4. Sử liệu và sử thực về cục diện
loạn sứ quân
Trong giai đoạn thế kỷ X, chính
quyền trung ương của người Việt tuy đã được thành lập, nhưng sự cát cứ cục bộ của
các thế lực hào trưởng, các dòng họ phiệt duyệt vẫn luôn xảy ra. Trong thời
gian trị vì của Hậu Ngô vương, có thể đếm được ba bốn điểm cát cứ (còn được sử
ghi lại), ấy chính là động Hoa Lư của Đinh Bộ Lĩnh, Thao Giang của Chu Thái[1] và
đất Thái Bình[2] của hai thôn (họ) Nguyễn-
Đường (nơi Nam Tấn Vương đã tử trận), còn phải kể thêm sự cát cứ ngấm ngầm của
Trần Lãm ở Bố Hải khẩu. Các lợi ích nhóm dòng họ có thể là một nguyên nhân dẫn
đến sự cát cứ của các sứ quân đối với nhà Ngô. Nhưng, theo chúng tôi, đó là
nguyên nhân thứ yếu. Nguyên nhân trực tiếp và trước nhất là từ những sự kiện về
một “nhân vật khuất lấp” trên chính trường thế kỷ X trong một số sử liệu dẫn ra
sau đây.
交州吳昌文卒其佐呂處玶與峰州刺史喬知祐爭立交趾大亂驩州丁璉舉兵擊破之(Ngô
Xương Văn ở Giao Châu chết, Tá của ông này là Lã Xử Bình cùng Phong châu Thứ sử
Kiều Tri Hựu tranh lập, Giao Chỉ đại loạn, Hoan Châu Đinh Liễn cử binh kích phá
đám ấy).
静海節度使吳昌文卒其叅謀吳處玶峯州刺史橋知佑武寧州刺史楊暉牙將杜景碩等争立交阯十二州大亂㓂盗羣起始楊庭藝為静海節度使遣牙將丁公著攝驩州刺史公著死子部領繼之於是部領與其子璉同帥兵三萬人擊破處玶等境内以安遂自立為萬勝王以璉為静海節度使(Tĩnh
Hải quân Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, Tham mưu của Văn là Ngô Xử Bình, cùng
Phong Châu Thứ sử Kiều Tri Hựu, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ Cảnh
Thạc, bọn ấy cùng tranh lập. Mười hai châu của Giao Chỉ đại loạn, trộm cướp
cùng dấy. Trước, Dương Đình Nghệ làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, sai Nha tướng
Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử. Công Trứ chết, con Bộ Lĩnh nối chức ấy.
Khi đó, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn cùng thống soái ba vạn người đánh phá bọn Xử
Bình, đất ấy mới yên, bèn tự lập làm Vạn Thắng Vương, lấy Liễn làm Tĩnh Hải
quân tiết độ sứ)
“乾徳初昌文死其㕘謀呉處玶與諸將爭立攝讙州刺史丁部領與其子璉統兵三萬破處玶等自領交州境内”
(Năm đầu đời Kiền Đức, Xương Văn chết, Tham mưu Ngô Xử Bình cùng các tướng
tranh nhau nổi lên. Nhiếp Hoan châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh và con là Liễn thỗng
lĩnh ba vạn quân binh phá được bọn Xử Bình, rồi tự trị đất Giao Châu)[9]
“皇朝乾徳初其部内亂有攝驩州刺史丁部領與其子璉率衆討平之部民共立部領為交州帥”
(Hoàng triều ta năm đầu của niên hiệu Kiền Đức, bộ ấy nội loạn, có Nhiếp Hoan
châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem quân đi thảo phạt bọn làm loạn.
Dân bộ ấy lập Bộ Lĩnh là Giao châu soái).
州將呉昌岌遂居其位昌岌死其弟昌文承襲宋乾德初昌文死其參謀呉處玶峰州刺史矯知䕶武寧州刺史楊暉牙將杜景碩等爭立管内十二州大亂部民嘯聚起為宼盗攻交州先是楊廷藝以牙將丁公著攝驩州刺史兼禦蕃都督部領即其子也公著死部領繼之至是部領與其子璉率兵擊敗處玶等賊黨潰散境内安堵部民德之乃推部領為交州帥號曰大勝王
(Châu tướng Ngô Xương Ngập bèn lên ngôi, Xương Ngập chết, em là Xương Văn thừa
tập. Đầu niên hiệu Kiền Đức nhà Tống, Xương Văn chết, Tham mưu của Văn là Ngô Xử
Bình, Phong châu Thứ sử Kiều Tri Hộ, Vũ Ninh châu Thứ sử Dương Huy, Nha tướng Đỗ
Cảnh Thạc bọn ấy tranh lập. Mười hai châu nội quản đại loạn, dân bộ ấy cũng kêu
nhau tụ tập mà dấy lên làm trộm cướp đi đánh phá Giao châu. Trước, Dương Đình
Nghệ lấy Nha tướng Đinh Công Trứ nhiếp Hoan châu Thứ sử, cùng nhiếp Ngự phiên
Đô đốc là Bộ Lĩnh (con của Công Trứ vậy). Khi Công Trứ chết, Bộ Lĩnh nối chức ấy.
Đến đây, Bộ Lĩnh cùng con là Liễn đem binh đánh bại bọn Xử Bình, tặc đảng tan vỡ,
cảnh nội đều yên, dân ơn đức ấy bèn suy Bộ Lĩnh làm Giao Châu soái, hiệu là Đại
Thắng Vương).
Sử liệu 6:
Sách An Nam chí
lược của Lê Trắc 黎崱 đời Trần soạn năm
1335 mục Ngũ đại tiếm thiết (những kẻ tiềm thiết
đời Ngũ Đại) ghi:
-(đến khi Ngô Xương Văn chết, thì có bộ thuộc là
Ngô-Bình (tức Lữ Xử Bình), giành làm vua; Đinh Bộ Lĩnh giết Ngô Bình, lãnh nước
Giao Chỉ, tự xưng là Vạn Thắng Vương, lại tự ý cho con Liễn làm Tiết Độ Sứ).[14]
-宋初丁部領簒呉太祖封丁氏王爵(Đầu đời nhà Tống,
Đinh Bộ Lĩnh cướp ngôi họ Ngô, Thái Tổ phong tước vương cho Đinh Thị)[15]
-昌文卒其佐吳處玶峰州刺史矯知䕶寧州刺史楊暉牙将杜景碩等争立既而丁部領平之遂有其地 (Văn chết, Tá của Văn
là Ngô Xử Bình, Thứ Sử Phong Châu Kiều Tri Hộ, Thứ-Sử Ninh-Châu Dương-Huy và bọn
nha-tướng Đỗ-Cảnh- Thạc tranh lập, rồi đều bị Đinh-Bộ-Lĩnh dẹp yên, mà chiếm cứ
đất ấy)[16]
乾德初節度使呉昌文死其將呉處玶爭立驩州刺史丁部領擊敗處玶等自領交州帥號大勝王
(Đầu niên hiệu Kiền Đức, Tiết độ sứ Ngô Xương Văn chết, tướng của Văn là Ngô Xử
Bình tranh lập. Hoan Châu Thứ sử Đinh Bộ Lĩnh đánh bại bọn Xử Bình, tự lĩnh làm
Giao Châu Soái, hiệu là Đại Thắng Vương)
Sử liệu 8:
Sách Thập
quốc xuân thu quyển 60 của Ngô Nhậm Thần[19] đời
Thanh ghi:
“初吴昌文卒其參佐吕處玶與峯州刺史喬知祐爭構亂丁部領率其子璉擊敗處玶”
(Xưa, Ngô Xương Văn chết, Tham tá của Văn là Lã Xử Bình cùng với Thứ sử Phong
Châu Kiều Tri Hựu tranh nhau gây loạn, Đinh Bộ Lĩnh dẫn con là Liễn đánh bại Xử
Bình).
Sử liệu 9: Đại Việt
sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ khắc in năm 1800 ghi:
(Xét Thập quốc thế gia Ngô Xương Văn mất ở
Giao Châu, tướng tá của ông là Lã Xử Bình và Thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu
tranh nhau lên thay. Giao Chỉ đại loạn, Đinh Liễn ở Giao Châu đánh tan hai người
ấy, Xưởng giao cho Liễn làm Tiết độ Giao Châu…Bính Dần năm thứ 16 [966]…Bọn
quan Tham mưu của Ngô vương là Ngô Xử Bình (một bản chép là Ứng Bình) Thứ sử
Phong Châu là Kiều Tri Hựu, Thứ sử châu Vũ Ninh là Dương Huy, Nha tướng là Đỗ Cảnh
Thạc, tranh nhau lên ngôi. Trong nước khắp nơi nổi loạn, ai nấy đều chiếm cứ quận
ấp, mưu thôn tính lẫn nhau)[20].
Sử liệu10: Việt sử
cương mục tiết yếu của Đặng Xuân Bảng (1828-1910) đời Nguyễn
ghi:
時吴昌文參佐吕處玶與峯州刺史喬知祐爭立部與其子璉擊破之遂乘勝降范防遏破杜洞(杜景碩)
所至克捷號萬勝王(Bấy giờ, viên Tham tá của Ngô Xương Văn là Lữ
Xử Bình tranh ngôi với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu. Bộ Lĩnh cùng con là
Liễn đánh phá được. Liễn thừa thắng bức hàng Phạm Phòng Át, phá Đỗ Động (Đỗ Cảnh Thạc), đi tới đâu thắng tới đó,
hiệu là Vạn Thắng Vương)[21].
4.1. Lã Xử Bình- sứ quân
khuất lấp
Các sử liệu trên cho thấy, “nhân vật khuất lấp”
trên chính trường của loạn sứ quân mà Đại
Việt sử ký toàn thư không nhắc đến
chính là Lã Xử Bình. Lã Xử Bình là bộ tướng/ tham mưu/ tham tá cho Nam Tấn
Vương Ngô Xương Văn, được Nam Tấn Vương trọng thị đến mức ban cho quốc tính: Ngô
(Xử) Bình. Khi Nam Tấn Vương chết trận tại thôn Đường- Nguyễn ở đất Thái Bình,
có lẽ chính Lã Xử Bình là người tiếp quản quân đội chính quy của nhà Ngô. Nói một
cách khác, với tư cách là một người tham tá thân cận, với tư cách là một tướng
quân đang ở ngoài trận, Lã Xử Bình đã thâu tóm toàn bộ quyền lực quân đội chính
quy về tay mình, tức là cướp quyền “điều binh khiển tướng” từ tay nhà Ngô. Theo
chúng tôi, việc Lã Xử Bình tiếm quyền họ
Ngô chính là nguyên nhân quan trọng nhất gây nên tình trạng cát cứ của các tướng
lĩnh nhà Ngô.
Đến đây ta mới hiểu vì sao, hơn 500 con cháu
họ Ngô[22]
không ở kinh đô Cổ Loa mà phải chạy sang nương nhờ đại tướng Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ
Động Giang (Thanh Oai?/ Quốc Oai?, Hà Nội ngày nay). Các bộ sử đời sau ghi chép
một cách phiến diện rằng: các sứ quân tranh nhau nổi dậy khi Nam Tấn Vương chết;
cách ghi như vậy vô hình chung là một sự “vơ đũa cả nắm”, biến một số sứ quân của
triều Ngô thành những người gây loạn, hơn nữa là phản loạn. Từ các sử liệu đã
nêu, người dấy loạn trước nhất trên cục diện chính trị nhà Ngô năm 965 chính là
Lã Xử Bình. Lã Xử Bình nắm được binh quyền của quân đội chính quy nhà Ngô. Điều
này gây nên sự hỗn loạn trên chính trường cũng như trong đội ngũ quân binh. Hơn
500 con cháu họ Ngô đã phải bỏ chạy khỏi Cổ Loa và nương nhờ lão tướng trung
thành Đỗ Cảnh Thạc. Và có lẽ rằng, theo 500 người này còn có khá nhiều thuộc tướng
cũng như binh sĩ đã trốn khỏi hàng ngũ của Lã Xử Bình mà về với phe chính
nghĩa/ chính thống. Cho nên, xét cán cân lực lượng lúc bấy giờ thì Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu họ Ngô mới
là mạnh hơn cả. Lã Xử Bình chỉ chiếm được thành Cổ Loa và với số quân ít ỏi,
đành dựa vào thành cao hào sâu mà cố thủ. Hoặc giả có dám xuất quân thì cũng chỉ
là đi đánh các sứ yếu hơn như Kiều Công Hãn (Tri Hựu, Tri Hỗ, Tam Chế) ở Phong
Châu như một số sử liệu đã ghi. Họ Ngô mất binh quyền và kinh đô, nhưng vẫn còn
lòng dân; lúc tang gia bối rối và phân tán lực lượng chưa thể lập vua mới, nên các “hùng
trưởng mới đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ” (ĐVSKTT tr. 208). Việc “tự giữ” này thực chất là
hành động “tự cai quản” theo chế độ nhà Ngô, chứ không thể nghe theo sự sai khiến
của Lã Xử Bình. Chúng tôi cho rằng, hai chữ “tự giữ” của Đại Việt sử ký toàn thư là có lý[23]. Nhưng,
trong cảnh “đục nước” ấy, hẳn nhiều vị sứ quân cũng đã lộ rõ ý đồ riêng tây,
cái cảnh “không ai chịu thống thuộc vào ai” cũng là lẽ thường tình của sự thế. Chiến
sự có xảy ra thì cũng là một khả năng, nhưng với tình hình sử liệu hiện tại,
chúng tôi chỉ thấy khả năng chiến sự giữa Đinh Bộ Lĩnh với các lực lượng còn lại
mà thôi[24].
4.2. Tự
vương Ngô Xương Xí
Tiếp theo, chúng tôi muốn thảo luận thêm về người kế vị tương lai của họ Ngô trong
giai đoạn này. Theo chúng tôi, người xứng đáng kế ngôi tương lai không ai khác
chính là Ngô Xương Xí- con trai thứ hai[25] của
Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập. Khi ông chú ruột Nam Tấn Vương Ngô Xương Văn mất
năm 965, Ngô Xương Xí đã 19 tuổi. Và với mô hình từ nhượng hiếu đễ đậm chất Nho
gia của Nam Tấn Vương, thì Xương Xí-nhân vật thuộc dòng trưởng của Tiền Ngô
Vương Quyền, mới là người xứng đáng được vị vua này cất nhắc vào vị trí tự vương (vua kế vị tương lai). Chính vì
thế Ngô Xương Xí được ông chú giao nhiệm vụ trấn giữ Ái Châu (đất mồ mả tổ
tông), vừa là đất trọng địa chiếm giữ phía Nam, tạo thành thế gọng kìm kẹp Đinh
Bộ Lĩnh ở giữa. Đại Việt sử ký toàn thư ghi khoảng thời gian từ năm 965- 967, là quãng thời gian của “Ngô sứ
quân” (Ngô Xương Xí), nối tiếp sau thời đại trị vì của Tiền Ngô Vương- Dương Tam Kha và Hậu Ngô Vương.
Có thể thấy sự trang trọng này qua cách trình bày của nguyên bản Toàn thư, Ngoại kỷ Q.V, trang 25a-25b, cũng như phần bản dịch
của Ngô Đức Thọ được in đậm, còn các
sứ quân khác thì chỉ là phụ chép, xem ảnh bên dưới[26].
Trang
25b
|
25a
|
Ký hiệu (từ phải sang
trái):
khung nét to: Ngô
sứ quân (phàm nhị niên: tổng cộng 2 năm);
Khung nét nhỏ (thụt đầu dòng): phần in đậm trong bản
dịch của Ngô Đức Thọ: “họ Ngô, tên húy
là Xương Xí,…là cháu gọi Nam Tấn Vương bằng chú.”
Ngoài khung: các sứ quân và diễn biến Đinh Bộ Lĩnh
đánh dẹp quân nhà Ngô và các sứ.
|
Đại Việt
sử ký tiền biên của Ngô Thì Sĩ chép mục NGÔ SỨ QUÂN như sau: “Vua (TTD nhấn mạnh) húy là Xương Xí,
khi Thiên Sách Vương đi lánh nạn lấy con gái ở giang Nam Sách, sinh ra vua, là
con cháu con chú của Nam Tấn Vương, ở ngôi được hai năm”[27].
Cách đọc của Ngô Thì Sĩ là có cơ sở. Tuy nhiên, điểm tế nhị ở chỗ, Ngô Xương Xí
ở thời điểm đó vẫn đang còn “tiềm để” (chờ đăng quang), chưa chính thức lên
ngôi hay đúng hơn không thể lên ngôi.
Vậy tại sao Ngô Xương Xí không những không thể
lên được ngôi vua, mà còn bị sử đời sau ghi là sứ quân? Theo chúng tôi, nguyên
nhân khá rõ ràng, là bởi vì liên minh Đinh Bộ Lĩnh- Trần Lãm, vào năm 965, đã cắt
lãnh thổ và lực lượng quân đội nhà Ngô làm đôi. Ở tuyến đất liền từ Ái Châu ra
Cổ Loa, họ Ngô không thể đi qua Hoa Lư vì lúc này (năm 965) Đinh Bộ Lĩnh sau 15
năm luyện quân đã trở thành một lực lượng thống lĩnh cả vùng. Ở tuyến thủy lộ,
liên minh Trần Lãm- Phạm Phòng Át đã bịt kín các cửa biển cửa sông. Thế gọng
kìm mà nhà Ngô dựng nên để hãm Hoa Lư đã bị bẻ gãy làm hai, và trở nên phản tác
dụng. Lực lượng quân đội chính triều ở ngoài bắc còn đủ mạnh để dẫn quân chinh
phạt, hòng thay đổi tình thế, còn hai cánh quân của Ngô Xương Xí và Ngô Nhật
Khánh có thể coi chỉ là đủ sức cầm cự và phòng ngự trong đất Ái Châu mà thôi (xem
bản đồ dưới). Chính vì sử gia đời sau chưa xét đến điểm tế nhị này nên đã liệt
Ngô Xương Xí vào hàng sứ quân[28].
Bản
đồ tình thế nhà Ngô năm 965-967.
Ký hiệu: gạch đen lớn, trỏ thế liên quân Đinh Bộ Lĩnh- Trần
Lãm- Phạm Phòng Át.
Các gạch liền trỏ lực lượng chính thống của con cháu nhà
Ngô.
|
4.3. Cục
diện các sứ quân
Cục diện của loạn sứ quân, thực chất có thể vạch
ra ba tuyến lực lượng như sau:
1.
Về lực lượng của triều đình nhà Ngô: gồm Đỗ Cảnh
Thạc (và 500 con cháu họ Ngô) ở Đỗ Động Giang, Ngô Xương Xí ở Binh Kiều đất Ái
Châu (Triệu Sơn, Thanh Hóa, ngày nay), Ngô Nhật Khánh (châu Đường Lâm, nam
Thanh Hóa bắc Nghệ An ngày nay) và có thể một số sứ quân khác chưa xác định được.
2.
Về lực lượng tiếm quyền: chỉ có quân của Lã Xử Bình bị cô lập tại Cổ
Loa.
3.
Về lực lượng cát cứ: gồm liên quân của Trần Lãm
(và Ngô phó tướng) ở Bố Hải Khẩu (Thái Bình ngày nay) với Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư
và Phạm Phòng Át chiếm Đằng Châu (Hưng Yên ngày nay).
Có thể là quân tiếm quyền do Lã Xử Bình đứng
đầu không đủ mạnh để tiến đánh lực lượng của nhà Ngô, nên phải thu về phòng thủ
trong thành Cổ Loa. Lực lượng nhà Ngô (Đỗ Cảnh Thạc) có thể đã tiến đánh Cổ Loa,
nhưng kinh đô này vốn là một thành trì kiên cố bậc nhất vào thời bấy giờ, cho
nên việc đánh hạ có lẽ đã không thực hiện được. Rất tiếc những chi tiết trên chỉ
là đoán định, bởi sử liệu không hề cho biết diễn biến đối đầu giữa hai lực lượng
này.
Cục diện chiến tranh có thể thấy rõ nhất là
cuộc đối đầu giữa lực lượng Đỗ Cảnh Thạc (quân chính quy nhà Ngô) và nhóm của
Trần Lãm- Đinh Bộ Lĩnh. Đại Việt sử ký
toàn thư chép: năm 967 khi Trần Lãm
chết, 500 con cháu nhà Ngô ở Đỗ Động Giang đã cùng tướng Đỗ Cảnh Thạc cất quân
đến đánh Bố Hải Khẩu, rồi bị Ngô phó sứ của Trần Lãm đánh bại ở Ô Man[29].
Đinh Bộ Lĩnh nghe tin ấy, thừa thắng đem quân (có lẽ là hợp quân với Bố Hải Khẩu)
đến triệt hạ quân nhà Ngô ở Đỗ Động Giang. Sử liệu chỉ ghi rất vắn tắt là các bộ
lạc “đều khuất phục” (vô bất phục) [ĐVSKTT tr.209]. Có thể nói, đây là diễn biến
quan trọng nhất của chính trường nhà Ngô. Sau trận chiến then chốt này, lực lượng
chủ đạo của Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu nhà Ngô có thể đã bị tiêu diệt (hoặc hoàn
toàn hoặc phần thì bị giết, phần thì trở thành tù binh của Đinh Bộ Lĩnh). Theo gợi
ý trong các sử liệu của Trung Quốc (đã dẫn), chúng tôi đặt giả thuyết rằng Đinh
Bộ Lĩnh đã thừa thắng tiêu diệt luôn lực lượng của Lã Xử Bình tại Cổ Loa và Kiều
Tam Chế ở Phong Châu. Đại Việt sử
ký toàn thư ghi “từ đó lại dân ở kinh phủ đều khâm phục theo về. Nhà Ngô mất”.
Hai chữ “kinh-phủ” cho thấy, việc đánh diệt Cổ Loa là có thể xảy ra. Nhưng, cũng
có thể việc hãm thành đã khiến cho quân của Lã Xử Bình buộc phải đầu hàng.
Như vậy, với
việc tiêu diệt đội quân chính thống của nhà Ngô và quân tiếm quyền Lã Xử Bình,
thì Đinh Bộ Lĩnh đã nổi lên như một người thống nhất quyền lực bằng sức mạnh
quân sự của mình. Sau khi Đỗ Cảnh Thạc và 500 con cháu nhà Ngô bị tiêu diệt,
cục diện chính trị đã rõ ràng là nghiêng hẳn về họ Đinh. Một số sứ quân khác, vốn
chỉ “tự giữ chức” tại lãnh địa của mình, giờ biết rằng “vận trời” (chữ dùng của
Ngô Sĩ Liên) đã về tay họ Đinh nên đều quy thuận để tránh sự đụng độ mà ảnh hưởng
đến sinh mệnh cá nhân và quyền lợi gia tộc. Quyền lực đã về một mối. Lãnh thổ
được nhất thống.
Tóm lại, từ những sử liệu mới được công bố hoặc
tái phát hiện, bài viết đã lần lượt thảo luận về vai trò của Đinh Bộ Lĩnh và bản
chất cục diện của loạn sứ quân. Có thể nhận định như sau.
(1) Cục diện cát cứ ở triều nhà Ngô đã lộ rõ
từ năm 951 với Đinh Bộ Lĩnh ở Hoa Lư, ngoài ra còn phải kể đến liên minh họ Đường-
họ Nguyễn ở Thái Bình, và Chu Thái ở Thao Giang. Cát cứ là tình trạng chung của
cả ba triều đại Ngô- Đinh- Tiền Lê ở mọi thời điểm. Các nhân sự cát cứ thường
là các vọng tộc cũ thời Bắc thuộc, hay thuộc tướng của các vị soái vương tiền
nhiệm (đã mất), ngoài ra còn phải kể đến hàng loạt các man động của người thiểu
số ở các miền trung du phía Bắc và phía Tây Ái châu (Thanh Hóa ngày nay).
(2) Cục diện các sứ quân thực sự xảy ra toàn
diện từ năm 965-967. Chúng tôi đề
xuất nên nhìn nhân sự của cuộc động loạn này theo ba phe chính: (a) phe họ Ngô
(gồm Đỗ Cảnh Thạc, con cháu họ Ngô cùng một số sứ quân khác); (b) phe các sứ
quân nổi loạn (Đinh Bộ Lĩnh, Trần Lãm, Phạm Phòng Át), và (c) phe tiếm quyền của
Lã Xử Bình. Trên quan điểm đương triều (Ngô) để xác định chính ngụy thì phe Ngô
Xương Xí, Ngô Nhật Khánh và Đỗ Cảnh Thạc không nên gộp nhập vào gọi là “sứ
quân”; trong khi đó các lực lượng quân sự
cần bổ sung trên bản đồ chính trị vào thời điểm này nên là Lã Xử Bình,
Dương Huy và Đinh Bộ Lĩnh. Đây là con số cũng khá đẹp để bù lại ba nhóm Đỗ Cảnh
Thạc, Ngô Xương Xí và Ngô Xương Văn.
(3) Cục diện các sứ quân còn nên nhìn nhận lại
trên bình diện “động thủ- tự giữ” của các nhóm thế lực. Với sử liệu hiện nay,
có thể chia thành hai nhóm như sau: (a) Nhóm các thế lực động thủ tham chiến, gồm
Đỗ Cảnh Thạc, Ngô phó sứ (Trần Lãm), Đinh Bộ Lĩnh, Phạm Phòng Át, Lã Xử Bình,
Kiều Tam Chế; (b) Nhóm các thế lực tự trị- tự giữ (theo chế độ nhà Ngô và chờ
thời thế) gồm: Ngô Nhật Khánh[30],
Ngô Xương Xí[31], và một số sứ quân khác
(hiện chưa xác định được)[32]… Một
số hoạt động của các nhóm thế lực này được sử nhắc đến hầu như chỉ là việc tự
giữ đất và xưng “Công” làm hùng trưởng (chứ không phải xưng Vương- làm quốc trưởng).
(4) Đinh Bộ Lĩnh là lực lượng cát cứ, nổi dậy
sớm nhất, tồn tại lâu nhất, và cuối cùng đã đứng đầu lực lượng liên minh mạnh
nhất đủ thể đánh bại quân nhà Ngô và thống lĩnh các lực lượng quân sự khác. Ông
cát cứ tại Hoa Lư từ năm 951 đến năm 965. Trong thời gian 15 năm này, ông đã tiến
hành luyện quân và liên kết với sứ Trần Lãm để chuẩn bị cho những thời cơ mới. Từ
năm 965 đến năm 967, thế tam phân trong
cục diện chính trị đã diễn ra. Cuối cùng, năm 967, với một số chiến thắng quan trọng trước Đỗ Cảnh Thạc (500 con cháu họ
Ngô), Lã Xử Bình và Kiều Tam Chế, Đinh Bộ Lĩnh đã giành được thế thượng phong,
đủ để chấm dứt sự tại vị của nhà Ngô, đồng thời buộc các sứ quân khác của nhà
Ngô phải theo về dưới trướng của mình.
Năm
968, Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi hoàng đế, lấy pháp hiệu Cồ Thành, đóng đô ở Hoa Lư,
xưng tôn hiệu Đại Thắng Minh hoàng đế, xây dựng nhà nước đa giáo (trong đó nổi
lên mô hình “nội Pháp ngoại Phật”), đặt quốc hiệu Đại Cồ Việt[33],
… Sang năm sau, ông thực hiện hàng loạt các hôn nhân kiểu liên minh quyền lực với
các sứ quân khác[34]
nhằm xoa dịu những mâu thuẫn và thù hận qua những năm tháng chiến tranh. Nhưng
lịch sử luôn đem đến những bài học bất ngờ. Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn- người
con trai giống ông nhất về bản chất tâm tính[35],
đã bị ám sát bởi một âm mưu hoàn toàn khác, và cái cách chuyển nhượng quyền lực
từ họ Đinh sang họ Lê là điều mà khi sống ông không thể tưởng tượng ra được.
Từ Liêm, ngày 29/12/2011
Trần
Trọng Dương, Viện NC Hán Nôm
Email:
trantrongduonghn@gmail.com
Độ dài văn bản: 14.500 chữ
[1] Đặng
Xuân Bảng. sdd. tr.61. “Trước đây, người Thao Giang là Chu Thái quật cường
không chịu phục. Vương đích thân đi đánh. Bắt Thái đem chém”. Như vậy, Thao
Giang là điểm cát cứ đã được Nam Tấn Vương bình định. Có lẽ, trong 15 năm trị
vì của mình, Nam Tấn Vương đã thực hiện nhiều cuộc dẹp loạn và cát cứ như vậy.
Duy có Hoa Lư và Thái Bình thì ông chịu thất bại. Những việc dẹp loạn này xảy
ra phổ biến cả ở đời Lê Hoàn, và Lê Ngọa Triều. Khảo sát, cắm bản đồ cho các điểm
chinh phạt cát cứ này sẽ cho chúng ta thấy rõ hơn tình hình mở rộng lãnh thổ quốc
gia.
[2] Đường thư, Địa lý chí nói nhà Đường cắt huyện Thái
Bình đặt làm huyện Phong Khê,
lại
nói Phong Khê thuộc Phong Châu, "hai thôn Thái Bình, Đường Nguyễn có lẽ ở
đấy" (CMTB4, 11b).
[3]
Sách Ngũ đại sử五代史do歐陽修
đời Tống soạn, Từ Vô Đảng徐無黨chú. Sách
còn gọi là Tân ngũ đại sử hay Ngũ
đại sử ký là một bộ chính sử nhưng do cá nhân biên soạn. Âu Dương Tu tiến
hành biên soạn từ năm 1036 đến năm 1054 (mười tám năm). Tân ngũ đại sử gồm bảy mươi tư quyển, bao gồm Bản kỷ 12 quyển, Liệt truyện
45 quyển, phỏng theo bút pháp xuân thu có bao biếm bình thán, trong đó đặc
biệt đề cao tính chất khảo cứu. Các bộ sử khác thường soanh theo thể chí
(chép), nhưng tác giả dựa trên nguyên tắc “dĩ lễ tu sử” cho rằng đời ngũ đại hỗn
loạn, điển chương chế độ không có gì có thể giữ nên không thể dùng phong cách
chí được. Đời đời Kim, sách được đưa vào học quan, trở nên cực kỳ phổ biến.
[4] Âu Dương Tu tự là Vĩnh Thúc, hiệu Túy Ông hay
Lục Nhất Cư Sĩ, là người đứng đầu của vận động cổ văn đời Bắc Tống, nằm trong
bát đại gia đời Đường Tống. Ông đồng thời là một sử gia nổi tiếng, từng phụng mệnh
vua cùng với nhóm Tống Kỳ biên soạn cuốn Tân
Đường thư. Chủ trương chính trị “sùng Nho phục cổ của ông có ảnh hưởng đậm
nét đến quan điểm “tu sử” trogn các tác phẩm sử học của ông.
[5] Tục tư trị thông giám trường biên là một cuốn đoạn đại
biên niên sử lớn nhất trong số các trước tác sử học tư nhân thời cổ của Trung
Hoa. Nguyên có chín trăm tám mươi quyển, nay chỉ còn năm trăm hai mươi quyển. Lý Đảo phỏng theo thể lệ trong Tư trị thông giám của Tư Mã Quang, chép
sử từ đời Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dận cho đến Tống Khâm Tông Triệu Hoàn Tĩnh
Khang, chép chín triều nhà Tống trong 168 năm. Cuốn
sử này được các học giả đời cận đại đánh giá rất cao. Cuốn sử này ngoài việc
tham khảo các chính sử, thực lục còn tham cứu thêm các gia lục, dã ký, có hiệu
khám đồng dị, đính chính nghi lầm, khảo chứng tường tận, thảy đều có căn cứ.
Nguyên tắc của tác giả là “thà chịu phồn tạp còn hơn giản lược”( 宁失於繁﹐无失於略), nếu có những ghi chép bất đồng đều giữ nguyên để chờ
khảo cứu tiếp, đồng thời lại có góp thêm những nhận định riêng của mình về những
đồng dị đó. Vì thế này này cùng loại với sách Thông giám khảo dị. Khi sưu tầm tư liệu, ông làm phiếu và các hộp
phích cho từng năm xắp xếp theo trình tự thời gian. Cuốn này được coi là một
trong những sự tịch cơ bản đề nghiên cứu về các nhà Liêu, Tống, Tây Hạ,… Chín
trăm tám mươi quyển sau này bị thất tán, hiện chỉ còn thấy 520 quyển trong Tứ khố toàn thư và Vĩnh Lạc đại điển.
[6] Lý Đảo 李燾(1115- 1184) tự là
Nhân Phủ, Tử Chân, hiệu Tốn Nham, người Đan Lăng-My Châu (nay là huyện Đan
Lăng, tp My Sơn, tỉnh Tứ Xuyên), năm 1138 đỗ Tiến sĩ, được điều làm Hoa Dương Bạ.
Năm 1172 làm Lô Châu Tri châu. Thời Vương học thịnh hành, ông chuyên chú cổ tịch,
lấy sử làm trách nhiệm cá nhân. Ông phỏng theo Tư trị thông giám của Tư Mã Quang viết nên cuốn Tục tư trị thông giám trường biên. Trải
làm quan đến Lễ bộ Thị lang, Tiến Phu
Văn Các Học sĩ kiêm Thị độc, Đồng tu quốc sử. Tác phẩm của ông khá nhiều, có Tốn Nham văn tập , Tứ triều thông sử , Xuân thu
học…hơn năm mươi loại, phần lớn đều thất truyền. Hiện chỉ còn Tục tư trị thông giám trường biên, Lục triều chế địch đắc thất thông giám bác
nghị六朝制敌得失通鉴博议(10 quyển), Thuyết
văn giải tự ngũ âm vận phả说文解字五音韵谱(10 quyển). Đời
Thanh đều nhập vào Tứ khố toàn thư.
[7] Cửu triều biên niên bị yếu là sách hợp lại
từ Biên niên cử yếu và Bị yếu . Đương thời vốn là một sách,
nhưng sau cuốn Cử yếu thất lạc, chỉ
còn lại phần này. Sách này ghi chép thực lục và nhật lịch cũng như toát yếu lại
sách Tục thông giám trường biên续通鉴长编của Lý Đảo李焘, lại thâu chép , bảo cứu từ
các sách của hơn mười nhà khác như Tư Mã Quang, Từ Độ, Triệu Nhữ Ngu...
[8] Trần
Quân陳均 (?-?) người đời Nam Tống, tự
Bình Phủ平甫, hiệu Vân Nham, người đất Bồ
Điền莆田. Mã Lâm Đoan trong Văn Hiến thông khảo ghi ông có các sách Biên niên cử yếu (ba mươi quyển), Bị yếu (14 quyển). Nay đều đã thất truyền.
[9] Đoạn
này còn thấy chép trong các sách Ngự phê
lịch đại thông giám tập lãm 御批歷代通鑑輯覽quyển
bảy mốt và Tống sử kỷ sự bản mạt 宋史紀事本末quyển hai.
[10] Ngọc hải là bộ loại thư quy mô rất lớn của
Vương Ứng Lân đời Nam Tống, gồm 200 quyển, phân làm các mục Thiên văn, Địa lý,
Quan chế, Thực hóa,…tổng cộng 21 môn loại, được Tứ khố đề yếu đánh giá “các loại thư Đường Tống không có tác phẩm
nào vượt hơn được”. Bộ sách này thâu gộp các “thực lục” và “quốc sử nhật lịch”
thời Tống, được đánh giá là rất có giá trị về mặt sử liệu. Cuốn cuối cùng của bộ
này còn phụ thêm bốn quyển Từ học chỉ nam辞学指南 và 13 cuốn do ông soạn như
Thi khảo诗考, Thi địa lý
khảo诗地理考…
[11]
Vương Ứng Lân王应麟 (1223-
1296) tự là Bá Hậu, hiệu Hậu Trai, người huyện Cẩn (Nay là Ninh Ba, tỉnh Chiết
Giang), đỗ tiến sĩ năm 1241, điều làm Tây An Chủ bạ. Năm 1256, trúng khoa Bác học
hoành từ, lại rời làm Thái Thường Chủ bạ… Sau làm quan đến Lễ bộ Thượng thư
kiêm Cấp sự trung. Vương Ứng Lâm là học giả nổi tiếng thời Tống mạt, trứ tác
dày dặn, nhưng ảnh hưởng nhất đến đời sau thì có Khốn học kỷ văn困学纪闻,
Ngọc hải玉 海. Ngoài ra còn có cuốn Thâm Ninh tập (đã mất). Chỉ có quyển ba bảy ba tám Lưỡng Tống danh hiền tiểu tập两宋名贤小集còn được chép trong Vương Thượng thư di cảo王尚书遗稿. Niên phả Thâm
Ninh Tiên sinh niên phả深宁先生年谱về
ông được Tiền Đại hân chép. Các truyện về ông còn thấy trong Tống sử.
[12] Văn hiến thông khảo文献通考của Mã Đoan Lâm gồm 24 môn loại, 375quyển. Sách
ghi từ thượng cổ đến những năm Gia Định đời Nam Tống. Thể lệ theo lối thông điển.
Nhưng lại đặt “thực hóa” (sản vật) lên hàng đầu cho thấy tác giả rất coi trọng
thương mại và kinh tế. Ngoài ra, phần Lễ điển chiếm trọn 100 quyển, Xã giao khảo chiếm 60 quyển. Với tác phẩm
này, Mã Đoan Lâm được coi là người đưa thông
khảo lên một bước phát triển mới.
[13]
Mã Đoan Lâm (1254- 1323) tự Quý Dư, hiệu Trúc Châu, người Lạc Bình, Nhiêu Châu
(Lạc Bình, Giang Tây ngày nay), cha ông là Mã Đình Loan- Thừa tướng cuối cùng của
triều Nam Tống từng giữ các chức Quốc sử viện Biên tu, Thực lục viện Kiểm thảo.
Ông là mộ trong những sử gia tiến bộ thời cổ, phát triển thể thể điển chí với
thể tài tân sử thư do Đỗ Hựu sáng lập, tức là lấy sự loại làm đối tượng nghiên
cứu đồng thời phát huy lối hội thông của Trịnh Tiều.
[14]
Lê Trắc.( 1335) An Nam chí lược. Mạnh
Nghị Trần Kinh Hòa dịch (1960, tb 2002).
Nxb Thuận Hóa- Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông Tây. Huế. tr.53.
[15]
Lê Trắc.( 1335). Sdd. tr.224.
[16]
Tham khảo thêm bản dịch của Trần Kinh Hòa, [Lê Trắc.( 1335). Sdd. tr.227].
[17] Tống sử kỷ sự bản mạt宋史纪事本末là sử thư ghi chép lịch sử hơn 300 nhà Tống
(960- 1279), dùng thể tài kỷ sự bản mạt,
viết nối theo cuốn Thông giám kỷ sự bản mạt
通鉴纪事本末, tổng cộng có 109 quyển, do của Trần
Bang Chiêm陳邦瞻 đời Minh
soạn tiếp nối theo các tác giả trước đó là Phùng Kỳ馮琦và Thẩm Việt沈越.
Sách hoàn thiện năm Vạn Lịch 22 (1604) . Kỷ
sự bản mạt là thể tài lấy sự kiện lịch sử làm đối tượng, ghi chép trọn vẹn
một sự kiện lịch sử từ đầu đến cuối. Thể tài này khắc phục được lối biên niên
phân tán và lối kỷ truyện phồn tạp.
[18]
Phùng Kỳ (1558- 1604) tự là Dụng Uẩn, hiệu Trác Am, chắt của Phùng Dụ. Tiến sĩ
năm 1577. Trải giữ các chức Biên tu, Thị giảng, Lễ bộ Hữu thị lang, …Tác phẩm
có Tông Bá tập宗伯集(81 quyển), Du
Dã Nguyên ký游冶源记, Du Thạch Môn sơn ký游石门山记, Túc quan
thường sớ肃官常疏…
Trần
Bang Chiêm (1557-1623), tự Đức Viễn, người Cao An. Tiến sĩ năm 1609. Trải giữ
các chức Nam Kinh Đại Lý tự Bình sự, Nam Kinh Lại bộ Lang trung, Chiết Giang
Tham chính, Phúc Kiến Án sát sứ,…
[19]
Ngô Nhậm Thần吴任臣, học giả
đời Thanh, nhà tàng thư lớn của thời này. Ông vốn tên Ngô Chí Doãn, hiệu Thác
Viên. Ông nội làm Phúc Kiến Bô điền tịch, sau theo cha đến Nhân Hòa (Hàng Châu,
Chiết Giang ngày nay). Năm Khang Hy thứ tám (1679) tiến cử Bác học Hồng từ
khoa, giữ chức Kiểm thảo. Thích đọc kỳ thư, thích sưu tập sách vở. Ông sưu tập
các sách vở chép việc từ đời Đường về sau thành bộ Thập quốc xuân thu十国春秋gồm
114 quyển. Tác phẩm biên soạn có Chu lễ đại
nghĩa周礼大义, Tự vị bổ 字汇补, Xuân thu chính sóc khảo biện春秋正朔考辨, Thác Viên thi văn tập托园诗文集, Sơn hải
kinh quảng chú山海经广注.
[21] Đặng
Xuân Bảng. sdd. tr.62. Nguyên bản tr.40.
[22] Keith Weller Taylor đọc
nhầm sử liệu, coi nhà Ngô chỉ còn có số quân là 500 người, và ông giải thích rằng
đây chứng tỏ sự suy yếu của nhà Ngô sau nhiều năm đi dẹp loạn. [1982: 278].
Trong khi Toàn thư ghi: 及明公卒會杜洞江吳先主子弟五百人餘率眾來攻(Khi Minh
Công mất, gặp lúc bọn con em của Ngô Tiên chúa ở Đỗ Động Giang hơn 500 người
đem quân đến đánh) [sdd. 209]
[23] Nguyễn Danh Phiệt cũng đồng
thuận với cách ghi trên của Toàn thư và
Việt sử lược để phủ định lại việc
“các thổ hào cứ tụ tập quân đánh lẫn nhau” trong Cương mục. Ông viết: “Liệu
có thể từ những điều ghi chép của Việt sử
lược và Toàn thư để chuyển dịch
sang hình thức nội chiến giữa các sứ quân như Cương mục đã chép được không? Kiểm tra qua thần tích, truyền thuyết,
cho đến nay, tuyệt nhiên chưa hề gặp một chi tiết nào nói đến chuyện đánh lẫn
nhau trong số 12 sứ quân.” Tuy rằng, ông vẫn dùng “truyền thuyết” như một cứ liệu
tối hậu để kiểm tra chính sử. Song, chúng tôi chấp nhận ông ở hai điểm: ông
dùng hai sử liệu cổ hơn để phê phán sử liệu muộn hơn; và dùng thần tích để soi
chiếu cho sử liệu. Thời điểm biên soạn, và số lần biên soạn là hai tiêu chí
quan trọng ở đây. Cứ liệu truyền thuyết chỉ nên coi là tham khảo. Chúng tôi
quan niệm, thần tích là một dạng văn bản hóa “truyền thuyết dân gian”, và các
truyền thuyết được sưu tầm điền dã, là các tư liệu có ý nghĩa cho nghiên cứu
tín ngưỡng ở góc độ nhân học; truyền
thuyết không phải là sử liệu, cho nên càng không thể dùng nó để phê phán sử liệu.
Dù vậy, trong truyền thuyết không phải là không có yếu tố sự thật. Từ truyền
thuyết truyền khẩu, từ truyền thuyết đã thần tích hóa đến sử thực là có một khoảng
cách khá xa, phải rất thận trọng để không nhầm giữa tín niệm dân gian (đối tượng
của folklore) và sử thực (đối tượng của sử học).
[24] Nguyễn Danh Phiệt đã có
những nghiên cứu chi tiết và toàn diện về quá trình Đinh Bộ Lĩnh chinh phục các
sứ quân. Cụ thể xin xem [Nguyễn Danh Phiệt 1990: tr.67-75].
[25]
Con trai cả của Ngô Xương Ngập là Ngô Chân Lưu. Ngô Chân Lưu như vậy là cháu
đích tôn của Ngô Quyền. Nhưng Ngô Chân Lưu đã xuất gia từ năm 944- khi ông nội
Ngô Quyền mất, và bố đẻ Xương Ngập bị Dương Tam Kha truy sát nhiều lần. Trong
thời gian trốn chạy tại Trà Hương thuộc Nam Sách Giang (Nam Sách, Hải Dương
ngày nay), Xương Ngập lấy con gái của ân nhân Phạm Lệnh Công và sinh ra Ngô
Xương Xí. Như vậy, Ngô Xương Xí là anh cùng cha khác mẹ với Ngô Chân Lưu. Toàn thư ghi Xương Xí “là cháu gọi Nam Tấn
Vương bằng chú” là chính xác. Ngô Chân Lưu sinh năm 933, đến năm cha ông bị
truy sát (năm 945), thì ông đã 13 tuổi. Cứ coi như Ngô Xương Xí lấy bà thứ ngay
năm này thì phải đến năm sau Ngô Xương Xí mới ra đời. Như vậy, Ngô Xương Xí kém
Ngô Chân Lưu ít nhất 14 tuổi. Tức mốc thời gian Xương Xí ra đời sớm nhất
là vào năm 946. [vấn đề mối quan hệ của hai nhân vật này xin xem thêm Trần Trọng
Dương. Khuông Việt thiền sư hay phức thể
dung hội Nho Phật. Kỷ yếu Hội thảo Phật giáo – Văn học với 1000 năm Thăng
Long – Hà Nội. Nxb Văn hóa. 2010. tr.97-109.]
[26] Việt sử lược
lại chép rằng, thời họ Ngô trị vì như sau: “Từ Tiền Ngô Vương đến Hậu Ngô Vương
gồm có 3 đời vua. Bắt đầu từ năm Mậu Tuất (năm 938- ND) và chấm dứt vào năm Ất
Sửu (năm 965- ND) cộng tất cả 28 năm thì mất.” Cách chép này đã không thấy kiểu
ghi chính thống quan phương như Đại Việt sử ký toàn thư đã nêu. Giai đoạn
965-967 được
định danh một cách ngắn gọn là “Mười hai sứ quân”. Cách duy danh như vậy, theo
chúng tôi là có vấn đề, như đã nêu.
[28] Đến như Ngô Thì Sĩ cũng vậy, trên ông chép Ngô Xương Xí là
vua. Nhưng đoạn dưới lại trượt theo cách bao biếm của nhiều sử gia trước ông mà
phê phán Ngô Xương Xí như sau: “Ngô sứ quân là con thứ của dòng họ lớn nối cơ
nghiệp đã suy của cha chú, ngôi báu mất, lòng người chia lìa, hào kiệt thừa cơ
mà nổi dậy, chia cắt huyện ấp, cắn xé lẫn nhau, thế mà [Xương Xí] đã lấy chút
đèn tàn ở xứ Bình Kiều mà dự vào hàng ngũ sứ quân” [Ngô Thì Sĩ. 1800. sdd. Tr.149]
[29] Ô Man có lẽ là quê- hoặc đất phân phong của
Ngô phó sứ. Ngô Thì Sĩ cho rằng Ngô phó sứ ở đây chính là Lã Xử Bình, ông viết:
“Thập quốc chí chép: Đinh Bộ Lĩnh và
con là Liễn đánh bại bọn Xử Bình. Ở đây chép là đánh Ngô phó sứ, ắt là Xử Bình
không còn nghi ngờ ghì nữa, mà Tiên Hoàng dẹp được 12 sứ quân, trận này là trận
cơ bản. Sử không chép rõ đấy thôi”. [Ngô Thì Sĩ. 1800. Đại Việt sử ký tiền biên. Bản
khắc triều Tây Sơn. Ngô Thì Nhậm hiệu đính. Dương Thị The, Lê Văn Bảy, Nguyễn
Thị Thảo, Phạm Thị Thoa dịch chú. Lê Duy Chưởng hiệu đính. Nxb KHXH. Hà Nội.
1997. tr.148]. Theo logic sự kiện như Toàn
thư ghi: Đỗ Cảnh Thạcvà 500 con cháu họ Ngô nhân Trần Lãm mất mà dẫn quân
tiến đánh sứ quân của ông này ở Bố Hải Khẩu. Như thế, Ngô phó sứ ở đây là phó sứ
của Trần Lãm, chứ không phải là Ngô Xử Bình- tham tá của Xương Văn. Vả lại,
Xương Văn là vua, chứ không phải Sứ quân. Như thế, đất Ô Man của Ngô phó sứ là
nằm trong lãnh địa của Trần Lãm. Có sách cho lãnh địa của Trần Lãm thời đó tên
là Trường Châu. Nếu thuyết này đúng thì Trần Lãm nguyên là Trường Châu Thứ sử của
nhà Ngô.
[30] Việt sử cương mục tiết yếu ghi không thống nhất
về hiệu của Ngô Nhật Khánh trong giai đoạn loạn sứ quân. Phần liệt kê của 12 sứ
thì ghi Ngô Nhật Khánh xưng là Ngô Lãm Công, đoạn sau khi viết về việc Nhật
Khánh xẻo má vợ, chửi nhạc phụ Đinh Tiên Hoàng rồi sang cầu viện binh Champa
thì lại ghi “trước xưng là An Vương cùng 12 sứ quân chiếm đất xưng hùng” [sdd.
Tr.66]. Theo chúng tôi, hiệu An Vương là do Đinh Bộ Lĩnh phong cho phò mã của
mình, đó là vừa úy lạo về mặt hôn nhân vừa
xoa dịu về quyền lợi và quyền lực. Xong, như ta biết, việc xoa dịu ấy chỉ có
tác dụng khi Đinh Tiên Hoàng còn sống. Mối thù “bắt nạt mẹ con ta” (chữ của Nhật
Khánh) thực chất là hàm ý mối thù dòng họ và triều đại hơn nữa là mối nợ máu
(con cháu họ Ngô đã bị giết bởi Đinh Tiên Hoàng trong trận Đỗ Động Giang).
[31] Còn một băn khoăn nữa là sau trận chiến
thắng Đỗ Động Giang của Đinh Bộ Lĩnh thì Ngô Xương Xí đã hoàn toàn biến mất khỏi
sử sách. Nguyễn Danh Phiệt đã bổ sung bằng các cứ liệu thần tích. Đây có thể
coi là giả thuyết đáng lưu ý. Song chúng tôi không nêu lại ở đây.
[32] Nguyễn Danh Phiệt đã dựa trên khá nhiều thần tích để dựng lại
quá trình chinh phục các sứ quân của Đinh Bộ Lĩnh. Những nghiên cứu ấy cho rằng
thần tích là một loại sử liệu. Tuy nhiên, văn bản học của thần tích địa phương
là một vấn đề trước nay còn bỏ ngỏ.
[33] Xem thêm Trần Trọng Dương. 2009. Khảo về
Đại Cồ Việt- nước Việt- nước Phật giáo. Tc Hán Nôm số 02/2009.tr.53-75.
[34] Tạ Chí Đại Trường tỏ ra có lý khi lý giải
như sau: “Sau khi binh lực Hoa Lư chiến thắng thì dùng phương tiện thông gia để
hy vọng kéo dài sự liên kết…” [Tạ Chí Đại Trường. 2009. Bài sử khác cho Việt Nam (Sơ thảo). Văn
Mới. USA. tr.128]
[35]
Kinh tràng do Suy Thành Thuận Hóa, Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, Đặc tiến Kiểm hiệu
Thái sư, Nam Việt Vương Đinh Khuông Liễn dựng năm 979 để cầu siêu
linh hồn Thái Tử Hạng Lang Đại Đức Đính Noa Tăng Noa có câu giải thích cho hành
động giết em như sau: “giành quan chăng nhường ghế, trước hạ thủ là hơn”(tranh
quan bất nhượng vị, tiên hạ thủ vi lương). [Xem thêm các bản dịch trong Văn bia chùa Phật đời Lý. Nxb KHXH. Hà Nội.2011;
Hà Văn Tấn. Chữ trên đá- chữ trên đồng-
minh văn và lịch sử. Nxb KHXH. Hà Nội.2002]
No comments:
Post a Comment