các hình ảnh mang tính biểu tượng
thời gian như: dòng sông, đêm, chân trời, bức tường, ánh sáng…
Trong bài Những bức tường, biểu tượng bức tường lan toả toàn bài. Bức
tường mà nhà thơ nhìn thấy không phải là bức tường thuần tuý mà đó là bức tường
vô hình, bức tường-thời gian. Bức tường vô hình ấy có mặt khắp nơi / trong
những lời vui đoàn tụ / trong những lời buồn chia tay. Nó không chỉ là biểu
tượng của sự ngăn cách mà còn là biểu tượng của sự trống rỗng, đơn độc: Giữa
những cái bắt tay / có một bức tường… / giữa hai chiếc gối nằm kề nhau / có một
bức tường. Bức tường trở thành bức tường tượng trưng, siêu thực.
Dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung
mang biểu tượng về thời gian – dòng đời. Dòng sông của hai mươi ba ngàn năm
về trước chứng kiến bao hưng phế của những triều đại: sông chảy vô tư
bên những lăng mộ im lìm / những đền đài quạnh quẽ. Nó làm tôi nhớ đến Con
sông mình hạc xương mai / vàng son in bóng đền đài hoa khôi…/ con sông đám cưới
Huyền Trân / bỏ quên dải lụa phù vân trên nguồn trong bài thơ Huyền
thoại sông, huyền thoại bóng của Nguyễn Trọng Tạo. Nếu con sông của Nguyễn
Trọng Tạo ám ảnh bởi dáng vẻ huyền ảo thì dòng sông của Trương Đăng Dung lại
rất đời thường: chảy từ phía chân trời / đầy nắng, mưa và gió. Không chỉ
vậy, Trương Đăng Dung còn thổi vào dòng sông những ý niệm về sự xa cách, chia
lìa: Anh sợ đến một ngày dòng sông ngừng trôi / đất khô cứng, những giọt
buồn hoá đá / anh sợ đến một ngày hồn anh từ cõi lạ / trở về đây mà không có
dòng sông. Vì vậy, dòng sông trong thơ Trương Đăng Dung từ hai mươi ba
ngàn năm về trước đến bốn mươi sáu ngàn năm sau nữa trở thành biểu
tượng của dòng đời, của con người.
Các nhà trường phái hình thức Nga
rất đề cao đến tính lạ hoá trong thơ ca. Lạ hoá làm cho thơ ca độc đáo, không
lặp lại. Huỳnh Như Phương(5) lý giải quan niệm lạ hoá: “Lạ hoá là
một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách rứt đối tượng ra khỏi bối
cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái niệm khác hẳn nhau,
nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người đọc nhận thức
sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó… Lạ hoá kháng cự lại không chỉ sự
tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hoá của ngôn
từ và thủ pháp trong văn học”. Trương Đăng Dung đã làm được điều đó. Ông
không hoàn toàn xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà
còn đưa những biểu tượng đó vào trò chơi trùng phức, nghĩa là biểu tượng vừa có
sự di động giữa không gian và thời gian. Sự di động vị trí này khiến thơ thêm
chiều sâu, giàu chất triết lý.
Đêm là biểu tượng cho bóng tối, cho
sự chết chóc của những bóng ma vất vưởng / những khán đài âm u, cho số
phận tăm tối của những bóng ma thọt chân, lang thang. Nhưng đêm trong
thơ Trương Đăng Dung lại là một biểu tượng trùng phức. Đêm không chỉ là đêm –
thời gian mà nó còn là đêm – không gian. Đêm ấy là đêm – thời gian:
Anh nghe bóng đêm tan trên cơ thể em
bóng đêm chạy trốn
Những khoảnh khắc trước lúc nửa đêm
những đường cong như sóng vươn về
phía trước
hơi thở như gió
đắm say và gấp gáp
Nhưng sang khổ ba, khổ bốn, đêm –
thời gian lại trở thành đêm - không gian khi:
Anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn
ông
có từ ngàn đời
để cho em rạng rỡ
Có phải chúng ta đang bị tự nhiên
lừa
để kéo dài sự sống?
anh vẫn muốn bị lừa
để chiếm chỗ bóng đêm
để có em vĩnh viễn!
(Anh chiếm chỗ bóng đêm)
Theo Schopenhauer – một triết gia
Đức, cuộc sống là sự lừa gạt triền miên, vô hạn. Hay nói cách khác, sự sống là
đầy những đau khổ, là sự chết được phanh lại. Vì thế, con người không thể hạnh
phúc trong sự thoả mãn hữu hạn. Nhưng trong cái chóng vánh của cuộc sống,
Trương Đăng Dung vẫn tìm được hạnh phúc chứ không đơn thuần chỉ là sự tiếc
nuối, khổ đau. Ông cảm nhận được hạnh phúc trong cái hữu hạn ấy. Chính cái hữu
hạn ấy là khoảnh khắc, là không gian đẹp nhất. Không – thời gian biến tấu trong
bài thơ cũng là biến tấu cõi lòng ông. Vừa muốn làm chủ cuộc sống, vừa muốn tận
hưởng không gian của tình yêu. Bởi, chỉ có con người mới hiểu được, nắm bắt
được sự tồn tại của bản thân và của thế giới.
Trương Đăng Dung còn đưa vào thơ
mình biểu tượng thời gian phi lý. Đó là kỷ niệm mà tôi không thể quên một
ngày tháng Năm năm 1054. Để xây dựng biểu tượng kỷ niệm (kỷ niệm tưởng
tượng) này, nhà thơ đặt trong một cấu trúc mảnh vỡ, lắp ghép. Vì vậy, những kỷ
niệm ấy càng rời rạc, phi lý. Nhưng chính cái phi lý ấy là sự cảnh tỉnh cho con
người trước một cuộc sống đầy bề bộn, ngổn ngang. Mượn thời gian phi lý để
chuyển tải cái phi lý của cuộc sống thật tài tình. Chính Đỗ Quyên đã nhận xét
về bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng (Trương Đăng Dung viết cách đây 26
năm) trong bài viết Tái ám ảnh về một bài thơ ám ảnh(6) rất
tinh tế: “Phi lý thời gian khiến độc giả bị choáng ngay ở câu đầu (Tôi không
thể quên một ngày tháng Năm năm 1054) cho tới câu tôi với anh, rồi ngày ta
sinh…! Bạn có thể hỏi: Cái “ông Tây” Hollo Andras nào kia chắc cùng thời vua Lý
Thái Tông nhà mình, sao lại đi đánh bạn với “tay nhà thơ” Trương Đăng Dung này?
Hay lỗi nhà báo in sai – 1954? Đọc tới câu giữa ngày sinh của chúng ta lần thứ
một ngàn đặt gần đoạn kết, ta càng thấy Trương quân có nghênh ngang thật đấy
nhưng đến là khôn và khéo”. Nhờ sáng tạo thời gian phi lý, không thực nên
Trương Đăng Dung mới thành công khi liệt kê các hình ảnh huyền ảo. Thời gian
phi lý, chuyện phi lý vậy mà thực đến đau lòng:
Cùng nhau thấy những đám tang không
có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị
thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh
nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất
lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à
ơi…
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Khi xã hội đầy rẫy những cái phi lý
thì việc con người nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi… nghe lá vàng rơi lòng ta
không xào xạc… đứng trước tổ chim lòng ta đầy mưu toan độc ác tất yếu phải
xảy ra:
Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
máu người nhuộm đỏ sách Kinh
bom nổ ở một chợ Bagdad
thịt người trộn vào rau quả
những người đàn bà choàng khăn đen
lăn lộn
không thấy kẻ gây tội ác
chỉ thấy nạn nhân
và người ngồi xem nỗi đau qua màn
ảnh nhỏ.
(Ghi chép hè 2009)
Vì vậy, Trương Đăng Dung đau lòng
thốt lên: Điều kì lạ vẫn là thế giới / Tôi lặng nhìn bằng đôi mắt trẻ
thơ. Chỉ có đôi mắt và tâm hồn trong trẻo của trẻ thơ, với sự ngạc nhiên lạ
lẫm mới giúp con người thánh thiện trước cõi người trắng đen lẫn lộn.
Như vậy, cảm thức thời gian trong
thơ Trương Đăng Dung trở thành nguồn mạch của sự sáng tạo. Ám ảnh bởi thời gian
nên hầu hết những bài thơ của Trương Đăng Dung đều có giọng điệu buồn, trầm
lắng. Thơ Hoàng Vũ Thuật buồn khi trải ra với thân phận, với cái tôi đầy mâu
thuẫn, thơ Lâm Thị Mĩ Dạ buồn với những nỗi niềm đời thường… Thơ Trương Đăng
Dung cũng buồn. Nhưng cái buồn lại nảy sinh từ những suy ngẫm về thời gian. Từ
những suy ngẫm ấy, nhà thơ nâng lên thành triết lý.
Trương Đăng Dung đã chọn cho mình
một con đường “độc đạo”. Số lượng bài viết không nhiều nhưng quý và đắt
là vì thế./.
Đồng Hới, ngày 1/04/2010
____________
(1) Tuyển tập Trần Đình Sử
(tập 2), NXB Giáo dục, Hà Nội, 1998.
(2) Từ điển tu từ – Phong cách –
Thi pháp học, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
(3) Đi tìm mật mã thơ, NXB
Hội Nhà Văn, Hà Nội, 2006.
(4) Trường phái hình thức Nga,
NXB Đại học Quốc gia, TP Hồ Chí Minh, 2007.
Bài 7:
HỒ TẤN NGUYÊN MINH – CẢM THỨC CÔ ĐƠN TRONG THƠ TRƯƠNG ĐĂNG
DUNG
|
Trong thơ Trương Đăng Dung thường xuyên thấy một bóng người cô đơn, một
bản thể đơn côi, lạc lõng. Con người ấy dường như lúc nào cũng mang nặng trong
tâm hồn một nỗi bấn loạn vì luôn cảm thấy bơ vơ trước mênh mông cõi đời và tấp
nập cõi người. Cảm thức cô đơn xuất hiện khi con người không tìm thấy sự hòa
hợp với thế giới mà mình đang tồn tại để rồi trở nên xa lạ với tất cả, xa lạ
ngay với chính bản thân mình.
Dưới mắt Trương Đăng Dung là một thế giới đổ vỡ, phi lý, bất an. Một thế
giới đang từng ngày, từng giờ bị giày vò bởi chiến tranh, bom đạn, giết chóc:
“Bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo
máu người nhuộm đỏ sách kinh
bom nổ ở một chợ Bagdad
thịt người trộn vào rau quả”
(Ghi chép hè 2009)
Người đọc không khỏi ám ảnh trước hình ảnh của “những người dị dạng/
dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân lang thang/ đòi trở về quê
cũ” (Chân trời), của “những bóng ma vất vưởng/ những
khán đài âm u” (Đêm ở Roma); không khỏi bàng hoàng trước
những thảm kịch mà con người đã và đang phải chịu đựng:
“Cùng nhau thấy những đám tang không có hòm
chân người chết thò ra khỏi chiếu
cùng nhau thấy những người mẹ bị thương ruột lòi ra
vẫn ôm con nhảy xuống hầm, tranh nhau chỗ ngồi với rắn
và những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo
bên loa phóng thanh đang hát điệu à ơi”
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Hơn một lần trong thơ ông, người ta nghe tiếng quạ – loài chim ăn
xác người, loài chim xuất hiện cùng cái chết:
“Anh
nghe ngày một gần hơn tiếng lũ quạ”
(Anh không còn gì ngoài em)
“Đã lâu rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một ngày kia chúng sẽ trở về mang theo
nhiều xương ống
để làm búp bê cho em tôi chơi
làm dùi cho em tôi đánh trống”
(Những kỷ niệm tưởng tượng)
Trương Đăng Dung sử dụng nhiều những yếu tố phi lý, nghịch dị như một cách
để phản ánh thế giới. Ông kể những chuyện ngược đời “Ở New York chiều
chiều/ những con voi nhảy từ tầng muời một xuống sông/cứu những con chim sẻ/ Ở
Pari trước cửa viện bảo tàng/ người nằm ngáp/ trâu xếp hàng mua cỏ…”
(Giấc mơ của Kafka).
Ông nói về những cái quái đản “những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao
chân bước thụt lùi” (Chân trời), “những đôi mắt/ dính
trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu / phát ra từ miệng những
người không có cổ” (Giấc mơ của Kafka). Toàn những điều
kì lạ, quái dị, khó cắt nghĩa. Thế giới là như thế: “phi lý ” và “hư
vô” – một mớ hỗn tạp của những điều không thể lý giải. Con người không
hiểu vì sao mình sống? Vì sao mình tồn tại trong thế giới này? Những dằn vặt về
bản thể xuất hiện, con người không ngừng tự vấn để rồi nhận ra cuộc đời là vô
nghĩa. Hạnh phúc, tình yêu chỉ như những ảnh hình không có thật:
“Anh hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
sông trả lời anh sông chỉ biết trôi
anh hỏi ngọn núi
núi trả lời anh núi chỉ biết ngồi
anh hỏi con người
người trả lời anh bằng nước mắt rơi”
(Ảo ảnh)
Bị ném vào thế giới ấy, con người bị bỏ rơi, mang nặng trong mình tâm
trạng hoảng loạn và sụp đổ niềm tin một cách trầm trọng . Họ như đánh mất chính
mình, trở thành một người khác – tha nhân (autrui). Họ cảm thấy ngơ
ngác, thờ ơ, lạ lẫm trước tất cả:
“Tôi lớn lên ngơ ngác cõi người
tình thương, thù hận, buồn vui
hun hút đường xa cát bụi
người đi không biết về đâu”
(Chúa đã ra đi)
Để thoát khỏi nỗi cô đơn và sự buồn chán, con người trông chờ vào sự đồng
cảm sẻ chia, sự quan tâm giúp đỡ lẫn nhau giữa người với người. Nhà văn Nga
Nooda Dumbatxe từng nói: “Tâm hồn nặng gấp trăm lần thể xác, chúng ta sống
với nhau phải làm sao cho tâm hồn trở nên bất tử. Anh giúp cho tâm hồn tôi trở
nên bất tử, tôi giúp tâm hồn người khác bất tử, người khác giúp người khác nữa.
Làm sao cho đến cuối cuộc đời con người ta không phải sống trong cảnh cô đơn” [1]. Tình
người, ấy là liệu pháp duy nhất làm lòng người ấm lại. Thế nhưng, thế giới
trong thơ Trương Đăng Dung thường ẩn tàng sự chia cắt. Con người càng cố gắng
xích lại gần nhau lại càng bị đẩy ra xa. Cái tôi không thể tìm thấy sự hoà hợp,
kết giao. Nỗi cô đơn vì thế mà dâng lên gấp bội:
“Giữa những cái bắt tay
có một bức tường
giữa em và người em thấy trong gương
có một bức tường
giữa hai chiếc gối nằm kề nhau
có một bức tường
….
Những bức tường, những bức tường, những bức tường
có mặt khắp nơi,
trong những lời vui đoàn tụ
trong những lời buồn chia tay,
những bức tường ta không xây
những bức tường không thể phá”
(Những bức tường)
“Những bức tường” – biểu tượng của xa cách - hiện hữu khắp
mọi nơi. Đó chính là ranh giới vô hình của lòng người, là cái hố sâu ngăn cách
giữa người với người . Không tìm thấy sợi dây liên hệ, không tìm thấy tiếng nói
sẻ chia. Chỉ thấy một sự vô cảm đến đáng sợ “không thấy kẻ gây tội ác/chỉ
thấy nạn nhân/ và người ngồi xem nỗi đau qua màn ảnh nhỏ” (Ghi
chép hè 2009), chỉ thấy “cánh cửa sổ nhà này mở ra/ cánh cửa sổ
nhà kia khép lại / Họ đi hàng dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên
từ đáy giếng” (Những người đàn bà). Câu thơ “Họ đi
hàng dọc” bình thường thôi mà sao nhức nhối lạ thường. Ai cũng lầm lũi cắm
đầu đi. Không một ánh mắt nhìn, không một nụ cười tiếng nói.
Cứ như thế, cuộc sống trở nên bế tắc, quẩn quanh. Con người như lạc vào
một mê cung không lối thoát. Càng đi sâu càng lạnh, “càng bước càng lún sâu
vào đất”, họ trở nên mệt mỏi rã rời. Mọi cảm xúc chai lì , tâm hồn người
dường như hoen gỉ:
“Có một thời
trẻ con sợ búp bê và không thích sữa
Có một thời
anh đi bên tôi mà sao cách trở
Có một thời
Đi về đâu mà ai cũng vội
Có một thời
hạt bụi cũng quẩn quanh
Có một thời
nghe hát dân ca lòng ta mệt mỏi
…..
Có một thời
có một thời
ta đã sống thật sao”
(Có
một thời)
Câu thơ “có một thời” như một điệp khúc khắc khoải, nhức nhối. Có
một thời người ta đã sống để rồi chính mình cũng không thể tin được rằng
mình từng sống qua một thời như thế.
Mỗi khi mang nặng nỗi bấn loạn trong nội tâm của mình, con người thường
tìm về kỉ niệm, hướng về kí ức. Bởi lẽ kí ức và kỉ niệm là nơi nương náu cuối
cùng của những linh hồn không tìm được sự bình yên trong cuộc sống. Vậy mà ở
đây, ngay cả kí ức, ngay cả những kỉ niệm tuổi thơ cũng bị đánh mất khiến con
người càng chìm sâu vào bi kịch cô đơn.
“Hơn nửa thế kỉ đi lại trên mặt đất này
tôi không còn nhiều bạn
cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi
tôi không còn kí ức
những giọt máu cuối trời tuổi thơ…”
(Ghi chép hè 2009)
Trong thơ Trương Đăng Dung, nỗi cô đơn còn xuất hiện khi con người ý thức
được sự chóng vánh của thời gian trần thế; sự ngắn ngủi, vô thường của kiếp
người trong cõi phù sinh. Đối với ông, thời gian là một nỗi ám ảnh, một cảm
thức thường trực trở đi trở lại trong thơ . Thời gian trôi khi “tóc bà bạc
xóa/ thấp thoáng bên khung cửa/ nắng nhòa” (Ảo ảnh). Thời
gian đi qua cùng sự ngỡ ngàng “ răng mẹ rụng lúc nào không biết nữa” (Có
một thời). Thời gian rơi qua “từng kẽ ngón tay em vất vả”
(Anh không còn gì ngoài em). Thời gian đến rồi đi, lặng lẽ và vô tình,
lạnh lùng và tàn nhẫn. Nó cuốn phăng tất cả trước sự bàng hoàng, thảng thốt của
con người. Nó chối từ mọi tiếc nuối, van xin, nài nỉ. Nó khiến cho con người
rơi vào trạng huống trống trải, đơn độc.
Nỗi ám ảnh thời gian thật ra không phải đến Trương Đăng Dung mới có. Trong
Thơ Mới, đặc biệt là thơ Xuân Diệu người ta đã thấy rất rõ tâm trạng sợ hãi,
nuối tiếc và cảm giác cô đơn của con người trước dòng chảy thời gian. Nhưng
điều đáng nói là khác với Thơ Mới, Trương Đăng Dung có một cách cảm nhận thời
gian riêng: mới lạ và độc đáo. Đỗ Lai Thúy đã rất tinh tế khi nhận ra rằng “Thơ
Trương Đăng Dung đôi khi còn vương lại chút thời gian cũ như chiếc lá cuối cùng
của mùa đông trước. Nhưng, nhìn chung, thơ anh đã có một thời gian khác. Nếu
thời – gian – Thơ – Mới là thứ thời gian, dù chi phối con người một cách rốt
ráo, thì vẫn cứ là cái bên ngoài con người, là khung của một đời người. Trong
khi đó thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung là thời gian bên trong con
người, thời gian chính là con người” [2]. Trong Thơ Mới, thời gian được cảm
nhận từ ngoại giới, từ thiên nhiên, từ đặc trưng mùa… Nói chung là từ những thứ
ở bên ngoài con người và con người cảm nhận nó bằng cảm xúc riêng của mình.
Xuân Diệu từng sợ hãi, cuống quýt trước thời gian khi nhận ra “Cơn gió xinh
thì thào trong lá biếc/ Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi/ Chim chuyền cành
bỗng đứt tiếng reo thi/ Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa” (Vội
vàng ). Trương Đăng Dung thì khác. Ông viết “ Anh không thấy thời
gian trôi” nhưng lạ thay thời gian lại trở thành nỗi khắc khoải khôn nguôi
trong thơ ông. Con người không thấy thời gian trôi, bởi thời gian ở đây không
đến từ bên ngoài, tác động vào giác quan con người mà ngược lại là thời gian ở
bên trong con người, thuộc về con người – thời gian bản thể. Thời gian là máu
thịt, ẩn trong tóc trong môi, rình rập trong hơi thở, len lỏi khắp tâm hồn:
“thời gian ở trong máu, không lời
ẩn mình trong khoé mắt, làn môi
trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang
viết lên mặt đất thành lời
về kiếp người ngắn ngủi”
(Anh không thấy thời gian trôi)
“thời gian rình trong từng sợi tóc”
(Vật chứng)
Có thể nói, trong cách cảm nhận thời gian với ý nghĩa “thời gian là
tồn tại”, Trương Đăng Dung đã góp một tiếng nói mới lạ và độc đáo cho thơ
– thời – gian. Nếu thời gian trong Thơ Mới là tiếng động từ ngoại giới thì thời
gian trong thơ Trương Đăng Dung là tiếng rít từ thẳm sâu con tim người. Nỗi cô
đơn trước thời gian trong thơ ông, vì thế cũng là nỗi cô đơn khởi phát từ bên
trong con người. Cái lạnh đến từ bên ngoài thì còn có thể sưởi ấm. Nhưng cái
lạnh trong tâm hồn thì làm sao sưởi được. Nỗi cô đơn dâng trào tạo ra cảm
giác sợ hãi. Sợ thời gian qua mau, sợ tuổi trẻ chóng tàn, sợ hạnh phúc và tình
yêu tan biến:
“Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc
khi môi ta rời nhau
hơi ấm đã thuộc về quá khứ”
(Vật
chứng)
“chúng ta nằm trên cỏ
sợ hãi trước chân trời”
(Chân
trời)
Nhiều lúc Trương Đăng Dung còn lạ hoá thời gian, tạo ra một thứ thời gian
phi lý. Thời gian của những kỉ niệm từ một ngày “tháng Năm năm 1054”
(Những kỉ niệm tưởng tượng), của cuộc gặp gỡ “hai mươi ba ngàn năm
về trước” (Có thể)… Kiểu thời gian này mang ý nghĩa giễu
nhại, có tác dụng giúp người đọc hình dung được sự vô nghĩa của cuộc đời và cảm
nhận được hết nỗi cô đơn trống vắng của kiếp người trong cuộc nhân sinh. Con –
người – thơ Trương Đăng Dung đã sống hàng nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn
năm vẫn thấy cuộc đời là vô nghĩa lý thì khoảng thời gian mấy mươi năm trong
giới hạn một đời người có đáng kể gì.
Sự chóng vánh của thời gian , sự vô thường của kiếp người thực ra là quy
luật. Đã là quy luật thì không thể khác. Trương Đăng Dung hiểu rõ điều này. Ông
ý thức một cách sâu sắc giới hạn của đời người và ý nghĩa của kiếp người. Song
dẫu thế vẫn không khỏi trăn trở, băn khoăn, tiếc nuối trước sự mỏng manh chóng
tàn của tuổi trẻ, trước ranh giới của sự sống và cái chết, của tồn tại và hư
vô. Có lẽ vì thế mà câu thơ “kiếp người ngắn ngủi” trở đi trở lại
trong thơ ông như một tiếng thở dài.
Trương Đăng Dung sáng tác không nhiều. Mấy mươi năm làm thơ ông chỉ in một
tập 25 bài. Song cần thấy rằng, cái làm nên tên tuổi một nhà thơ không phải là
ông ta sáng tác ít hay nhiều. Cái quan trọng là thơ của ông ta có vị trí như
thế nào trong lòng người đọc. Tập thơ “Những kỉ niệm tưởng tượng” của
Trương Đăng Dung vừa được nhà xuất bản Thế Giới ấn hành đã ngay lập tức được
đón nhận nồng nhiệt. Bài thơ nào của ông cũng có sức cuốn hút kì lạ đối với
người đọc bởi chiều sâu triết lý và tinh thần nhân văn cao đẹp của nó. Đỗ Lai
Thúy nhận xét “Trương Đăng Dung là nhà thơ có tư tưởng. Mỗi bài thơ, thậm
chí mỗi câu thơ của anh đều gửi gắm đến cho người đọc một thông điệp nào
đó về cuộc đời” [3]. Tôi muốn nói thêm rằng: Ở mỗi thông điệp, mỗi tư
tưởng mà Trương Đăng Dung gửi gắm trong thơ, ta nhìn thấy một tấm lòng. Một tấm
lòng để đau nỗi đau của số phận con người; để trăn trở, suy tư trước bao nghịch
cảnh của cuộc đời. Cảm thức cô đơn thường trực trong thơ ông có lẽ cũng xuất
phát từ một tấm lòng như thế.
Tuy Hòa, tháng 6 năm 2011
[1] Nooda Dumbatxe . Quy luật của muôn đời. NXB Cầu Vồng,
Matxcơva, 1987
[2] Đỗ Lai Thúy. Trương Đăng Dung với thơ – thời gian. Lời giới
thiệu tập “ Những kỉ niệm tưởng tượng”. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2011.
[3] Đỗ Lai Thúy. Trương Đăng Dung với thơ – thời gian. Lời giới
thiệu tập “ Những kỉ niệm tưởng tượng”. NXB Thế Giới, Hà Nội, 2011
Bài 8:
HOÀNG ĐĂNG KHOA – NHỮNG
KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG HAY LÀ ÁM - ẢNH – HIỆN – SINH CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG
|
Bằng lối phê bình tri âm, trong lời giới thiệu thi phẩm Những kỷ
niệm tưởng tượng [1], nhà phê bình Đỗ Lai Thúy đã gọi tên
một cách khá chính xác thơ Trương Đăng Dung: thơ – thời – gian. Có thể nói, ám
ảnh thời gian là nỗi ám ảnh xuyên trùm, chi phối kiến trúc nghệ thuật thế giới
tập thơ này: “thời gian đi trên những lối mòn không thể thấy” (Thành
phố phía chân trời); “thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe
mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành
lời/ về kiếp người ngắn ngủi” (Anh không thấy thời gian trôi)…
Cũng như các thi nhân hiện đại, Trương Đăng Dung quan niệm thời gian tuyến
tính, mỗi khoảnh khắc qua đi là vĩnh viễn thuộc về quá khứ, con người bất khả
cầm giữ, bất lực nhìn vạn vật phôi pha, cái chết nhỡn tiền: “sợi tóc rụng
bàn tay nào giữ được”, “những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp thân đã
thấy khác đi rồi” (Anh không thấy thời gian trôi); “nay hai màu tóc
đan nhau/ ai biết được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu”, “thời gian rơi/
qua từng kẽ ngón tay em vất vả/ không giữ được đâu em/ anh nghe ngày một gần
hơn tiếng lũ quạ” (Anh không còn gì ngoài em); “răng mẹ rụng lúc nào
không biết nữa” (Có một thời); “tóc bà bạc xóa” (Ảo ảnh); “thôi
em đừng khóc/ rồi sẽ qua đi kiếp người ngắn ngủi/ một ngày kia hết mọi buồn
vui/ chui xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay
ta thôi tìm nhau run rẩy” (Ảo ảnh)… Để tô đậm tính chất vô thủy vô chung,
vô hồi vô hạn của thời gian, tính chất nhỏ nhoi, hữu hạn của kiếp người, Trương
Đăng Dung đã sử dụng nhiều cách nói phiếm chỉ về thời gian, kiến tạo thứ thời
gian “tưởng tượng”: “có thể em quên rằng anh đã gặp em/ hai mươi
ba ngàn năm về trước/ ở một bến sông/ (…) anh cảm nhận thời gian qua từng giọt
nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này/ giọt nước của ngày xưa còn
lại đến hôm nay/ (…) anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi sáu ngàn
năm nữa” (Có thể); “em chưa đến ngày chưa tỏa sáng/ sông mênh mang nỗi
nhớ một con đò/ núi lặng lẽ đứng chờ bóng đổ/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi/
(…) thăm thẳm trời cao đất rộng/ ba mươi năm hay ba triệu năm rồi// xao xuyến
những mùa thu gió thổi” (Ba mươi năm hay ba triệu năm rồi); “tôi không
thể quên một ngày tháng Năm năm 1054/ tôi với anh đã nhìn thấy mặt trời”
(Những kỷ niệm tưởng tượng)… Tuy nhiên, như phát hiện khá thú vị của Đỗ Lai
Thúy, nếu thời – gian – Thơ – Mới, dù chi phối con người một cách rốt ráo, vẫn
cứ là thời – gian – khách – thể, thì thời – gian – thơ – Trương – Đăng – Dung
còn là thứ thời gian đã được chủ – thể – hóa cao độ: “anh không thấy thời
gian trôi/ thời gian ở trong máu, không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/
trong dáng em đi nghiêng nghiêng…” (Anh không thấy thời gian trôi). Từ Thơ
Mới đến thơ Trương Đăng Dung là một quá trình.
Thời gian trôi nhanh, “kiếp người ngắn ngủi”. Sự thực nghiệt ngã
đó con người không những không biết cách hóa giải mà còn vô minh tự lưu đày
mình trong kiếp nạn trăm năm. Con người “chuẩn bị sống từ lúc sinh ra”,
“mỗi ban mai khắc khoải việc chưa thành”, “nhàu nát mưu sinh”, thứ gọi là “hạnh
phúc trên đời” cơ hồ không tồn tại: “anh hỏi dòng sông về hạnh phúc
trên đời/ sông trả lời anh sông chỉ biết trôi/ anh hỏi ngọn núi/ núi trả lời
anh núi chỉ biết ngồi/ anh hỏi con người/ người trả lời anh bằng nước mắt rơi!”
(Ảo ảnh). Vũ trụ thì hồn nhiên, vô vi: “sông thanh thản kéo trời/ trôi theo
mình lặng lẽ” (Trên đồi Vọng Cảnh), “sông vẫn bình yên hát khúc vô tư/
trời vẫn xanh như thế tự bao giờ” (Có thể), trong khi đó con người lại
cuồng phí quỹ thời gian sống hạn hữu cho “trò chơi” bắn giết: “ở
đâu đó đang gầm lên tiếng súng/ ở đâu đó bao người ngã xuống/ mắt nhắm rồi chưa
một bữa ăn no” (Anh không còn gì ngoài em); “anh đã thấy những người
dị dạng/ dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân, lang thang/ đòi
trở về quê cũ/ và những đội quân không mũ/ tay súng, tay đao chân bước thụt
lùi” (Chân trời); “những chuyến tàu chở đầy ắp vũ khí/ trên nóc toa là
trẻ nhỏ người già”, “những cánh tay trẻ thơ bom hất lên cành cây vắt vẻo/ bên
loa phóng thanh đang hát điệu à ơi” (Những kỷ niệm tưởng tượng); “những
xác người được tìm thấy/ trong lớp đất bom vùi/ …những đứa con chết/ mặt úp vào
ngực mẹ” (Tôi lại nhìn thấy họ); “bom nổ ở một Thánh đường Hồi giáo/
máu người nhuộm đỏ sách Kinh/ bom nổ ở một chợ Bagdad/ thịt người trộn vào rau
quả/ những người đàn bà choàng khăn đen lăn lộn” (Ghi chép hè 2009).
“Thượng đế đã chết” (Nietzsche). “Chúa đã ra đi”. Tội ác ngang nhiên,
mặc nhiên hoành hành. Bể khổ đời cứ “dâng triều, sóng cồn lên sôi động”.
Con người quáng mù cuồng tín “trong những bình minh không có mặt trời/
trong những lâu đài chỉ có cánh dơi” (Ảo ảnh), “những bàn chân/ càng
bước càng lún sâu vào đất” (Giấc mơ của Kafka). Mùa – tuyệt – diệt đang ở
rất gần: “khi những cánh rừng già châu Phi bốc cháy/ voi chạy về châu Âu
chết cóng giữa mùa đông/ khi hàng triệu con chim rời xứ lạnh bay về xứ nóng/
kiệt sức rồi phải lao xuống biển sâu” (Viết cho con); “em ở lại/ một
lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta cùng nghe tiếng muôn loài hấp hối”
(Ảo ảnh); “đêm đêm anh vẫn nghe lũ quạ/ cười nói huyên thuyên trên những
bức tường” (Những bức tường)…
Trong chuỗi ám ảnh về kiếp nạn cuộc người, Trương Đăng Dung đặc biệt ám
ảnh về thân kiếp “những người đàn bà”. Đó là những người vợ mập mọ chợ
búa mưu sinh giữa lúc “những người đàn ông đang ngủ”: “họ đi hàng
dọc/ gương mặt không trang điểm/ như được vớt lên từ đáy giếng/ đêm qua/ những
con nhện biết rằng/ có người đã úp mặt vào tường/ úp mặt vào gối/ úp mặt vào
bóng đêm nức nở” (Những người đàn bà); “những người vợ suốt đêm vá
lưới/ mắt quầng thâm nhìn chồng” (Tôi lại nhìn thấy họ); “người đàn bà
đẩy chiếc xe lăn/ lần thứ mười ba đưa chồng vào bệnh viện/ đêm dài hơn ngày/
ngày dài hơn con đường đã đi/ nỗi buồn của chị/ cũ hơn tháng ngày” (Ghi
chép hè 2009). Đó là những nữ y tá “kinh nguyệt chảy màu máu còn tươi rói/
không có bông, họ lấy áo choàng lau vội”; những “gái điếm ngủ dọc bờ
sông đầu gục xuống” (Những kỷ niệm tưởng tượng). Bằng cảm hứng tụng
ca, Trương Đăng Dung đã tạc dựng hình tượng những người phụ nữ tận thiện tận
mỹ. Đó là những người mẹ với cao cả đức hy sinh: “người mẹ bị thương ruột
lòi ra/ vẫn ôm con nhảy xuống hầm tranh nhau chỗ ngồi với rắn” (Những kỷ
niệm tưởng tượng); “những người mẹ/ chết vẫn ôm con” (Tôi đã nhìn thấy
họ). Đó là “Em” rạng rỡ, cao khiết, sáng trong: “em đã đến/ đẹp như ánh
trăng” (Chân trời); “ánh sáng này từ mắt em/ ánh sáng này từ môi em/
ánh sáng này từ ngực em” (Ánh sáng này); “em tỏa sáng giữa đời anh
lặng lẽ” (Có thể); “em đã đến thổi màu vào ngọn lửa” (Ba mươi năm
hay ba triệu năm rồi); “em nói trời xanh anh chỉ thấy mắt em/ em nói mùa
xuân anh chỉ thấy môi em” (Không đề)… Những câu thơ như “một trưa
tháng Năm cua bò cả lên bờ/ gió Lào thổi vô hồi rát bỏng/ mẹ rũ tóc che người
tôi khỏi nóng/ mái tóc người đen nhánh giữa trời cao” (Chúa đã ra đi) hay “anh
không còn gì ngoài bàn tay em/ vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời” (Anh
không còn gì ngoài em) có thể liệt vào hàng những câu thơ đẹp nhất, ám ảnh nhất
viết về người phụ nữ. Người phụ nữ và vũ trụ tương đồng tầm vóc. Vọng ngân
trong thơ Trương Đăng Dung âm – hưởng – nữ – quyền nhân văn nhân bản.
Những kỷ niệm tưởng tượng hiện diện một cái tôi nghệ sỹ “cô
đơn như ngọn gió”: “hơn nửa thế kỷ đi lại trên mặt đất này/ tôi không
còn nhiều bạn/ cây gạo đầu làng cũng bị chặt mất rồi/ tôi không còn ký ức/
những giọt máu cuối trời tuổi thơ” (Ghi chép hè 2009). Ta bắt gặp trong
thi tập những thi liệu xuất hiện trở đi trở lại với tần số cao mang tính chất
mã hóa. Bên cạnh “quạ” (mã hóa cho nỗi ám ảnh về mùa tuyệt diệt), ta
còn gặp những biểu tượng khác như “chân trời” (7 lần), “mặt trời”
(9 lần). “Chân trời”, “mặt trời” mã hóa nỗi ám ảnh về những khát vọng,
khao khát bất khả, bất thành. Cái tôi trữ tình khát cháy được thăng vượt những
“quẩn quanh“, những tủn mủn, vô nghĩa của thực tại để thực hiện lý
tưởng, tìm gặp cái tuyệt mỹ, cái “vô biên và tuyệt đích” (từ dùng của Xuân
Diệu), sở hữu ý nghĩa đích thực của cuộc tồn sinh ngắn ngủi: “khao khát một
thứ gì nồng cháy như mặt trời” (Chân trời); “anh đi không một phút
bình yên/ chân trời dấu những điều không đến” (Ba mươi năm hay ba triệu
năm rồi). Nếu Trần Dần từng “khóc những chân trời không có người bay/ lại khóc
những người bay không có chân trời” thì cái tôi trữ tình trong thơ Trương Đăng
Dung khóc cho người – bay – không – đến – được – chân – trời bởi những quái đản
vô hình bủa vây ngáng trở: “khi ta nghĩ đến những miền xa/ phía trước ta đã
có những bức tường// những bức tường, những bức tường, những bức tường/ có mặt
khắp nơi/ (…) những bức tường không thể phá” (Những bức tường).
Không thể cầm giữ thời gian, không thể kháng cự sức hủy diệt của thời
gian, chỉ có cách thực tế nhất là bàn chân mình “để dấu muôn nơi” đóng
con dấu hữu hạn đời mình lên càn khôn vô hạn, là “diệu huyền” hóa, vật
chất hóa từng milimet hiện sinh:
“em đừng xếp lại chăn
em đừng chải lại tóc
em đừng tô lại môi
cứ để nguyên áo quần trên ghế
cứ để nguyên hiện trạng căn phòng
anh cần vật chứng
trước thời gian”
(Vật chứng)
là tận hiến:
“anh chiếm chỗ bóng đêm
anh gom ánh sáng bằng sức lực đàn ông
có tự ngàn đời
để cho em rạng rỡ”
(Anh chiếm chỗ bóng đêm)
và “nổi loạn”: “ngôi nhà muốn bay/ con đường muốn trôi/ dòng sông muốn
dựng ngược/ các sự vật muốn được gọi tên/ các sự việc muốn có đời sống mới”
(Thỏa thuận). Trình tự sắp xếp không phải ngẫu nhiên giữa các bài thơ làm nên
kiến trúc chỉnh thể của thi tập, phát lộ một “ý nghĩa thỏa thuận“: Con
đường khả dĩ hóa giải bi kịch mà con người cần khai phóng trước hết là khai
minh, phát quang những bản năng u tối. Và chỉ có tình – yêu – thương may ra đủ
sức mạnh cứu rỗi.
Đọc Những kỷ niệm tưởng tượng, cứ đầy lên trong tôi xác
tín: “Không bắt chước Tàu, không bắt chước Tây” (Thạch Lam), cứ là mình, cứ để
cho những trải nghiệm, chiêm ngẫm, “những ý nghĩ lang thang trong lồng
ngực” mình bốc cháy thành thi hứng, cứ đi tận cùng hoàn cảnh đương đại, cứ
giữ trái tim mình “đừng bao giờ lạc lõng/ trước mọi vui buồn bất hạnh” thời
mình sống, cứ hồn nhiên viết như những gì mình thấy, mình cảm, thì thơ sẽ đủ
sức thuyết phục. Nếu quan niệm yếu tính của thơ là tính tư tưởng thì yếu tính
của nhà thơ phải là phông nền văn hóa. “Tầm văn hóa càng sâu rộng, tác phẩm của
anh ta càng đạt được tới gần hơn nỗi niềm và tiếng lòng của nhân dân thời đại
mình” (Bảo Ninh) [2]. Thơ Trương Đăng Dung là thứ
thơ có khả năng làm đầy nơi người đọc những cảm – giác – sống, tâm – tình –
thời – đại. Cái gọi là cảm quan/tâm thức hậu hiện đại mà người ta nói nhiều
những năm đầu thế kỷ XXI thì ra đã hiển lộ nơi những bài thơ được Trương Đăng
Dung viết và công bố cách đây độ ba mươi năm về trước (Chúa đã ra đi, Tôi
lại nhìn thấy họ, Những kỷ niệm tưởng tượng…). Thơ Trương Đăng Dung tươi
mới. Và riêng khác.
Với tinh thần tôn trọng người đọc, bằng “ngôn từ kết nối/ phân chia”
đạt đến độ cô nén, ám gợi: “người nghe tự hiểu/ người nói tự im“, Những
kỷ niệm tưởng tượng của Trương Đăng Dung “tự do tạo nghĩa”
nơi những chủ thể đồng sáng tạo. Nếu “mỗi văn bản là một liên văn bản” (J.
Kristeva)và”văn chương như là quá trình dụng điển” (Ngô Tự Lập) thì quá trình
tiếp nhận thơ Trương Đăng Dung sẽ trở nên đặc biệt lý tưởng khi người đọc thực
hiện cuộc kết nối những gì mình đọc với vốn “điển” có sẵn trong khung văn hóa
của mình về Kinh Thánh, về triết học hiện sinh của Nietzsche, triết học ngôn
ngữ của Martin Heidegger, triết học hiện tượng luận củaHusserl… Thơ Trương Đăng
Dung khơi vẫy những cuộc đối thoại tư tưởng, đối thoại văn hóa trong “hoàn cảnh
hậu hiện đại”, nơi/khi chân lý không có bản gốc, chỉ hiện tồn vô vàn “dị bản”:
“thế giới bấp bênh
những ý nghĩa thỏa thuận”
(Thỏa thuận)
5.7.2011
H.Đ.K
…………………………
[1] Trương Đăng Dung, Những kỷ niệm tưởng tượng, NXB
Thế giới, 2011.
[2] Bảo Ninh: “Văn học ViệtNam rất đáng đọc” (Hoàng Kim Anh
thực hiện)
Bài 9:
LÊ HỒ QUANG – “VẬT CHỨNG TRƯỚC THỜI
GIAN” (ĐỌC TẬP THƠ NHỮNG KỶ NIỆM TƯỞNG TƯỢNG CỦA TRƯƠNG ĐĂNG DUNG)
|
1.
Tiêu đề Những kỉ niệm tưởng
tượng không hẳn là một cách
chơi chữ. Đó là phúng dụ về
hiện thực qua một cách nhìn khác. Ở đó, thế giới được thiết lập nên bởi nhiều
chiều kích của kí ức và sự tưởng tượng, chúng tạo nên tính chất mơ hồ, bất định
và đôi khi nghịch dị trong “những ý nghĩa thỏa thuận” của ngôn từ.
Ở đó, thời
gian không trôi theo trật tự tuyến tính viên miễn, nó bị đảo ngược, xâm thực,
chồng lấn, xóa nhòa những ranh giới hiển nhiên, tạo nên những tương tác huyễn
tưởng, phi thực - đó là thời gian để bắt đầu những suy niệm trừu tượng. Cũng ở
đó, quá khứ và hiện tại, hiện thực và tưởng tượng, điều đã có và cái chưa từng
diễn ra…, tất cả đều có thể đồng hiện và đan cài vào nhau trên cùng một mặt cắt
thời gian. Tồn tại trong thơ Trương Đăng Dung là một đời sống đã được gián
cách hóa. Nhà thơ biết giữ khoảng cách để cái hiện thực sự kiện “sống sít”
được lắng lại, và thông qua màng lọc tâm hồn, biến chúng thành cái hiện thực ưu tư. Chính khoảng
cách này cho phép ông nhìn về thế giới không phải như nó là, mà nó trong sự hình dung là. Và bởi vậy, Những kỉ niệm tưởng tượng không chỉ là cái tên gọi, nó còn là
chìa khóa để mở ra một hiện thực khác – hiện
thực của thi ca.
2. Ý niệm về
thế giới của Trương Đăng Dung gắn liền với cảm thức thời gian. Thực ra, khi con
người bắt đầu ý thức về mình như một cá nhân thì đồng thời với điều đó, ý thức
về thời gian cũng được mài sắc hơn bao giờ hết. Thời gian qua hình ảnh mái tóc
“mới sớm còn tơ xanh chiều đã tuyết” (Lí Bạch) trong thơ xưa hay cảm
giác “cái bay không đợi cái trôi/ từ tôi phút trước sang tôi phút này” (Xuân Diệu) trong Thơ mới, dù ở những
mức độ khác nhau, đều được nhìn từ thước đo cá nhân này. Nhưng với Trương Đăng
Dung, cảm thức thời gian ấy gắn liền với nỗi ưu tư về thân phận con người trong
một thời đại đầy biến động: những
chuyến tàu chạy ngược chiều kí ức/ không bao giờ vào ga/ những gương mặt người
lướt qua/ như con số đếm giây trên đồng hồ điện tử (Thành phố phía chân trời)… Cảm thức ấy không chỉ giúp nhà thơ
nhận ra sự nhỏ bé của “những kiếp người” đã “tan trong sương khói”,
mà nó còn đẩy ông dấn sâu thêm trong những suy tư hiện sinh. Một mặt ông nhận
ra cái kết cục bi đát của phận người nói chung - “sinh ra để rồi chết”: một ngày kia hết mọi buồn vui/ chui
xuống cỏ ta sẽ nằm dưới cỏ/ bàn tay ta bất động giữa đất dày/ bàn tay ta thôi
tìm nhau run rẩy (Ảo ảnh); nhưng cùng với điều đó, ông nhận ra sự “sinh sôi” như một quy luật
tiếp nối vĩnh hằng: Em ở lại/
một lần nữa cùng anh giữa mùa trăng sắp lụi/ ta nghe tiếng muôn loài hấp hối/
tiếng côn trùng trong cát bụi sinh sôi (Ảo ảnh)…Chính vì vậy, thời gian có thể
biến mắt trong từng khoảng khắc thực tại (Khi môi ta rời nhau/ hơi ấm đã
thuộc về quá khứ - Vật chứng), đồng
thời nó có thể được kéo giãn đến vô cùng trong vòng sinh hóa bất tận: Có thể em quên rằng anh đã gặp em/
hai mươi ba ngàn năm về trước…/Anh không biết dòng sông trôi về đâu/ bốn mươi
sáu ngàn năm nữa (Có thể)…. Có thể diễn tả ý niệm thời gian của Trương Đăng
Dung qua một cặp phạm trù tương phản mà thống nhất, đó là thoáng chốc và vĩnh
viễn. Đi cùng cảm giác về cuộc đời chỉ như một “ảo ảnh”, chỉ là “nơi
bình minh tạm trú trước hoàng hôn”; nhà thơ cũng đồng thời “cảm nhận
thời gian qua từng giọt nước/ hai mươi ba ngàn năm trong giọt nước mắt này”. Cái vĩnh
viễn đã trở thành một thoáng chốc và ngược lại. Ta có thể nói đến một
thứ “triết học thời gian” trong thơ Trương Đăng Dung, nó là phản chiếu của một
nội tâm quen nhìn sự vật trong tính quy luật và sự tồn tại bản chất của chúng.
3. Thực ra,
với Trương Đăng Dung, ý niệm thời gian tương đối ấy là phương tiện chứ không
phải là cứu cánh. Nhãn quan này cho phép nhà thơ dễ dàng phối trộn, lắp ghép
giữa quá khứ / hiện tại, không gian/ thời gian, phương Đông/ phương Tây, thực/
ảo… Vì vậy mà trong Có thể,
ông dễ dàng tồn tại trong cái trạng thái phân thân giữa cái tôibây giờ và cái tôi “hai mươi ba ngàn năm về
trước”. Vì vậy mà trong Tôi
lại nhìn thấy họ, ông có thể nhìn thấy “những người vợ suốt đêm vá lưới/
mắt quầng thâm nhìn chồng” và “từng
đoàn người tay xách nách mang, lầm lũi đi qua cánh đồng bạc trắng” ở một làng chài nghèo khó quê ông giữa
một “trời Âu” hoàn toàn khác biệt và xa lạ - “đêm đêm giữa trời Âu/
những người tôi mới gặp lần đầu/ những người tôi chưa từng được gặp”… Suy tư về thời gian trong thơ ông
thực chất là sự suy tư về phận người. Không phải về một cá nhân riêng lẻ mà là
thân phận con người nói chung. Đó là những thân phận bé nhỏ, đơn độc, mệt mỏi,
sợ hãi. Điều đó được khẳng định rất rõ trong những câu thơ như hành động truy
vấn tinh thần này:
Anh
hỏi dòng sông về hạnh phúc trên đời
sông
trả lời anh sông chỉ biết trôi,
anh
hỏi ngọn núi
núi
trả lời anh núi chỉ biết ngồi,
anh
hỏi con người
người
trả lời anh bằng nước mắt rơi!
(Ảo ảnh)
Như vậy,
trong thơ Trương Đăng Dung, thời gian được diễn tả như một phúng dụ về trạng
thái nhân thế phổ quát. Điều này cho thấy một tâm trạng có phần bi quan của nhà
thơ, vì xuyên qua trục không – thời gian ấy, cái mà ông luôn nhìn thấy, như là
sự lặp lại giễu cợt của lịch sử, là một hiện thực không lí tưởng, đầy bất trắc,
thậm chí phi lí.Những kỉ niệm tưởng tượng (bài thơ được lấy tên làm tiêu đề chung
cho cả tập và cũng là tác phẩm, theo tôi, là nổi bật nhất của tập thơ này), thể
hiện rất tập trung tư tưởng ấy.
Bài thơ gây
một “ám ảnh” (thậm chí “tái ám ảnh”) * mạnh mẽ tới độc giả bởi nhiều lí do.
Trước hết là sự độc đáo trong bút pháp. Đó là sự xáo trộn đầy bất thường về
không gian (phương Đông/ phương Tây); thời gian (tháng Năm năm 1054/
sáng nay/ ngày sinh lần thứ một ngàn…); Đồng thời với điều đó là sự đứt
mạch, “nhảy cóc” trong cảm xúc, câu chữ và sự chuyển đổi đột ngột đối tượng trữ
tình. Sự tương phản kì dị, thậm chí “kinh rợn” trong các hình ảnh thơ cũng là
một trong những điểm gây ấn tượng mạnh với người đọc. Có thể nhận ra rất rõ dấu
ấn của bút pháp siêu thực trong tác phẩm. Tuy nhiên, mục đích của tác giả không
phải nhằm đi đến những cách tân thuần túy hình thức. Cách viết đặc biệt này
nhằm lột tả bản chất của một trạng huống hiện thực phổ quát. Sự ghép nhập các
phiến mảnh không - thời
gian vốn xa cách như trên kì thực nhằm để nhấn mạnh sự tương đồng giữa Đông và
Tây, xưa và nay, quá khứ và hiện tại... Đó là sự tương đồng - đúng hơn là sự
lặp lại - của những quy luật vận hành thế giới. Thoạt nhìn, những hình ảnh, chi
tiết thơ có vẻ lộn xộn và không nhất quán (điều mà nhiều người đã nói tới). Tuy
nhiên, khi sắp đặt tất cả những chi tiết ấy trong một tổng thể, dưới cái nhìn
suy tư về phận người, bài thơ đã tạo nên sự kết nối đầy ý nghĩa các chi tiết
nhỏ lẻ và rời rạc. Mối liên hệ kết nối giữa tôi (chủ thể trữ tình) – anh (nhà thơ Hunggary, đối tượng trữ tình
thứ nhất) – mẹ (đối tượng trữ tình thứ hai) –em (đối tượng trữ tình thứ ba) được
hình thành trên cơ sở tương đồng thân phận. Sự xuất hiện liên tục của những đại
từ xưng hô số nhiều: tôi với
anh/ ta/ chúng ta; sự lặp lại cố ý của cụm từ “cùng nhau” nhằm tô đậm thêm tính “tất yếu” của số
phận con người dù khác màu da, quốc tịch, tuổi tác, dù là tôi/ anh/ mẹ tôi/ em tôi/ bác sĩ/ y
tá/ gái điếm/ trẻ nhỏ/ người già… Đó
không phải là một nỗi đau siêu hình. Đó là sự lặp lại của tấn bi kịch khi con
người vừa là nạn nhân nhưng cũng có khi là đao phủ của chính mình bởi những
tham vọng lịch sử mù quáng. Trên nền một thời gian có tính ước lệ, bị xáo trộn,
cắt rời, đứt nối vô hạn định, là hình ảnh một cuộc sống với những chi tiết “tả
thực” đến gây sốc. Đó là những hình ảnh dồn chứa nỗi đau đồng thời mang một sắc
thái châm biếm kín đáo:
Chúng ta
lớn lên cùng nhau ăn thịt chó
cùng nhau
thấy những những con trâu vừa kéo cày
vừa đái
bừa xuống ruộng
cùng nhau
thấy những gái điếm ngủ dọc bờ sông
đầu gục
xuống
và những chuyến tàu chở đầy ắp vũ
khí
trên nóc
toa là trẻ nhỏ người già
Và bài thơ
kết thúc trong một dự cảm mang màu sắc u mua, nghịch dị:
Đã lâu
rồi quạ cũng bay đi
có lẽ một
ngày kia chúng sẽ trở về mang theo nhiều xương ống
để làm
búp bê cho em tôi chơi
để làm
dùi cho em tôi đánh trống
Ta sẽ còn
bắt gặp hiện thực nghịch dị ấy trong những bài thơ khác của Trương Đăng Dung.
Chẳng hạn trong Chân trời: Anh đã thấy những người dị dạng/
dang tay đòi hái mặt trời/ những bóng ma thọt chân lang thang/ đòi trở về quê
cũ/ Và những đội quân không mũ/ tay súng tay đao chân bước thụt lùi/ những nhà
thơ chống gậy đứng cười/ trước những con trâu mông dính đầy mạng nhện…; Chẳng hạn trong Giấc mơ của Kafka: Khắp nơi/ những
đôi mắt/ dính trên cổ những người không có mặt/ những tiếng kêu/ phát ra từ
miệng những người không có cổ/ những bàn chân/ càng bước càng lún sâu vào đất… Đó là những biểu tượng về một cuộc
sống bị áp đảo bởi chiến tranh, bạo lực và nỗi đau, trong đó, thân phận con
người xiết bao u tối, nhỏ bé và bất lực.
4. Như một
phản ứng tâm lí – thẩm mĩ tất yếu, đi cùng nhận thức hiện thực ấy, trong thơ
Trương Đăng Dung hiện diện thường trực là nỗi khát khao về cái Đẹp và những giá
trị vĩnh cửu. Hãy chú ý đến hình tượng Em trong thơ ông. Đây là một biểu tượng
quen thuộc trong thơ, nhất là thơ lãng mạn chủ nghĩa, đó là hình ảnh tượng
trưng cho tình yêu, khát vọng hạnh phúc, cái Đẹp thi ca v.v.. Song với Trương
Đăng Dung, Em không chỉ là hình ảnh một người tình gắn với những cảm xúc ái ân
ngọt ngào. Hình ảnh Em hiện lên trong thơ ông như một bản thể lẻ loi và đơn độc
giữa nhân thế:
Bao nhiêu
lần khép cửa
em vẫn
thấy mình chưa ở bên trong
Và cặp
môi hồng
mím chặt
vào nhau an ủi
(Thành phố phía chân trời)
Nếu trong
thơ của nhiều tác giả, Em là một biểu tượng của cái Đẹp thì ở thơ Trương Đăng
Dung, Em còn là hình ảnh tượng trưng cho thân phận côi cút và mong manh của
chính cái Đẹp trong một đời sống dằn dữ và bất trắc. Cho nên hình ảnh Em gợi
nên bao âu lo trĩu nặng:
Mỗi ban
mai khép cửaâ
anh vẫn
ngoái nhìn em lần nữa
ngoài kia
mây bay
gió thổi
mong manh rèm cửa đóng
ngoài kia
trời rộng
ở đâu đó
đang gầm lên tiếng súng…
(Anh không còn gì ngoài em)
Nhìn rộng
ra, trong thơ Trương Đăng Dung, Em vừa là một đối ảnh tâm hồn vừa là một bản
thể tinh thần trùng khít với cái tôi thi nhân. Bởi vậy, tìm kiếm Em không chỉ
là tìm kiếm tình yêu, hạnh phúc mà còn là tìm kiếm diện mạo tinh thần của chính
Anh – nhà thơ. Đó là một hành trình nội tâm dài dặc, không ngừng: Bao năm rồi anh tìm em/ trong những
bình minh không không có mặt trời/ trong những lâu đài chỉ có cánh dơi/ trong
những giấc mơ không đầu không cuối (Ảo ảnh)…Qua Em, Anh tìm thấy chính
mình:
Anh nhìn
vào mắt em
thấy hình
anh ở đó
Nếu mắt
em khép lại
ảnh hình
kia chỉ còn lại trong em
anh không
còn thấy anh trong hiện tại
chỉ thấy
em với những hình những ảnh
của mùa
hè đang qua
một góc
vườn và mấy khóm hoa…
(Ảo ảnh)
Hình ảnh Em
và Anh - cái tôi nhà thơ đã trở thành một cặp biểu tượng song trùng, chúng ánh
xạ vào nhau, chiếu rọi rõ nét hơn cảm thức thân phận con người. Vì vậy, nếu
hiện thực nhân sinh được nhà thơ hình dung như một cõi thế xa lạ, đầy những bức
tường ngăn cách và thù nghịch thì Chân
trời chính là cái đích khát
vọng mà Anh và Em hướng tới. Chân trời đồng nghĩa với sự bí ẩn, nơi gửi gắm
những mơ ước và cũng là nơi đánh thức bao nỗi “khắc khoải”: Anh đã đứng trong màn đêm/ khắc
khoải chờ em đến/ cùng đi về phía chân trời (Chân trời)… Tuy nhiên, những trải nghiệm cá
nhân và cả những kinh nghiệm lịch sử lặp lại khiến nhà thơ, bên cạnh những khát
khao trải nghiệm nhằm thỏa mãn nhu cầu lí tưởng, vẫn luôn cảm thấy bất an. Đấy
là một phức hợp cảm xúc,
trong đó những cảm nhận về cái Đẹp, về tình yêu luôn đi cùng với cảm giác cô đơn,
trống trải và nỗi sợ hãi:
Em đã đến
đẹp như
ánh trăng
cô đơn
như ngọn gió,
chúng ta
nằm trên cỏ
sợ hãi
trước chân trời
(Chân trời)
5. Thơ
Trương Đăng Dung, với thể thơ tự do và giọng điệu tự sự từ tốn, tha thiết, là
một lựa chọn phù hợp với cái đích bộc lộ sự cảm nghiệm đời sống trong những
chiều kích thời gian rộng dài và những quy luật vận hành lặng lẽ không ngừng
của nó (do xuất phát từ nhu cầu “trình bày tư tưởng” này nên ở một số bài, ông
chọn cách nói trực tiếp, điều này dẫn đến việc hơi lộ ý, bù lại nó cho người
đọc thấy rõ hơn cái tạng chất triết lí của thơ ông). Thời gian ở đây gắn liền
với những thức nhận về đời sống nhân sinh mà cái cốt tủy của nó là cảm giác bất
trắc. Ta có thể thấy rõ điều này trong Vật
chứng. Đây là bài thơ diễn tả rất hay cảm giác nước đôi phức tạp của con
người trước thời gian. Một mặt, con người lí trí tỉnh táo biết rất rõ rằng
trước thời gian rồi mọi cái trở nên vô nghĩa, nó biến con người, nói như Xuân
Diệu, từ “dương vô cùng đến âm vô cùng”. Nhưng bằng những hành động sinh tồn cụ
thế, anh ta vẫn không ngừng khát khao và nỗ lực chống lại cái dòng chảy ghê gớm
đó (thực ra, đây là nỗi niềm nhân sinh muôn thuở, thể hiện rất rõ trong văn
chương, chẳng hạn trong đoạn độc thoại nổi tiếng của chàng Hamlet). Vì vậy, cái
yêu cầu của nhà thơ với người tình: Em
đừng xếp lại chăn/ em đừng chải lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo
quần trên ghế/ cứ để nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ trước thời gian (câu này tác giả bài viết in đậm)
thoạt nghe có vẻ khá…trái khoáy. Tuy nhiên, đấy là một yêu cầu mang tính triết lí hơn là một hành động thực tế. Trong
yêu cầu khẩn khoản đó, ta đọc thấy nỗi lo âu cùng cái khát vọng cưỡng lại dòng
chảy thời gian, nhằm “đánh dấu” về sự tồn tại của tình yêu, hạnh phúc – những
thứ vốn quá dễ lụi tàn trong đời sống con người, lại càng quá mong manh trước
thời gian vô tận. Song, nếu vũ trụ là vô cùng thì đời người chỉ là hạt bụi trên
guồng quay “vô tăm tích” của nó. Cưỡng lại vòng quay ấy bằng những “vật chứng”
như hơi ấm một làn môi, một lần tình tự, chẳng phải là quá… mơ hồ hay sao? Kì
thực đây chỉ là một cách “đặt vấn đề” của Trương Đăng Dung. Sự thật thì trong
quan niệm của ông, “vật chứng thời gian” không chỉ có thế. Với ông, sự tồn tại
của đời sống, dù là một đời sống đầy thăng trầm, khắc bạc, là có thật. Sự tồn
tại của con người, dù trong thân phận hữu hạn và đau khổ, là có thật. Những mơ
ước, khát vọng của con người là có thật. Nhưng chúng chỉ thực sự tồn tại như
một “vật chứng” trước thời gian khi
con người suy tư về chúng. Sự suy tư - ấy là bằng chứng về sự tồn tại đích
thực của con người giữa thế giới. Đó là khởi thủy của sự xuất hiện triết học,
nghệ thuật, thi ca…, những loại hình ý thức đánh dấu sự tồn tại của đời sống
tinh thần của con người, vượt lên thời gian và cái chết. (Về điều này, tôi lại
nhớ đến câu nói nổi tiếng của một nhà triết học: tôi tư duy vậy tôi tồn tại.
Thơ, với Trương Đăng Dung, xét đến cùng bản chất của nó, hẳn nhằm để bộc lộ sự
suy tư đó. Hơn thế, thơ còn chính là trạng
thái suy tư đó.
Ở điểm này,
ta thấy rất rõ sự giao thoa, gặp gỡ giữa một Trương Đăng Dung – nhà nghiên cứu,
lí luận và một Trương Đăng Dung – thi sĩ). Suy tư về sự vô hạn của thời gian,
sự phù du và bất trắc của phận người, không phải là để yếm thế buông tay mà để
biết đối diện với nó bằng một thái độ tỉnh táo: một mặt không ảo tưởng dễ dãi,
mặt khác vẫn biết gạn lọc, nâng niu những giá trị của vĩnh cửu trong cái thoáng
chốc của đời người. Sự suy tư ấy cho thấy con người không chỉ tồn tại như một
đối tượng bị động mà như một chủ thể tự do, tự tại, biết chủ động ngay trong
thế bị động. Và phải chăng đó mới chính là một thái độ “hiện sinh trung thực”?
Vinh, ngày 12/9/2011
L.H.Q
--
* Dẫn ra từ
các bài viết:
1. Trần Anh
Thái, Một bài thơ ám ảnh,www.vanchuongviet.org
2. Đỗ Quyên, Tái ám ánh về một bài thơ ám ảnh,www.vanchuongviet.org
(*) Đã
đăng ở tạp chí THƠ, số tháng 10-2011
Bài 10:
TRẦN HOÀNG THIÊN KIM – “PGS.TS
TRƯƠNG ĐĂNG DUNG: SỢ THỜI GIAN RÌNH TRONG TỪNG SỢI TÓC”
|
Nếu không cười, PGS.TS Trương Đăng Dung có gương mặt nghiêm
nghị và đôi mắt thoáng buồn. Đó là gương mặt của người đã quá nửa cuộc đời dành
thời gian cho công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học.
Ông là tác giả của nhiều công trình khoa học dày dặn như Các
vấn đề của khoa học văn học, Từ văn bản đến tác phẩm văn học, Tác phẩm
văn học như là quá trình… và những tác phẩm dịch thuật có ý nghĩa: Dịch
Truyện Kiều ra tiếng Hungary (năm 1984), dịch tiểu thuyết Lâu đài (của Franz
Kafka - 1998), Đứa trẻ mồ côi (Moricz Zsigmond - 2009), Thằng điên và quỷ sứ
(Sarkadi Imre - 2010), các công trình lý luận nổi tiếng: Trên đường đến với
ngôn ngữ (của M.Heidegger), Nghệ thuật và chân lý khách quan (của G. Lukacs)…
Trương Đăng Dung là một nhà khoa học được đào tạo một cách
chính quy. Ông từng tâm sự rằng, lẽ ra ông được đi học ở Liên Xô, nhưng vì một
sự "nhầm lẫn" nào đó, đến phút chót, người ta gửi ông sang Hungary…
Lúc đầu ông rất buồn, nhưng rồi ông nhận ra đó là bước ngoặt
của số phận, một bước ngoặt may mắn. Nhờ học ở Hungary ông mới được tiếp xúc với
tư duy lý thuyết phương Tây một cách bài bản mà ở những nước khác (trong phe
XHCN) hồi đó là không thể.
Cũng tại Hungary, ông đã có điều kiện tiếp cận với các
khuynh hướng sáng tác hiện đại, hậu hiện đại. Tư duy lý thuyết giúp ông hiểu
hơn bản chất của văn học. Trương Đăng Dung thừa nhận, ông chịu ảnh hưởng nhiều
từ Martin Heidegger, F.Kafka…
Trong lời giới thiệu bản dịch tiểu thuyết Lâu đài của
F.Kafka, Trương Đăng Dung đã nhận xét: "Hình ảnh của Kafka là hình ảnh của
cõi mộng, của những cơn ác mộng có nguồn gốc từ nỗi hoang mang lo sợ trước thế
giới. Điều đó làm nên đặc trưng thế giới nghệ thuật của Kafka".
Tiểu thuyết Lâu đài được xuất bản đã đưa Trương Đăng Dung
trở thành một trong những dịch giả được chú ý, bởi cho đến nay, Kafka vẫn được
coi là một nhân vật đã làm thay đổi mô hình phản ánh hiện thực bằng những tác
phẩm sâu sắc, thể hiện sự suy tư không ngừng về sự phi lý của con người trong
thế giới hiện đại.
Sau này, trong một bài thơ nói về Kafka, Trương Đăng Dung đã
viết: Ở New York chiều chiều/ những con voi nhảy từ tầng mười một xuống
sông/ cứu những con chim sẻ. Ở Paris trước cửa Viện bảo tàng/ người nằm ngáp/
trâu xếp hàng mua cỏ/… khắp nơi/ những đôi mắt/ dính trên cổ/ những người không
có mặt/ những tiếng kêu phát ra từ miệng những người không có cổ/ những bàn
chân/ càng bước càng lún sâu vào đất (Giấc mơ của Kafka).
Trong ký ức của nhiều người cùng thế hệ, Trương Đăng Dung
còn được biết đến với tư cách là người có công dịch Truyện Kiều ra tiếng
Hungary. Ông tâm sự: "Những năm du học ở nước ngoài, tôi nhận ra rằng, thế
giới biết đến Việt Nam chủ yếu qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
Người ta không biết nhiều đến văn hóa Việt Nam. Tôi dịch Truyện Kiều với mong
muốn giúp cho bạn đọc Hungary biết đến nền văn học của chúng ta, hiểu hơn nỗi
đau và cả những bâng khuâng, xao xuyến của các thi nhân trước thân phận của con
người. Sau khi bản dịch Truyện Kiều in thành sách, Giáo sư Viện sĩ Klocniczay
Tibor, nguyên Viện trưởng Viện Văn học Hungary đã viết thư chúc mừng tôi và hỏi
rằng: "Tại sao một tác phẩm như thế mà bây giờ chúng tôi mới được
đọc?".
Có lẽ, vì luôn mải mê đắm mình trong những công trình khoa
học cho nên, trong đời thường, Trương Đăng Dung ít giao du. Ông dường như ít
quan tâm đến những câu chuyện tầm phào, trà dư tửu hậu và những bon chen cơm
áo… Ngoài những tập sách dày dặn trình làng, ông ít khi xuất hiện trên báo chí,
ít khi chia sẻ những cảm xúc cá nhân…
Thậm chí, đối với nhiều thế hệ học trò, Trương Đăng Dung là
một thế giới bí ẩn, khó gần, khó hiểu, "kính nhi viễn chi". Nhưng
rồi, không ít người ngạc nhiên khi gần đây, ông cho ra mắt tập thơ Những kỷ
niệm tưởng tượng, một tập thơ vẻn vẹn có 25 bài, tập hợp những sáng tác chọn
lọc trong suốt chặng đường dài mấy chục năm ông đã sống, đã nhận thức thế giới
và trải lòng mình với thơ ca.
Tập thơ mới ra đời nhưng đã được nhiều bạn đọc đón nhận và
quý mến. Song hành với một Trương Đăng Dung lý luận, người ta nhận ra một
Trương Đăng Dung thi sĩ trong một thế giới cô đơn, nhiều hoài niệm, với những
khắc khoải về thời gian hữu hạn của kiếp người: "Anh không thấy thời
gian trôi/ chỉ thấy những lá thư ngày một bạc màu/ những cơn mưa rơi vào đêm
vắng/ dấu chân ta - năm tháng còn đâu"/ Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ
thấy mùa thu vừa lạ vừa quen/ những gương mặt những nụ cười mới gặp/ chưa kịp
thân đã thấy khác đi rồi/ Anh không thấy thời gian trôi/ chỉ thấy lòng ngày một
tha thiết với trời xanh/ sợi tóc rụng bàn tay nào giữ được/ mỗi ban mai khắc
khoải việc chưa thành/ Anh không thấy thời gian trôi/ thời gian ở trong máu,
không lời/ ẩn mình trong khóe mắt, làn môi/ trong dáng em đi nghiêng nghiêng
như đang viết lên mặt đất thành lời/ về kiếp người ngắn ngủi" (Anh
không thấy thời gian trôi).
Qua tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, Trương Đăng
Dung đã có những khoảnh khắc cô đơn với những giây phút qua đi của tình yêu và
số phận: "Sợ bóng tối sẽ tràn vào/ khi em mở tung cửa sổ/ cơ thể chúng
ta thôi rạng rỡ/ Sợ thời gian rình trong từng sợi tóc/ khi môi ta rời nhau/ hơi
ấm thuộc về quá khứ/ Sợ căn phòng trở nên trống rỗng/ khi em xếp lại chăn màn/
ký ức không còn nơi ẩn náu/ Sợ tiếng bước chân em xa dần/ khi những viên sỏi
trong vườn đang ngủ/ ta còn lại gì sau mỗi lần tình tự/ Em đừng xếp lại chăn/
Em đừng chải lại tóc/ em đừng tô lại môi/ cứ để nguyên áo quần trên ghế/ cứ để
nguyên hiện trạng căn phòng/ Anh cần vật chứng/ trước thời gian"… (Vật
chứng).
Trương Đăng Dung tâm sự: "Năm 1978, bài thơ đầu tiên
của tôi được in ở báo Văn nghệ, đó là bài thơ Âm hưởng mùa hè, nhưng tại sao
bây giờ tôi mới ra tập thơ này? Đơn giản là bây giờ tôi mới chọn đủ những bài
thơ xứng đáng để cho vào tập.
Tôi muốn những bài thơ được viết trong suốt mấy chục năm
qua, khi đứng cạnh nhau trong tập vẫn không lạc lõng. Những kỷ niệm tưởng
tượng là một trong những bài thơ tôi thích nhất. Nó được viết vào tháng
5/1983, khi tôi là nghiên cứu sinh tại Viện Hàn lâm Khoa học Hungary.
Một buổi sáng khi ngủ dậy, tôi bỗng thấy cô đơn khủng khiếp.
Tôi nhớ nhà, nhớ bố mẹ, nhớ các em tôi ở Nghệ An. Tôi tự hỏi, tôi đang làm gì ở
châu Âu? Những việc tôi làm như viết luận án tiến sĩ, hay dịch Truyện Kiều sang
tiếng Hungari sao mà xa lạ với bố mẹ tôi, những người quanh năm làm ruộng quần
quật mà vẫn không có đủ những hạt gạo nuôi thân? 18 năm đầu đời của tôi đã trôi
đi trên quê hương Nghệ An.
Đó là khoảng thời gian tôi lớn lên và thấy được những gì mà
bố mẹ, bà con cô bác phải chịu đựng. Cuộc sống ở vùng quê nghèo khổ đã dạy tôi
biết quý trọng và thấu hiểu con người. Thế rồi những ký ức về chiến tranh ập
đến, hình ảnh những người chết và bị thương mà tôi đã chứng kiến…
Tôi ôm mặt khóc như một đứa trẻ. Bà chủ nhà ở tầng trên nghe
tiếng tôi khóc vội đi xuống an ủi. Khi bà ấy đi rồi, tôi ngồi vào bàn viết luôn
một mạch bài thơ đó. Quả là một bài thơ hiếm hoi được tôi viết trong vòng một
buổi sáng. Chiều hôm đó, tôi dịch nó ra tiếng Hungary.
Một tháng sau, tôi đưa bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng
(bản tiếng Hungary) cho anh bạn nhà thơ Hollo Andras, anh ấy đọc xong nhìn tôi
và nói giọng quả quyết: "Đi theo tôi đến gặp Tổng biên tập tạp chí
"Tác phẩm mới", Juhasz Ferenc”. Chúng tôi đến nhà riêng của ông, ngồi
ở ban công, uống rượu vang. Khi xem xong bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng, vẫn
cầm tờ giấy có chữ viết của tôi, ông chậm rãi nói: "Đây là một bài thơ hay
và lạ. Nếu anh không tiếp tục làm thơ thì thật là uổng phí".
Đến cuối tháng 10/1984, tôi nhận được tạp chí "Tác phẩm
mới" trong đó có bài thơ Những kỷ niệm tưởng tượng của tôi được in trang
trọng ở trang đầu. Hai mươi năm sau, tôi gửi bài thơ này cho tạp chí Sông Hương
và được in ngay vào số tháng 6/2004, số chuyên đề Festival và Diễn đàn thơ, sau
nhiều năm nằm im trong ngăn kéo bàn làm việc".
Sau những ký ức về một miền quê đã đi vào trang viết của
ông, thơ Trương Đăng Dung còn khám phá về thời gian đã được chủ thể hóa. Nhà
phê bình Đỗ Lai Thúy đã nhận xét: Thơ Mới, nhất là thơ Xuân Diệu, là những
tiếng nói khắc khoải muốn vượt qua nỗi ám ảnh thời gian bên ngoài, thì thời
gian trong thơ Trương Đăng Dung là bên trong con người, thời gian chính là con
người, hay nói như M.Heidegger, một triết gia mà Trương Đăng Dung sùng mộ, tồn
tại và thời gian, tồn tại là thời gian. Có lẽ chính thời gian có tính kiến tạo
này đã làm cho mọi sự trên đời này đều mang tính quy ước, đều là sự thỏa thuận
của ngôn ngữ, đúng hơn của trò chơi ngôn ngữ.
Trong bài thơ Anh không còn gì ngoài em, ông đã nói
về những khắc khoải ấy: "Anh không còn gì ngoài em/ Sau tuổi năm mươi
ngả bóng/ Anh chuẩn bị sống từ lúc sinh ra/ nay hai màu tóc đan nhau/ ai biết
được/ còn bao nhiêu năm tháng nữa trên đầu?/ Mỗi ban mai khép cửa/ Anh vẫn
ngoái nhìn em lần nữa/ ngoài kia mây bay/ gió thổi mong manh rèm cửa đóng/… Anh
không còn gì ngoài bàn tay em/ Vuốt lên tóc anh trước cả ánh mặt trời/ thời
gian rơi/ qua từng kẽ ngón tay em vất vả…".
Nhiều nhà nghiên cứu có hệ thống lý thuyết vững chắc nên họ
trở thành chuyên gia khi vận dụng để phân tích các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Tuy nhiên, không phải ai trong số họ, khi đặt chân vào địa hạt sáng tác, nhất
là sáng tác thơ, cũng thành công.
Trương Đăng Dung dường như không nằm trong quy luật đó. Với
thơ, người ta phát hiện ra một con người khác trong ông, một tâm hồn nhiều suy
tư và chiêm nghiệm đằng sau những trang sách lý luận tưởng chừng khô khan và
cứng nhắc. Ông cho rằng, lý luận, phê bình văn học là sự hiểu của sự hiểu, là
thế giới của sự diễn giải văn bản văn học.
Thơ là sự khám phá và giãi bày bản thể một cách tự nguyện.
Lý luận phê bình diễn giải cái thế giới nghệ thuật của nhà thơ, còn nhà thơ thì
khám phá và giãi bày cái thế giới tâm hồn của chính mình. Cả hai đều cần đến
tâm hồn và trí tuệ. Đừng nên áp đặt cho thơ nhiệm vụ cứu rỗi hay thể nghiệm.
Nếu thơ được chia sẻ và thấu hiểu thì đó là hạnh phúc của thi sĩ. Thơ như là ý
nghĩa thỏa thuận.
Hơn 50 tuổi đầu, Trương Đăng Dung mới xuất bản một tập thơ,
cũng đồng nghĩa với việc, sau những chức danh khoa học đã được phong tặng
(PGS.TS), sau những chức vụ trong cơ quan làm việc (Phó Viện trưởng Viện Văn
học), có một Trương Đăng Dung thi sĩ luôn tiếc nuối thời gian và cô đơn trong
thế giới sáng tạo của riêng mình. Cho dù thơ ông, nói như một nhà phê bình văn
học, không phải là những bưu kiện để người đọc nhận trọn gói mà là những chấm
phá phía chân trời vẫy gọi người đọc đến "thám mã" và đồng sáng tạo.
Trần Hoàng
Thiên Kim
_______________________
_______________________
(Các bài viết được (Văn chương +) tổng hợp từ các nguồn: nguyentrongtao, phongdiep, vietvan, tapchisonghuong, tapchitho, vanvn, lyluanvanhoc).
No comments:
Post a Comment