Đây mới chỉ nói về việc bao quát tư liệu, thẩm định và chọn lựa tác phẩm thơ ca. Còn một nội dung quan trọng khác nữa là hai ông đã theo dõi sát sao quá trình phát triển của phong trào Thơ mới trên cơ sở cứ liệu phê bình và tranh luận văn học - những cuộc đăng đàn diễn thuyết; những bài điểm sách, đọc sách, bình luận; những bài tựa, bạt; những cuộc luận chiến giữa nhiều người và nhiều phái; những bước tổng kết qua từng năm, từng chặng đường và cả chuyên khảo về từng tác giả hay khảo sát một số đặc điểm nội dung cũng như nghệ thuật Thơ mới đương thời. Nói khác đi, cùng với tiếng đàn đồng điệu qua lời bình về từng thi nhân thì lời dẫn Một thời đại trong thi ca trong Thi nhân Việt Nam chính là đã được chưng cất trên nền tảng những kiến giải sâu sắc về Thơ mới, thực hiện cuộc tổng duyệt thành công mỹ mãn và tương xứng với một mùa bội thu thơ ca.
“Một thời đại vừa chẵn mười năm”!
Chính Hoài Thanh - Hoài Chân đã tổng kết một cách xuất sắc lịch sử cả một thời
đại thơ ca, kể từ cội nguồn mầm triệu trước đó cho đến khi Thơ mới đi vào giai
đoạn thoái trào, chung cuộc, vào đúng khoảng thời gian cuối năm 1941, khi tác
giả đặt dấu chấm hết cho công trình của mình. Tuy nhiên, từ điểm nhìn văn học
sử có thể nói hào quang Thơ mới còn le lói suốt từ 1942 (thời điểm in Thi
nhân Việt Nam) đến gần Cách mạng Mùa Thu 1945, với bước đi cuối mùa của
nhóm Xuân Thu nhã tập, Thơ Hàn Mặc Tử (1942), Nguyễn Bính in Mười
hai bến nước, Mây Tần, Người con gái ở lầu Hoa (1942), Vũ Hoàng Chương in Mây
(1943), Tế Hanh in Hoa niên (1944), Xuân Diệu in Gửi hương cho gió
(1945); nhiều bài luận bình, trao đổi về Thơ mới tiếp tục được in trên các báo,
tạp chí như Thanh nghị, Tri tân (1941 - 1945), Nam Kỳ tuần báo
(1942 - 1945) và các chuyên luận như Hàn Mặc Tử của Trần Thanh Mại
(1942), Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam của Kiều Thanh Quế (1942), Tú
Mỡ của Lê Thanh (1942), Việt Nam thi ca luận của Lương Đức Thiệp
(1942), Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc
Phan (1942-1945), Tôi với Tản Đà của
Nguyễn Văn Phúc (1944)... Cũng từ điểm nhìn văn học sử sẽ thấy rõ những luận
bình về Thơ mới được trích dẫn trong Thi nhân Việt Nam là tiếng nói của
người trong cuộc, người đương thời - thì đến lượt mình, chính công trình tổng
thành Thi nhân Việt Nam cũng là tiếng nói “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”!
Điều này cũng có nghĩa là cần chú ý hơn nữa việc đặt Thi nhân Việt Nam trong bối cảnh phong trào Thơ mới,
trong tiến trình phê bình, nghiên cứu Thơ mới ngay buổi đương thời.
Phải ghi nhận một thực tế khách quan
là thành công của Thi nhân Việt Nam chính là đã tựa trên nền tảng một
đời sống học thuật thực sự cởi mở, dân chủ - tất nhiên trên lĩnh vực thơ ca. Ở
đây thực sự đã diễn ra không khí “trăm nhà đua tiếng” với sự nhập cuộc bình
đẳng của tất cả các phái mới - cũ, Tây - Đông, hiện đại - truyền thống, trong
Nam - ngoài Bắc, giới sáng tác - phê bình... mà trọng tài ghi nhận cuối cùng
chính là sự thắng thế tuyệt đối của trào lưu Thơ mới. Đương nhiên công việc
đánh giá toàn cảnh bức tranh lịch sử phong trào Thơ mới đòi hỏi phải tìm trở
lại những tài liệu nguyên gốc, những tiếng nói ban sơ, trực cảm, trực giác,
thực sự là của “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”; bao gồm tất cả những ý
kiến đề xuất, tựa, bạt; những cuộc luận chiến, đấu tranh nảy lửa về quan niệm
Thơ Mới - Cũ; những bài đọc, điểm, luận bình các tập thơ; và thêm nữa là các
tiểu luận, khảo cứu chuyên sâu về đội ngũ tác giả, các trào lưu, các vùng văn
học, các hình thức tiếp nhận, các sắc thái nội dung và hình thức thể loại (với
những đóng góp nổi bật của Thiếu Sơn, Lam Giang, Hoài Thanh - Hoài Chân, Lê
Thanh, Lương Đức Thiệp, Trần Thanh Mại, Kiều Thanh Quế...). Để nhấn mạnh thêm
tầm quan trọng của tiếng nói lịch sử “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”,
chúng tôi điểm lại một vài khía cạnh nội dung và sự kiện liên quan:
1. Có thể nói mầm triệu Thơ mới đã
khởi nguồn từ ngày nhà văn hóa Phạm Quỳnh (1892-1945) ý thức được những hạn chế
của lối thơ cũ và dự cảm yêu cầu một sự đổi thay: “Người ta thường nói thơ là
tiếng kêu tự con tâm. Người Tàu định luật nghiêm cho nghề làm thơ thực là muốn
chữa lại, sửa lại tiếng kêu ấy, cho nó hay hơn, trúng vần trúng điệu hơn, nhưng
cũng nhân đó mà làm mất đi cái giọng thiên nhiên đi vậy” (Bàn về thơ Nôm -
Nam Phong, số 5, tháng 11-1917; tr.293-297). Thế rồi trải qua thử nghiệm
của Tản Đà, Trần Tuấn Khải, Tương Phố - những người tưởng đã một tay chạm được
vào Thơ mới, phải chờ đến Phan Khôi, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ xuất hiện thì dòng
Thơ mới mới thật sự định hình…
2. Trong Thi nhân Việt Nam,
Hoài Thanh - Hoài Chân có trích tuyển bài Tiếng thu và một lời bình
thảng hoặc xa xôi: “Cảnh mộng có khi cũng có màu sắc như chiếc cáng điều lững
thững trên sườn núi hay con nai vàng ngơ ngác trong rừng thu”. Song cũng ngay
từ trước 1945, Kiều Thanh Quế (1914-1947) đã dẫn giải rõ trong bài Thi sĩ
Lưu Trọng Lư với “Tiếng thu”: “Nhưng du dương nhứt, réo rắt nhứt và tượng
trưng nhứt, có lẽ là khúc Tiếng thu tuyệt vời (...). Giá trị của bài Tiếng
thu này, là ngoài việc phác được một âm thanh du dương, một nhạc điệu réo
rắt, còn tượng trưng được một bức họa chấm phá: một bức thủy mặc Tàu, một tấm
Kakemono Nhựt cũng nên!
Một tấm Kakemono Nhựt thì có lẽ đúng
hơn! Vì tôi đã may mắn tìm ra được một tấm tranh Nhựt có những nét chấm phá hệt
như bức họa Tiếng thu của Lưu Trọng Lư. Xin trình bày dưới đây, để tặng
thi sĩ họ Lưu và để hiến tất cả độc giả từng nâng niu tập thơ Tiếng thu
(Lược bản phiên âm - NHS)...
Bài thơ Nhựt ấy, tôi bất tài, không thể dịch y nguyên tác ra quốc văn nổi. Còn thoát ý nó, lại là việc thừa.
Bài thơ Nhựt ấy, tôi bất tài, không thể dịch y nguyên tác ra quốc văn nổi. Còn thoát ý nó, lại là việc thừa.
Vì trước tôi, Lưu Trọng Lư đã thoát
ý nó, viết nên bài Tiếng thu rồi. Vậy để làm quà cho những bạn hiếu kỳ,
tôi chỉ xin chép hai bản Pháp văn của bài thơ Nhựt ấy (Lược hai bản dịch Pháp
văn - NHS) (Tạp chí Tri tân, số 138, tháng 4-1944).
Tuy nhiên, Kiều Thanh Quế không cho
biết xuất xứ. Nay xin nói thêm, bài thơ này từng được dẫn với đầy đủ nguyên bản
tiếng Nhật, phiên âm, dịch nghĩa và dịch thơ trong tập Le problème de la
poésie Japonaise, Paris, 1938; tr.38-39 (Tư liệu do cố Nguyễn Hữu Đang cung
cấp. Nhân đây xin bái vọng hương hồn cụ)...
3. Chúng ta đã biết cuộc luận chiến
Mới - Cũ diễn ra quyết liệt khởi đầu trên báo Phụ nữ tân văn song cũng cần biết kỹ hơn vai trò diễn đàn Phong
hóa và Ngày nay với các tay bỉnh
bút như Nhất Linh (Thế nào là Thơ mới, số 36-1933; Nguyễn Thế Lữ -
một nhân vật mới trong làng Thơ mới, số 54-1933; Sự cân nhắc chữ
trong Thơ cũ và Thơ mới, số 68-1933...); Thạch Lam (Những lời phê bình
đáng phê bình của một nhà phê bình phê bình một nhà phê bình, số 126-1934; Cuộc
điểm báo, số 127-1934...). Rồi những bài tường thuật của Ngộ Không: Một
cuộc diễn thuyết ở Sài Gòn - vấn đề “Thơ mới... và Thơ cũ”, số 135 -
1935; Hanh, Kiêm tỉ thí lôi đài (chỉ Nguyễn Văn Hanh và Nguyễn Thị Kiêm
- NHS chú), số 136-1935...
Rồi còn khoảng hơn hai chục bài đọc
sách (1934-1935) của Lê Ta - Thế Lữ phân tích cái hay cái dở mọi nhẽ qua các
tập thơ của Nguyễn Lan Sơn, Nguyễn Vỹ, Đức Văn, Nhuệ Thủy, Huy Thông, Thao
Thao, B. Blan, Xuân Thiện, Tchya... Mới biết ngay từ buổi đầu Thơ mới cũng có
sự phân hóa, đan xen hay - dở, cao - thấp, khen - chê, tốt - xấu chứ không hề mát
mái xuôi chèo.
Ngay sau khi ra đời, rất nhiều tác
phẩm của Thế Lữ, Bàng Bá Lân, Nguyễn Nhược Pháp, Chế Lan Viên, Nguyễn Vỹ, Vũ
Hoàng Chương… cũng chịu nhiều thử thách của dư luận, đặc biệt tiếng nói phản
biện của các cây bút trong nhóm Tự lực văn đoàn với nhiều bút danh khác nhau
(Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Tú Mỡ, Tứ Ly, Việt Sinh, T. Bách, Tường Bách,
Nhị Linh…). Nhìn chung, đó là những ý kiến trao đổi, luận bàn sôi nổi, thậm chí
có gay gắt, quyết liệt nhưng là của người trong cuộc, người trong giới văn
chương, để rồi tự dư luận, thời gian và thực tiễn sáng tác sẽ phán xét và có
câu trả lời cuối cùng. Tinh thần dân chủ và khả năng cập nhật thông tin, tiếp
nhận đồng đại các sự kiện, hiện tượng văn học cả ở trong nước và thế giới (chủ
yếu từ Pháp) là những đặc điểm nổi bật gắn với hoạt động phê bình Thơ mới và
văn học giai đoạn nửa đầu thế kỷ nói chung.
4. Cũng cần phải nói thêm, trước khi
Thi nhân Việt Nam ra đời, Hoài Thanh đã từng cho in bài viết Thơ mới
trên Tiểu thuyết thứ Bảy (số 31, 29-12-1934) và phần đầu khảo luận Một
thời đại trong thi ca với tựa đề Nguyên nhân sâu xa của phong trào Thơ
mới trên Tạp chí Tri tân (số 25, tháng 11-1941), v.v... và v.v…
Dẫn dụ lại vài tư liệu trên đây, tôi
muốn nhấn mạnh thêm rằng câu chuyện phong trào Thơ mới vẫn còn ẩn chứa biết bao
sự kiện, bao nhiêu khía cạnh, bao nhiêu mảng màu và chi tiết thú vị. Một phong
trào Thơ mới hẳn sẽ hiện lên một cách hoàn chỉnh, sắc nét, sinh động hơn nữa
nếu chúng ta sưu tập được đầy đủ ý kiến của những người trong cuộc, người đồng
thời - “thời Thơ mới bàn về Thơ mới”. Qua thời gian và những biến động lịch sử,
công việc sưu tập này ngày càng trở nên khó khăn hơn. Trước mắt, xin kỳ vọng
vào dịp kỷ niệm 80 năm phong trào Thơ mới (1932 - 2002), chúng ta sẽ có dịp
tiếp xúc với một phần bộ tư liệu Thời Thơ mới bàn về Thơ mới...
Nguyễn Hữu
Sơn
------------------------
(*)
Bài viết nhân kỷ
niệm 80 năm phong trào Thơ mới (1932-2012)
No comments:
Post a Comment