Ðầu năm Nhâm Thìn - 2012, trong văn học Việt Nam nói chung và thơ Việt Nam nói riêng, đã diễn ra hai sự kiện nổi bật là Ngày thơ Việt Nam lần thứ 10 và Liên hoan thơ châu Á - Thái Bình Dương lần thứ nhất.
Sự chú ý của dư luận đối với hai sự
kiện này cho thấy, trong xã hội hiện đại, nếu nhà thơ vẫn tiếp tục sáng tạo
những vần thơ giàu cảm xúc, chứa đựng ý nghĩa tư tưởng - nghệ thuật sâu sắc,
nếu thơ vẫn tiếp tục phát triển để đáp ứng nhu cầu tinh thần lành mạnh của công
chúng,... thì thơ vẫn nguyên vẹn các ý nghĩa xã hội của nó...
Năm 2003, vào ngày rằm tháng Giêng
năm Quý Mùi, Ngày thơ Việt Nam (Ngày thơ) lần thứ nhất đã được tổ chức. Khi ấy,
từng có người vì e ngại mà coi đó là thách thức lớn - nếu không nói tới khả
năng thất bại, nếu muốn làm cho Ngày thơ trở thành một sinh hoạt thường niên
của mọi người yêu thơ. E ngại đó là điều có thể chia sẻ, vì từ ý tưởng tổ chức
một sinh hoạt xã hội tới hiện thực hóa ý tưởng là một quá trình đòi hỏi phải có
sự kiên trì, nhất là khi ý tưởng ấy gắn liền với thơ - thể loại văn học hấp dẫn
nhưng khó tìm tiếng nói chung, vì thơ đi cùng với thế giới cảm xúc vừa riêng tư
vừa đa dạng, quá trình tiếp nhận diễn ra không kém phần phức tạp, từ mỗi người
tới cả cộng đồng. Vậy mà sau mười năm, từ nỗ lực của Hội Nhà văn Việt Nam, của
các nhà thơ và công chúng yêu thơ, phải nói rằng mỗi khi Xuân về, Ngày thơ đã
trở thành một mỹ tục rất đáng trân trọng trong sinh hoạt văn hóa - nghệ thuật ở
Việt Nam. Cùng với thời gian, mỹ tục ấy đã hình thành và từng bước ổn định,
không chỉ được thực hành ở hai trung tâm văn hóa - nghệ thuật lớn là Hà Nội và
TP Hồ Chí Minh, mà còn phát triển ra hầu hết các tỉnh, thành phố trên cả nước.
Nhìn lại một chặng đường có thể
thấy, để có một ngày hội của thơ, dành cho người yêu thơ, người tổ chức đã vừa
rút kinh nghiệm, vừa sáng tạo các hình thức - nội dung mới hấp dẫn, sinh động,
phù hợp với sự phát triển của đời sống tinh thần, phù hợp với sự đa dạng của
nhu cầu. Vì thế, theo dõi diễn biến mười ngày thơ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám
(Hà Nội), nơi được coi như là trung tâm của Ngày thơ, sẽ được tiếp xúc với
nhiều điều mới mẻ. Ðó là nơi thơ được tôn vinh, được tạo điều kiện để phô diễn
thành tựu từ truyền thống tới hiện đại, nơi mọi người được thể hiện mình, không
phân biệt người làm thơ già hay trẻ, là nhà thơ nổi tiếng hay thành viên một
câu lạc bộ sở thích... Và có một điều đáng chú ý là, từ nhận thức về tính chất
phức hợp của lễ hội và tính không thuần nhất của người tham dự, dần dà người tổ
chức đã làm cho Ngày thơ có dáng dấp của lễ hội. Khi đến với Ngày thơ, người
tham dự được giao lưu và giải tỏa, đồng thời được tiếp xúc với một số hoạt động
văn hóa khác, như: phát hành sách báo, vẽ chân dung, xem nghệ sĩ dân gian biểu
diễn dân ca, nặn tò he,... Có lẽ vì vậy các năm gần đây, trong chương trình du
xuân của nhiều người ở Hà Nội và các tỉnh lân cận đã ấn định thời điểm đến dự
Ngày thơ. Và nhìn vẻ nô nức của hàng vạn công chúng ở trước và trong Văn Miếu -
Quốc Tử Giám có thể hiểu được sự hấp dẫn cùng ý nghĩa xã hội rộng rãi của một
mỹ tục văn hóa mới hình thành.
Ðầu năm Nhâm Thìn - 2012, Ngày thơ
Việt Nam lần thứ 10 còn có ý nghĩa hơn, vì diễn ra vào thời điểm Liên hoan thơ
châu Á - Thái Bình Dương lần thứ nhất tổ chức tại Việt Nam (Liên hoan thơ), lần
đầu tại Ngày thơ ở Hà Nội có các nhà thơ từ 24 quốc gia và vùng lãnh thổ đến
tham dự. Tại Ngày thơ, các nhà thơ bạn bè đã không khỏi bất ngờ, cảm động khi
biết về truyền thống thơ ca của Việt Nam, khi được chứng kiến sự hào hứng cùng
tấm lòng chân thành của công chúng Việt Nam đương đại đối với thơ. Nhiều người
đã ngạc nhiên khi biết Nhà nước Việt Nam rất quan tâm tới sự phát triển của
thơ, tạo điều kiện để nhà thơ phát huy khả năng sáng tạo, giúp công chúng thỏa
mãn nhu cầu. Và từ đó, bằng thơ và qua thơ, các nhà thơ Việt Nam cùng các nhà
thơ bạn bè nhanh chóng tìm được sự đồng cảm và tiếng nói chung, như nhà thơ
Xu-ri-ta Pôn Cu-ma đến từ Ấn Ðộ nói: "Cơ hội được liên kết và lắng nghe
thơ của nhau có lẽ là một trong những cách tốt nhất để xây dựng mối quan hệ bền
chặt giữa chúng ta trên con đường phát triển văn minh và vững chắc".
Tại cuộc hội thảo tổ chức trong
khuôn khổ Liên hoan thơ, có thể tiếp xúc với ý kiến khá thống nhất của nhiều
nhà thơ đến từ các quốc gia, vùng lãnh thổ khác nhau mà qua đó có thể khẳng
định, từ vai trò và giá trị của thơ trong cuộc sống, trong lịch sử nhân loại,
hàng nghìn năm qua, thơ vẫn luôn là một loại sản phẩm sáng tạo tinh thần cao
quý, một trong các phương tiện quan trọng để biểu đạt thế giới cảm xúc của con
người. Ở mọi phương trời, thơ không chỉ là nơi giãi bày tâm tư, sẻ chia, an
ủi,... mà thơ còn hướng con người tới những điều thanh khiết, hướng tới hòa
bình, khiến mỗi người biết tự "thanh lọc" tâm hồn để có thể sống một
cách "người" hơn. Từ đó, thơ trở thành cầu nối giữa con người với con
người, giữa dân tộc với dân tộc, không chỉ giúp tăng cường hiểu biết lẫn nhau,
mà còn làm phong phú tâm hồn, như nhà thơ Mỹ Ma-ry Croi nói: "Thơ ca hơn
cả những ngôn từ trên một trang giấy, nó là một quá trình của sự sống, tuôn
chảy như một dòng sông và đưa chúng ta đi, để chúng ta gặp gỡ rất nhiều và lắng
nghe nhiều bài hát trong hành trình ấy... hành động sáng tạo thơ ca (hoặc bất
cứ loại hình sáng tạo nào) là điều cần thiết cho việc thiết lập hòa bình. Thông
qua hành vi cao cả của việc tiết lộ thế giới nội tâm, chúng ta mới có thể kết
nối với những dân tộc khác và gây dựng được sự cảm thông và thấu hiểu từ
nơi sâu thẳm nhất".
Còn nhà thơ J.An-xtên đến từ nước
Anh cũng cho rằng: "Nghệ thuật đẹp và thơ hay cung cấp những chiếc chìa
khóa cho tâm hồn chúng ta, mở ra cánh cửa cảm xúc, ký ức và trí tưởng tượng
thuộc về người khác. Những cuộc đời và trải nghiệm, những thực tế nội tâm của
những người khác trở thành một phần trong thế giới nội tâm riêng biệt của chúng
ta". Có được như vậy vì thơ tìm thấy sức sống trong chính cuộc đời, trong
hạnh phúc và khổ đau của đồng loại, trong sức sống văn hóa của cộng đồng mà thơ
đã góp phần tạo dựng, như ý kiến của nhà thơ I-xra-en S.Me-séc: "Tôi đặt
những cuốn sách tôi đặt hàng từ thế giới, nhưng làm thơ về mảnh đất của riêng
mình".
Trên ý nghĩa nào đó có thể nói, cho
dù có sự lên ngôi của "cái tôi", cho dù có sự thôi thúc mãnh liệt của
khát vọng cá nhân, thì thơ vẫn mang tải ý nghĩa xã hội - con người nhiều hơn
khi hướng đến cảm thức của số đông, hướng tới khát vọng của mọi người. Và nếu
mỗi bài thơ không phải là sản phẩm được tổ chức theo lối "quái tứ, dị
ngôn", thì quan niệm về thơ, về vai trò xã hội của nhà thơ cũng là những
điều giản dị. Có thể bắt gặp điều giản dị này qua ý kiến của nhà thơ Phi-li-pin
M.Ê-va-xcô: "Tôi tồn tại trong thế giới này, nhất là ở châu Á, trong vai
trò người làm ra hòa bình, một người tìm kiếm nguồn nước, tìm ra những dòng
suối có thể chữa bệnh, những con thác ào ào nước, những dòng sông và những con
suối, những chiếc giếng sâu thẳm, tìm ra hồ nước mà từ những nơi đó cuộc sống
tưởng tượng và cuộc sống thật của chúng ta được nuôi dưỡng"; và nhà thơ
A.A-bi-dốp đến từ U-dơ-bê-ki-xtan cũng nói: "Nếu một ai đó ở quanh tôi
không hạnh phúc, nếu có chiến tranh, khủng bố và sự hiểu lầm, tôi tự trách mình...
Tôi hy vọng rằng nhờ những bài thơ của mình, cuộc sống của con người sẽ tốt đẹp
hơn, nhiều tình cảm hơn và họ cũng hiểu nhau hơn".
Ðặc biệt, trước nguy cơ toàn cầu hóa
về văn hóa thì thơ - với dấu ấn tâm hồn của dân tộc không thể thay thế, lại
mang chứa khả năng giúp mỗi nền văn hóa dân tộc khẳng định, giữ gìn bản sắc
riêng, như nhà thơ A.R.Xa-giô-nô (In-đô-nê-xi-a) trình bày: "Công nghệ
thông tin tiên tiến đang giúp ngôn từ lan tỏa khắp thế giới. Thật nhanh để có
thể thành lập những sự kiện kết hợp toàn cầu và những sự kết hợp đó sẽ công
thức hóa ngay lập tức và một cách thiển cận. Trong những trường hợp thế này,
thơ sẽ trở thành khả năng khác, một cách nhìn khác đối với thế giới. Thơ nhìn
vào thế giới từ những đặc điểm riêng, và sự khác biệt của nó, vì thế thơ có sức
mạnh bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa của mỗi quốc gia, chạm vào trái tim
của con người trên khắp thế giới. Trái tim ấy sẵn sàng hợp tác với những dân
tộc của một quốc gia, một nền văn hóa khác, gieo trồng hòa bình trên mảnh đất
màu mỡ của tri thức".
Mười ngày thơ cùng Liên hoan thơ đầu
tiên có thể còn có điều chưa làm vừa ý những người khó tính hoặc có khát vọng
lớn hơn, rộng hơn cho thơ. Song, nhìn nhận với ý nghĩa hoạt động nghề nghiệp
của người làm thơ và tình yêu thơ của cộng đồng, thì không nên đánh giá sự
thành - bại từ sở thích, ý muốn của cá nhân nào, cần nhìn nhận từ kết quả tổng
thể mà hoạt động đó mang lại. Tiếp cận như vậy thì hoàn toàn có thể khẳng định,
Ngày thơ và Liên hoan thơ đã thành công trong tính mục đích của chúng, vấn đề còn
lại là cần làm gì để Ngày thơ tiếp tục là ngày vui của mọi người yêu thơ; và
rồi đây, Liên hoan thơ cũng sẽ trở thành một hoạt động thường niên, để nhà thơ
Việt Nam và các nhà thơ trên thế giới có thể gặp gỡ, trao đổi, cùng tháo gỡ các
trở ngại đã và đang xảy ra trên tiến trình thơ
ca.
Trong thời hiện đại, không chỉ thơ
Việt Nam mà với nhiều nền thơ khác trên thế giới, câu hỏi "tồn tại hay
không tồn tại?" đang cần câu trả lời; nói cách khác, ngày nay, thơ đang
phải đối diện với nhiều thách thức. Tuy nhiên, dù thách thức lớn đến thế nào
thì thế giới tâm hồn con người vẫn còn nguyên giá trị, nếu không nói đã trở nên
phong phú và sâu sắc hơn. Từ mười Ngày thơ và một Liên hoan thơ, bước đầu có
thể thấy lý do đưa tới sự ra đời của thơ vẫn tồn tại trên hai phương diện:
người sáng tác và người yêu thơ.
Vì thế, trước khi đi tìm các lý do ngoại cảnh
tác động tiêu cực tới sự phát triển của thơ, cần tìm lý do từ chủ thể sáng tạo.
Thơ cần phải cách tân, cần phải đổi mới, nhưng thơ chỉ có thể cách tân và đổi mới
khi các nhà thơ đã trưởng thành hơn về tinh thần, về nội lực, thật sự sống với
thế giới tinh thần của dân tộc để tìm thấy sự đồng vọng trong tâm hồn và trong
cảm xúc. Như một nhà phê bình văn học ở Việt Nam đã từng viết: "Nếu không
có trụ cột là tình yêu với cuộc sống thì đi tìm những thể nghiệm cách tân, hiện
đại... chỉ là những mỹ từ che đậy cái anh đánh mất. Những thể nghiệm đó không
đi đến đâu cả, chừng nào họ chưa tìm được tình yêu cuộc sống".
Và trong rất nhiều định nghĩa khác
nhau về thơ, dường như định nghĩa của nhà thơ A.A-bi-dốp tại Liên hoan vừa qua
cũng có ý nghĩa tham vấn nhất định đối với người làm thơ: "Ở một góc độ
nào đó, thơ (poetry) là: P - cảm xúc, O - tính độc đáo, E - đạo đức, T - giai
điệu, R - vần điệu, Y - sự trẻ trung".
NGUYỄN HÒA
Nguồn: Báo Nhân dân/ Phongdiep.net
No comments:
Post a Comment