Zhou Jixu
Trung tâm nghiên cứu Đông Á Đại học
Pennsylvania, Philadelphia, Pennsylvania, Khoa Trung Quốc, Đại học Sichuan,
Chengdu, Sichuan Tạp chí Sino-Platonic Papers Đại học Pennsylvania. Number 175
December, 2006
Hà Văn Thùy (lược dịch)
LND: Đây là tài liệu mới nhất, trình
bày một cách hệ thống, phong phú nhiều tư liệu về văn minh tiền sử Trung Hoa,
đặc biệt quý là những chứng cứ khảo cổ học. Tác giả cũng đóng góp những nhận
định riêng của mình. Tài liệu dài 62 trang khổ A4, cỡ chữ 12. Trong 4 phần của
tài liệu, tôi bỏ qua phần II: Sự
bắt đầu của nông nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Hoa và những trang so sánh
giữa tiếng Trung Hoa cổ và ngôn ngữ Tiền Ấn- Âu.
Ở phần cuối, người dịch mạo muội có
đôi lời bình luận.
Tóm tắt :
Dự án nghiên cứu này dựa trên cách
nhìn hoàn toàn mới về tiền sử châu thổ Hoàng Hà với những nhân tố chứng tỏ
rằng: văn minh Hoàng Hà không phải là sản phẩm của sự tiến hóa độc lập mà là do
tác động của yếu tố ngoại lai tới văn hóa bản địa.
Nền nông nghiệp sớm nhất ở Trung
Quốc, như phát hiện của khảo cố học Trung Hoa, xuất hiện trước 4000 năm TCN,
trải rộng giữa lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Nhưng theo các tài liệu cổ thì sản
xuất nông nghiệp bắt đầu sớm nhất vào thời Hậu Tắc (后稷), khoảng 2100 TCN ở trung lưu Hoàng Hà. Tại sao có chênh
lệch về thời gian lớn như vậy?
Cách giải thích là: những câu chuyện
về nông nghiệp mà Hậu Tắc là đại diện đầu tiên của nông nghiệp chỉ thuộc về dân
cư của nhà nước Hoàng Đế, những người có nguồn gốc du mục. Hậu Tắc và nhân dân
của ông học hỏi việc trồng trọt từ dân bản địa sống trên lưu vực sông Hoàng Hà
và Dương Tử 5000 năm TCN, nhưng cho đến nay họ đã được hòa đồng trong lịch sử.
Các bộ lạc của Hoàng Đế chiếm giữ
trung lưu Hoàng Hà vì họ có sức mạnh, nhưng họ củng cố, mở rộng, và tiếp tục sự
cai trị của mình tại Trung Quốc bằng cách chấp nhận các nền văn hóa nông
nghiệp. Các dân tộc chiếm đất là một nhánh Tiền Ấn-Âu. Các hồ sơ lịch sử, chẳng
hạn như Thượng Thư (Shang Shu), kinh Thi (Shi Jing), Quốc Chuẩn (Zuo Zhuan -
Biên niên của các nhà nước phong kiến), và Sử ký (Shi Ji), vv… tất cả chỉ mô tả
sự hình thành và suy tàn của nhà nước Hoàng Đế.
Những nền văn minh bản địa 5.000 năm
TCN trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử bị loại trừ khỏi văn bản lịch sử truyền
thống và bởi vậy đã bị vùi lấp trong 3.000 năm. Nghiên cứu này cố gắng bộc lộ
các dữ kiện lịch sử với những bằng chứng về khảo cổ học, tài liệu cổ, và ngôn
ngữ học lịch sử.
Từ khóa:
Nguồn gốc của nông nghiệp, khảo cổ
học, tài liệu cổ, ngôn ngữ học lịch sử.
1. Hậu Tắc (khoảng 2100 TCN) là tổ
tiên của bộ lạc Chu, mà sau này đã tăng trưởng mạnh mẽ để thành lập vương triều
Chu ở Trung Quốc (1046-220 TCN?). Hậu Tắc được coi là một trong những nhà lãnh
đạo của các nhóm có thế lực trong số hậu duệ của Hoàng Đế, dựa theo các tài
liệu cổ điển Trung Hoa.
Nội dung: Tài liệu gồm 4 phần:
I. Sự bắt đầu của văn minh nông nghiệp theo bằng chứng khảo cổ học.
II. Sự bắt
đầu của nông nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Hoa.
III. Giải
thích sự khác nhau giữa phát hiện khảo cổ và tài liệu lịch sử
IV. Kết
luận
I. Sự bắt
đầu của văn minh nông nghiệp theo bằng chứng khảo cổ học.
I.1 Phác
thảo về nông nghiệp tiền sử Trung Quốc
Về ý nghĩa của nông nghiệp sản xuất
ngũ cốc đối với văn minh nhân loại, Paul C. Mangelsdorf đã nói: “Không có nền
văn minh nào xứng đáng với tên gọi đó cho tới khi phát hiện ra nông nghiệp
trồng ngũ cốc.”
Đó có thể chủ yếu là vấn đề về dinh
dưỡng... Hạt ngũ cốc, cũng như trứng và sữa, thực phẩm được thiên nhiên tạo nên
nhằm cung cấp carbohydrate, protein, mỡ, khoáng chất và vitamin .... Có lẽ mối
quan hệ giữa ngũ cốc và các nền văn minh cũng là một sản phẩm của kỷ luật mà
ngũ cốc áp đặt lên những người trồng cấy chúng. Ngũ cốc chỉ được trồng từ hạt
giống và phải được trồng và thu hoạch đúng thời vụ.
Ở đây họ quan tâm đến những giống
cây trồng khác nhau, trong đó có thời tiết lúc gieo trồng và thu hoạch, gần như
ở bất kỳ thời điểm nào trong năm... Sự phát triển của ngũ cốc luôn luôn dẫn tới
trạng thái cuộc sống định cư.... Nông nghiệp ngũ cốc cung cấp ổn định nguồn
thực phẩm, tạo điều kiện vui chơi giải trí, nuôi dưỡng nghệ thuật, thủ công và
khoa học.
Có thể nói rằng: "Một mình nông
nghiệp ngũ cốc cũng tương đương các hình thức sản xuất lương thực khác về khoản
đóng thuế, sự bồi dưỡng, khuyến khích lao động và tài khéo léo.” (“Wheat,” Scientific
American, CLXXXIX, July 1953, 50-59. Quoted in Ho 1975: 44-45, fn)
Nông nghiệp sản xuất ngũ cốc là cơ
sở cần thiết của mọi nền văn minh cổ xưa.
Trong nửa thế kỷ qua, các nhà khảo
cổ Trung Quốc đã thực hiện nhiều khám phá mới về nền văn minh tiền sử Trung
Hoa. Từ thời Đá Mới đến đầu triều đại nhà Hạ (khoảng 7000-2000 TCN), đã tìm
thấy rất nhiều di chỉ văn hóa tiền sử ở trung lưu thung lũng Hoàng Hà và trung,
hạ lưu thung lũng sông Dương Tử, chẳng hạn như văn hóa Ngưỡng Thiều (Yangshao -
仰韶, 4600-3000 TCN), văn hóa Long Sơn
(Longshan -龙山-
3000-2200 TCN) trong thung lũng Hoàng Hà; các di chỉ văn hóa Hà Mục Độ (Hemudu
5000-4000 TCN), văn hóa Liangzhu (2800-1800 TCN) tại vùng hạ luu Dương Tử. Các
di chỉ này cho thấy thung lũng Hoàng Hà và Dương Tử là một trong những khu vực
đầu tiên trên thế giới xuất hiện văn minh nông nghiệp.
Đáng ngạc nhiên là nhiều nơi trong
số những địa điểm này đã có nông nghiệp rất phát triển lâu dài trước thời điểm
hình thành nông nghiệp (khoảng 2100 TCN) được đề cập nhiều lần trong một số
sách cổ Trung Hoa. Có một sự khác biệt lớn về thời gian (cũng như địa điểm)
giữa những khám phá khảo cổ học và ghi chép của tài liệu cổ. Văn minh nông
nghiệp Trung Quốc cổ có thể được chia làm hai khu vực: trung lưu Hoàng Hà và
trung lưu, hạ luu sông Dương Tử. Đã có những ngũ cốc khác nhau được trồng ở hai
khu vực: cây kê ở vùng trước còn lúa gạo ở vùng sau. Vài di tích lúa được phát
hiện tại các di chỉ của văn minh Yangshao trong thung lũng Hoàng Hà. Theo Zhou
Jixu: “The Rise of the Agricultural Civilization in China,” Sino-Platonic
Papers, 175 (December, 2006)2 (sau đây viết tắc là sđd), cây kê thuộc hai
giống khác nhau là Setaria và Panicum. Phổ biến là loài Setaria italica đại
diện của giống Setaria, được đặt tên bằng tiếng Hoa: su (粟). Sau đó là hai loài phụ của P. miliaceum, được gọi bằng
tiếng Hoa là Shu (黍)
và ji (稷) (Hồ 1975: 57). Lúa ở Trung Quốc
thuộc hai loài phụ là Oryza sativa japonica, có dạng hạt tròn gọi là 粳稻, và O. sativa indica, là dạng "nhiệt đới" chín
sớm với gạo hạt dài, gọi là 籼稻
(Hồ 1975: 62). Chúng ta sẽ xem xét các nguồn gốc của cây kê và lúa gạo sản xuất
tại Trung Quốc, dựa trên những nghiên cứu của các học giả và các tài liệu khảo
cổ trong những thập kỷ gần đây.
I.2 Thời điểm trồng kê
Giáo sư Ho Ping-Ti trong công trình
“Cái nôi phương Đông” viết: “Trong thế giới cũ, lĩnh vực nông nghiệp đầu tiên
xuất hiện ở tây nam Châu Á, trên những dải đồi vùng Lưỡi liềm phì nhiêu, khoảng
7000 TCN. Một số địa điểm xuất hiện sau 5000 BC. Nông nghiệp thâm canh hơn nhờ
tưới nước xuất hiện ở đồng bằng sông Tigris và Euphrates.
Việc sản xuất nông nghiệp của Ai Cập
cổ xưa và các thung lũng sông Indus cũng tùy thuộc vào lũ lụt và thuỷ lợi. Tuy
nhiên, trong số các đặc điểm chính của hệ thống nông nghiệp sớm nhất Trung
Quốc, nó đã được tự do từ các ảnh hưởng của lũ lụt lớn của vùng đồng trũng sông
Hoàng Hà, và như là một hệ quả, diễn ra thiếu sự tưới nước nguyên thủy.” (Ho
1977: 44).
Trong công trình của mình, ông đã
chứng minh rằng các trung tâm Đá Mới ở Bắc Trung Quốc, ngoài Mesopotamia và
Trung Mỹ, là một khu vực, trong đó nông nghiệp độc lập phát triển. Vùng văn hóa
Đá Mới trung luu Hoàng Hà là một trong ba trung tâm văn minh nông nghiệp sớm
nhất trên thế giới.
"Đây là lĩnh vực sản xuất nông
nghiệp dựa trên các hạt ngũ cốc đã đạt tới văn minh đầu tiên trong cả thế giới
cũ và mới" (Hồ 1977: 40).
Sau đây là tóm tắt các chứng cứ
chính của GS Hồ trong công trình dầy 440 trang. Những trích dẫn từ Cái nôi
phương Đông. (Ho 1977).
Chúng ta biết rằng không có vấn đề
là Setaria italica đã được phát triển rộng rãi trong các cao nguyên hoàng thổ
thuộc thời kỳ Yangshao. Bằng chứng khảo cổ quan trọng nhất là di chỉ điển hình
của văn hóa Yangshao tại Bán Pha (Pan-po 半坡), những chum vại đầy vỏ S. italica đã được tìm thấy trong
các kho. Số lượng hạt kê dự trữ, cùng với sự giàu có của nông nghiệp và sự bố
trí phức tạp của các làng mạc được thành lập ngoài sự nghi ngờ rằng Setaria
italica đã được trồng và thu hoạch bởi những người đàn ông (trang 57).
Bán Pha là giai đoạn cực kỳ quan
trọng cho sự hiểu biết về các nền văn minh khởi thủy của Trung Quốc vì nó được
gọi là giai đoạn sớm nhất của lĩnh vực sản xuất nông nghiệp chủ yếu dựa trên
cây kê, thuần hóa vật nuôi chủ yếu trên con lợn, bố trí cộng đồng làng với
những nghĩa địa kiểu mẫu, sơn gốm, những ký tự và con số nguyên bản Trung Quốc.
Zhou Jixu, (sđd. 3) dẫn một loạt 4
dữ liệu radiocarbon cho thấy di chỉ này tồn tại gần như liên tục trong sáu trăm
năm thuộc thiên niên kỷ thứ năm trước Công nguyên (trang 16) .3
Bảng I: Một số niên đại C14
trong văn minh tiền sử Trung Hoa
2. Banpo, Sian Yangshao: 4115±110
B.C ; 4865±110 B.C.
4. Banpo, Sian Yangshao: 3955±105 B.C
; 4555±105 B.C.
5. Banpo, Sian Yangshao: 3890±105
B.C ; 4490±105 B.C.
6. Banpo, Sian Yangshao: 3635±105
B.C ; 4235±105 B.C.
7. Hougang 后岗Anyang 安阳 Henan
Yangshao: 3535±105 B.C ; 4135±105
B.C.
GS Hồ chỉ ra rằng Setaria và Panicum
millets là những cây bản xứ (trong những vùng đất cao hoàng thổ của Trung
Quốc), theo bằng chứng từ những tài liệu cổ, những cây kê mọc hoang còn tồn tại
tới hôm nay ở vùng hoàng thổ, cùng lịch sử lâu dài việc trồng trọt chúng.
GS Hồ cũng thảo luận về chủng tộc và
nguồn gốc địa lý của người Yangshao. Ông kết luận rằng người Yangshao đến từ
miền Nam Trung Quốc, bằng cách sử dụng các bằng chứng về địa lý, môi trường, cổ
nhân học, những đồ vật tiêu biểu và văn hóa. Dưới đây là những tóm tắt của ông.
1. Các bằng chứng về thổ nhưỡng và
thực vật học: những lớp phủ băng lục địa chưa bao giờ bao trùm toàn bộ Trung
Quốc trong thời Pleistocene. Trong nhiều địa phương ở miền Bắc và miền Nam
Trung Quốc, các loại đất phát triển từ Cretaceous (120 triệu đến 60 triệu năm
trước), và tertiary (60 triệu đến 1 triệu năm trước).
Sự tồn tại của các loại đất là căn
cứ cho rằng chúng hình thành từ lâu trước thời đại Băng hà. "Sự
phong phú khác thường của hệ cây gỗ Đông Á vượt quá số lượng giống loài tại tất
cả các phần còn lại của khu vực phía Bắc... Sự phong phú của hệ thực vật Đông
Á, đặc biệt là Trung Quốc, là do tính đa dạng lớn của nó về mặt địa hình, khí
hậu và các điều kiện sinh thái. Về mặt lịch sử, do không có sự đóng băng rộng
lớn trong thời gian Pleistocene cho phép sự bảo tồn một số lớn giống trước đây
phân tán rộng nhưng sau đó biến mất trong những phần khác của thế giới."4
Biloba Ginko và Metasequoia5 là những thí dụ nổi tiếng nhất của những "hóa
thạch sống" làm chứng cho sự thiếu vắng những lớp phủ băng lục địa ở Trung
Quốc. Bởi vậy trong thời gian băng giá cuối cùng, những vùng đất thấp phía nam
Trung Quốc có khả năng thích hợp hơn với người tiền sử so với người phía bắc
Trung Quốc, trong điều kiện khí hậu và tài nguyên thiên nhiên cho sự tồn tại
của con người.
2. Bằng chứng từ cổ nhân học: như
khi so sánh với những nhóm người Mông Cổ khác, người Yangshao mang đặc tính cơ
thể gần nhất với người Trung Hoa hiện đại ở miền nam Trung quốc và người Đông
Dương hiện đại. Gần gũi tiếp theo của họ là với người Trung Hoa hiện đại ở Bắc
Trung quốc. Họ có những đặc trưng thể chất khác biệt rõ ràng với người Eskimos
của Alaska, Tungus của Manchuria, người Tây Tạng, và người Mongoloid vùng hồ
Baikal.
Theo thuật ngữ nhân chủng học
Xô-viết được chấp nhận bởi trường phái lục địa Trung Hoa, người Yangshao Trung
Quốc được phân loại theo "chi nhánh Thái Bình Dương của chủng
Mongoloid" hoặc "chủng Mongoloid phương Nam," và như vậy là phân
biệt với các proto-Tungus của Manchuria, những người được xếp vào chủng
"Mongoloid phương Bắc" (Ho 1975: 38).
3. Bằng chứng của những đồ vật đặc
trưng cho văn hóa Yangshao. "Đặc tính nổi bật nhất của những đồ vật đá
thuộc văn hóa Yangshao, ngoài tính độc đáo hình học của chúng, là sự thịnh hành
những công cụ mài bóng. Người dân của nền văn hóa này đã không biết kỹ thuật
tạo vẩy và sửa rìa (flaking & chipping).
/
Trong việc sản xuất rìu, mũi mác,
mũi tên, những cái cày, liềm và dùi đục lỗ, họ sử dụng phương pháp mài. Điều
này thể hiện những truyền thống văn hóa đặc biệt và cội nguồn của văn hóa
Yangshao, không liên quan đến phía bắc, nơi kỹ thuật ghè đẽo thịnh hành, mà tới
phía nam và vùng biển phía Đông Trung quốc ".6
4. Bằng chứng của chuỗi văn hóa:
Những nhà khảo cổ Hoa lục xác minh giai đoạn sớm nhất của văn hóa Yangshao gần
gũi với những công cụ của di chỉ Lijiachun trong hạt Xixiang, di chỉ Shensi ở
phía nam núi Qinling. Ở Lijiachun, nhiều đồ gốm có hình dạng tương tự với một
vài địa điểm của Yangshao, tuy nhiên có hai khác biệt quan trọng: sự thịnh hành
của đồ gốm cordmarke và sự vắng đồ gốm sơn.7
Dọc theo bờ biển Thái Bình Dương
phía Đông và Đông Nam Á, trong nhiều vùng nửa phía nam Trung Quốc, đồ gốm sớm
nhất và ổn định là cordmarke, và từ Li-chia-ts’un phía nam Qinling và trên sông
Hán Giang nối Shensi với trung lưu sông Dương Tử, một sắc thái miền nam của di
chỉ văn hóa Yangshao là điều không thể nghi ngờ (Ho 1975: 39-40).
Giáo sư Hồ kết luận : “Trong viễn
cảnh tầm xa, nền tảng của hệ thống nông nghiệp bền vững nhất thế giới, một hệ
thống quá rộng lớn để làm nên đặc tính vững bền của văn minh Trung Hoa, được
đặt vào vùng hạt nhân Yangshao trong thời kỳ đồ Đá Mới”(Ho 1975: 48).
Có hay không việc văn hóa Đá Mới
Yangshao hình thành và phát triển độc lập, vẫn còn là điều tranh luận (Zhang
2004). Nhưng bằng chứng được trích ở trên đủ chứng tỏ môt thực tại lịch sử: một
văn minh nông nghiệp trưởng thành đã tồn tại trong thung lũng sông Hoàng Hà.
I.3 Thời điểm xuất hiện việc trồng
lúa.
Một khu vực hạt nhân khác của văn
minh nông nghiệp sớm nhất ở Trung Quốc đã được hình thành tại lưu vực sông
Dương Tử. Khoảng 7000-5000 năm TCN, đã có nền nông nghiệp trồng lúa trưởng
thành ở trung và hạ lưu sông Dương Tử. Những nhà khảo cổ học Trung Hoa đã đạt
được những thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này từ những năm 1950.
Có một lời giải chung cho câu hỏi
này trong tài liệu của giáo sư Zhu Naicheng "Tổng quan về nông nghiệp
trồng lúa tiền sử Trung Quốc" (Zhu 2005). Sau đây trình bày những phác
thảo của bài viết.
Nguồn gốc của nghề trồng lúa ở Trung
Quốc được hình thành khoảng 10.000 BC, theo khảo cổ tiền sử Trung Quốc và kết
quả phân tích các mẫu thực vật cổ. Theo bài báo của Zhu, có bốn giai đoạn phát
triển của nghề trồng lúa thời tiền sử Trung Quốc.
1. Khởi nguồn (khoảng 10.000 TCN).
Hai di chỉ là Hang Xianren trong hạt
Vạn Niên (Wannian), tỉnh Giang Tây (Jiangxi), và Dốc Đứng (Yuchan) trong hạt
Dao tỉnh Hồ Nam (Hunan), là một phần của đồng bằng sông Dương Tử, và khí hậu
trong khu vực cận nhiệt đới nam Trung Hoa. Về mặt địa lý, chúng ở trung tâm của
nam Trung Quốc, phía nam Qinling (秦岭) và phía nam sông Hoài .
2. Giai đoạn trưởng thành (7000-5000
BC?)
Những vết tích văn hóa chính đến từ
văn hóa Pengtoushan (彭头山),
văn hóa Giả Hồ (Jiahu) thuộc kiểu văn hóa Peiligang và địa điểm Shangshan (上山) trong hạt Pujiang thuộc thung lũng
sông Qian-tang. Những địa điểm văn hóa Pengtoushan được định vị trong miền đồng
bằng xung quanh Hồ Động Đình (Dongting) và khu vực dọc theo sông Dương Tử phía
tây tỉnh Hồ Bắc (Hubei).
Niên đại những địa điểm này vào
khoảng 6500-5500 TCN. Nhiều vết tích của lúa trồng được phát hiện tại đây, cung
cấp bằng chứng quan trọng về việc gia tăng canh tác lúa. Những di chỉ kiểu Giả
Hồ của văn hóa Peiligang phân tán trong đồng bằng trung và đông tỉnh Hà Nam
(Henan), có niên đại 6800-5500 BC. Những vết tích sự trồng trọt lúa cũng được
tìm thấy tại địa điểm Giả Hồ (Jiahu) ở hạt Vũ Dương (Wuyang 舞阳)- 3.
Những công cụ được khai quật ở đây
chủ yếu là sa thạch, phần nhiều trong số đó được làm bởi phương pháp mài nhẵn.
Những công cụ đó có thể được xác định là cái mai đá, cái liềm, con dao, đá cối
xay, cái gậy đá cối xay, cái mai xương… vân vân. Dấu hiệu quan trọng của sự
phát triển nông nghiệp đầu tiên là những công cụ đá mài bóng đó. Tại địa điểm
Thượng Sơn (Shangshan上山)
trong hạt Pujiang (浦江)
thuộc lòng chảo trung tâm tỉnh Chiết Giang (Zhejiang), những vết tích trồng lúa
có thể xưa tới khoảng 7000 TCN. Có nhiều dấu in của vỏ trấu trên những mẩu đồ
gốm đào được. Đất làm gốm được trộn đều với một số lớn vỏ trấu, chứng tỏ vết
tích của việc trồng lúa.
Niên đại Carbon-14, được thực hiện
bởi các chuyên gia tại Trường Cao đẳng Nghệ thuật và Khoa học Đại học Bắc Kinh,
Zhou Jixu, (sđd.6) cho thấy rằng các mảnh gốm với vỏ trấu được định tuổi đến
9000-11000 năm cách nay 8. Những công cụ khai quật được là đá cối xay, gậy đá
cối xay, những quả bóng đá, những cái đục, rìu, và những rìu lưỡi vòm. Đồ gốm
bao gồm lọ, bình, chảo cũng như những mảnh với chân tròn, được tìm thấy sớm
nhất ở Trung Quốc cho đến lúc này.
3. Thời kỳ phát triển (5000-3000 TCN)
Văn hóa lúa nước đã được mở rộng đến
trung, hạ luu sông Dương Tử, các đồng bằng sông Ganjiang (赣江), sông Minjiang (闽江), sông Chu (Zhujiang 珠江), và một phần của khu vực trung và hạ lưu sông Hoàng Hà
trong khoảng thời gian 5000-3000 TCN.
Đáng kể là việc trồng lúa vẫn còn
được phát hiện tại hạ lưu sông Dương Tử, chẳng hạn như trong văn hóa Hà Mục Độ
(Hemudu河姆渡), Majiapang (马家浜) và Songzhe (嵩泽), và cũng có thể ở trung lưu sông
Dương Tử, chẳng hạn như văn hóa Tangjiagang (汤家岗), Daxi (大溪)
và Longqiuzhuang (龙虬庄)
trong các khu vực phía Đông của sông Hoài.
Khu vực trồng lúa đã vươn tới trên
35 ° vĩ độ bắc trong khu vực trung và hạ lưu Hoàng Hà.
Chúng ta có thể thấy văn hóa đặc trưng của thời kỳ này tại di chỉ Hemudu, khoảng 5000 TCN. Hiện có số lượng lớn hạt lúa bị các bon hóa với hình dạng đầy đủ và thậm chí cả với các sợi râu, thêm vào đó vô số những công cụ nông nghiệp được khai quật, bao gồm cái mai xương, cái chày gỗ, đá cối xay, quả bóng đá, vân vân…
Chúng ta có thể thấy văn hóa đặc trưng của thời kỳ này tại di chỉ Hemudu, khoảng 5000 TCN. Hiện có số lượng lớn hạt lúa bị các bon hóa với hình dạng đầy đủ và thậm chí cả với các sợi râu, thêm vào đó vô số những công cụ nông nghiệp được khai quật, bao gồm cái mai xương, cái chày gỗ, đá cối xay, quả bóng đá, vân vân…
Số lượng những cái mai bằng xương
vượt quá 170 chiếc. Những mảnh gốm dùng để nấu cơm mang vết tích các bon hóa
được khám phá. Gốm được khai quật chủ yếu là gốm đen do pha trộn than, với
những kiểu dáng như cái bình, cái bát, đĩa, tách đứng, chảo, he盉 (dụng cụ để uống), đỉnh (ding鼎, cái chảo lớn ba chân), cái đài,
vân vân… Có thể được phân loại vào trong ba nhóm: đồ đun nấu, đồ dùng để uống,
và cất giữ sản phẩm.
Cũng khai quật được các dụng cụ săn
bắn và câu cá, chẳng hạn như còi bằng xương, mũi tên xương, đạn đá, và rất
nhiều trái cây, chẳng hạn như chà là đen, quả sồi, Gordon euryale và hạt dẻ
nước… những hiện vật đó cho thấy rằng săn bắn, câu cá, và thu lượm vẫn còn là
một phần trong đời sống của người dân Hemudu. Nhiều công cụ dùng để xe chỉ và
dệt được khám phá tại chỗ, đã chứng tỏ kỹ thuật dệt phát triển trong thời kỳ
đó.
Những căn nhà của người Hemudu được
xây dựng trên sàn gỗ để nâng cao trên đất phòng lũ lụt, và nhà được làm bằng
gỗ. Việc xây dựng kiểu Hemudu là không bình thường trong thời ký Đá Mới ở Trung
Quốc. Di chỉ Hemudu đã được công nhận là một trong những địa điểm khảo cổ quan
trọng nhất ở Trung Quốc, và chữ "Hemudu" là tên được sử dụng để gọi
tất cả các địa điểm thuộc cùng một loại hình văn hóa.
4. Giai đoạn hoàn tất sự phát triển
(3000-2000 TCN)
Phạm vi của văn hóa lúa nước nguyên
thủy đã thành thục gần như trùng với địa bàn của nghề trồng lúa phát triển.
Những di tích phong phú nhất của nghề trồng lúa được khám phá ở văn hóa
Liangzhu, Qujialing (屈家岭),
Shijiahe (石家河),
và Fanchengdui (樊城堆)
ở trung và hạ lưu sông Dương Tử.
Cả lúa lẫn kê đều đã được gieo trồng
trong khu vực giữa sông Hoàng Hà và sông Hoài. Tiên tiến nhất là văn hóa
Liangzhu. Có rất nhiều công cụ trồng trọt khác nhau trong văn hóa Liangzhu.
Những công cụ đá được khai quật 8. theo dữ liệu tại di chỉ Shangshan có thể
được xếp loại thuộc thời kỳ trước đó, được mô tả trong mục "nguồn
gốc".
Zhou Jixu, (sđd.7): cái cày, shi (耜 một loại mai), cái mai, cái cuốc,
và cái liềm vân vân… đã được chế tác đẹp đẽ. Những công cụ cho thấy kỹ thuật
trồng trọt cao hơn so với thời kỳ trước đó. Sự nuôi dưỡng gia súc phát triển rõ
rệt. Những nghề thủ công nguyên sơ bắt đầu thuần thục.
Việc sản xuất đồ gốm, chế tạo ngọc
bích, sơn mài, dệt, chế tạo vật dụng bằng tre và gỗ, việc chạm khắc ngà, ghề
khảm… tất cả các hàng thủ công này phát triển chưa từng có trước đây. Tất cả
những sự khéo léo như vậy trước đó chưa hề có. Sự sản xuất những vật bằng ngọc
bích đặc biệt đáng chú ý trong thời kỳ này. Đấy là nhận xét của giáo sư Zhu
trong bài báo kể trên.
Khi thảo luận về cái nôi của văn
minh lúa nước trong công trình Cái nôi phương Đông của mình, giáo sư Hồ cũng
nói: "Trong bất kỳ trường hợp nào, sự kết hợp giữa khảo cổ học và tư liệu
lịch sử của chúng tôi cho thấy vẻ hợp lý khi cho rằng Trung Quốc như là một trong
những quê hương gốc của cây lúa và có lẽ là khu vực đầu tiên trên thế giới, nơi
lúa đã được trồng"(Hồ 1975: 70-71).
Dưới đây là những tư liệu Carbon-14
tại ba di chỉ trồng lúa (Hồ 1975: 16-17).9
8. Songze (松泽) Qingpu (青浦) Shanghai, Qingliangang (青莲岗)
3395±105 B.C ; 3395±105 B.C.
10. Qianshanyang (钱山漾) Wuxing (吴兴) Zhejiang, Liangzhu
2750±105 B.C. ; 3300±105 B.C.
14. Huanglianshu (黄楝树) Xichuan (淅川) Henan Qujialing (屈家岭)
2270±95 B.C. ; 2720±95 B.C.
Niên đại C-14 của di chỉ Hemudu là
7000 năm cách nay; của di chỉ Shangshan ở hạt Pujiang là 9000-11.000 năm, theo
bài báo của giáo sư Zhu. Sự trồng trọt lúa gạo đẩy mạnh văn minh xã hội Trung
Hoa cổ. Giáo sư Zhu tổng kết điều này như sau:
Nông nghiệp lúa nước đã thống trị
kinh tế xã hội trong thời kỳ văn hóa Songze (嵩泽) ở vùng hạ lưu sông Dương Tử sau
4000 TCN. Số lượng và chủng loại xương động vật và công cụ săn bắn được khai
quật từ các di chỉ đã được giảm rõ rệt trong thời kỳ văn hóa Songze. Điều này
cho thấy phương thức kinh tế săn bắn và hái lượm giảm thiểu, việc sản xuất
lương thực, chủ yếu là gạo, rõ ràng bùng nổ.
Những xương hàm dưới của heo nhà
được sử dụng trong đám ma cho thấy việc chăn nuôi gia súc có tiến triển. Sự
hình thành ngành trồng lúa nước với tư cách nông nghiệp cơ bản thành thục trong
thời kỳ văn hóa Liangzhu tại hạ và trung lưu sông Dương Tử. Zhou Jixu, (sđd.
8): bằng chứng chính là sự xuất hiện của toàn bộ các công cụ canh tác cần thiết
cho việc cày cấy, nuôi trồng, và thu hoạch. Việc ủ rượu xuất hiện, sự sinh sản
gia súc được tăng cường, và tỉ lệ gia súc được dùng làm thịt gia tăng. Những
nghề thủ công trở nên phát đạt. Những trung tâm định cư được khám phá tại di
chỉ Mojiaoshan (莫角山),
cho thấy sự gia tăng nhân số. Bàn thờ và mộ được xây dựng trong di chỉ Yaoshan
(瑶山) và Fanshan (反山). Những hiện tượng này đánh dấu xã hội Trung Hoa đã bước
vào nền văn minh dẫn tới những "vương quốc cổ " khoảng 3000-2800 TCN.
Tỷ lệ lúa gạo trồng với tư cách là
nông nghiệp chính, từng bước tăng thêm trong thời kỳ văn hóa Daxi (大溪) tại vùng trung lưu sông Dương Tử. Những chum vại gốm lớn
có thể đã được sử dụng để dự trữ hạt cho thấy sản xuất lương thực đã tăng. Số
lượng các làng xóm nhiều thêm, trung tâm định cư cùng với những tường lũy bao
quanh được thiết lập vào khoảng 4000 TCN.
Từ các công bố trên, chúng ta có thể
thấy, đặc điểm nổi bật của văn minh nông nghiệp là, những trung tâm định cư,
kèm theo đô thị với thành lũy bao quanh, phát triển gốm sứ, và các địa điểm tôn
giáo lớn, hình thành khoảng 4000-3000 năm TCN. Nhiều vùng của sông Dương Tử và
Hoàng Hà đã tiến tới một nền văn minh nông nghiệp trưởng thành, chậm nhất là
vào khoảng 4000 năm TCN.
Những người sống ở lưu vực sông
Dương Tử, và văn hóa lúa nước từ đâu tới? Sử dụng bằng chứng từ cổ nhân học và
di truyền học người, nhiều nhà nhân chủng học và di truyền học chỉ ra những đặc
trưng cơ thể của những người cổ sống trong vùng nam sông Dương Tử có mối quan
hệ chặt chẽ với nhóm Nam Á và phân biết rõ ràng với những người sống ở khu vực
phía bắc sông Dương Tử. Các dữ kiện cho thấy những người cổ xưa sống ở đồng
bằng sông Dương Tử đã từ miền nam châu Á tới. Ngoài ra, bốn mẩu bằng chứng
thường hỗ trợ nguồn miền nam của người Yangshao của G.S Hồ (xem ở trên) cũng có
thể được áp dụng ở đây.
II. Sự khởi đầu của văn minh nông
nghiệp theo tài liệu lịch sử Trung Quốc.
II.1 Cách tính thời gian lịch
sử
Để tính toán các thời đại lịch sử
trên cơ sở các sự kiện được ghi trong tài liệu cổ, nghiên cứu này dựa vào hai
nguồn: Một là các dữ liệu từ "Dự án Xác định niên đại các triều Hạ,
Thương, Chu" do Viện lịch sử thuộc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc thực
hiện.
Theo đó, các thời biểu của 3 triều
đại sớm nhất của Trung Quốc cổ là: Hạ 2070-1600 TCN, Thương 1600-1046 TCN, Chu
1046-221 TCN. Các nguồn khác là phả hệ của những vua cổ xưa trên lưu vực Hoàng
Hà trước thời Hạ, như ghi nhận của Wudi Benji "Những biên niên cơ bản của
Ngũ Đế trong Sử ký của Tư Mã Thiên.” (Sđd9)
Theo quan điểm của Tư Mã Thiên, khó
mà biết về thời gian sớm hơn Ngũ Đế, nhưng thời kỳ từ Ngũ Đế về sau có thể được
xác định.10 Trình tự tính theo "Những biên niên cơ bản của Ngũ Đế"
trước nhà Hạ như sau: (sáu người cai trị trong chín thế hệ)
Phả hệ của các Hoàng Đế (theo Sử
ký).
(phần này không dịch)
II.2 Sự Bắt đầu của lĩnh vực nông nghiệp như được ghi trong những tài liệu cổ điển Trung hoa.
Những văn minh tiền sử thuộc triều
đại Hạ, Thương, Chu xuất hiện trong thung lũng Hoàng Hà, đặc biệt là văn minh
của triều đại Chu, không nghi ngờ là dựa vào nông nghiệp ngũ cốc. Sự giàu có dư
thừa cung cấp bởi sản xuất nông nghiệp tạo cho dân tộc Trung Hoa một sự tiến bộ
lớn trong phát triển văn hóa.
Tại sao bộ lạc Chu có thể lớn lên
nhiều hơn những bộ lạc khác và để trở nên người cai trị vùng Hoàng Hà và sau đó
là Dương Tử? Quyết định quan trọng nhất trong sự tiến bộ khác nhau của họ là bỏ
cuộc sống du cư, chọn và dính chặt vào cuộc sống nông nghiệp.
III. Giải thích sự chênh lệch giữa
khám phá khảo cổ và các tài liệu lịch sử
Như thảo luận trong phần đầu của nghiên cứu này, sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp trong các thung lũng sông Hoàng Hà đã diễn ra 5000 TCN hoặc sớm hơn. Các tài liệu khảo cổ cho thấy việc trồng kê là rất quan trọng trong khu vực Hoàng Hà 5000 TCN. Việc trồng lúa ở trung lưu sông Dương Tử đã được hình thành rất sớm. Sự trưởng thành của nghề trồng lúa theo thời gian có bằng chứng tại di chỉ Jiahu, tỉnh Hà Nam 6800 TCN, tại di chỉ Hemudu tỉnh Chiết Giang 5000 TCN. Tại sao sự khởi đầu về sản xuất nông nghiệp tại thung lũng Hoàng Hà nêu trong các tài liệu cổ lại muộn hơn nhiều, vào khoảng 2100 TCN?
Như thảo luận trong phần đầu của nghiên cứu này, sự phát triển của nền văn minh nông nghiệp trong các thung lũng sông Hoàng Hà đã diễn ra 5000 TCN hoặc sớm hơn. Các tài liệu khảo cổ cho thấy việc trồng kê là rất quan trọng trong khu vực Hoàng Hà 5000 TCN. Việc trồng lúa ở trung lưu sông Dương Tử đã được hình thành rất sớm. Sự trưởng thành của nghề trồng lúa theo thời gian có bằng chứng tại di chỉ Jiahu, tỉnh Hà Nam 6800 TCN, tại di chỉ Hemudu tỉnh Chiết Giang 5000 TCN. Tại sao sự khởi đầu về sản xuất nông nghiệp tại thung lũng Hoàng Hà nêu trong các tài liệu cổ lại muộn hơn nhiều, vào khoảng 2100 TCN?
Làm thế nào giải thích khoảng cách
3000 năm đó?
Câu trả lời là người dân Chu, những
hậu duệ của Hoàng Đế, không phải là những người bản dịa sống trên khu vực hoàng
thổ Hoàng Hà. Nông nghiệp thời Chu đã được hình thành trên cơ sở tiếp thu nền
nông nghiệp truyền thống đã được sáng tạo bởi những người đã sống trong lưu vực
Hoàng Hà và Dương Tử từ xa xưa. Lối sống nông nghiệp của người Chu là kết quả
của việc học hỏi từ những người khác. Các bộ lạc của Hoàng Đế (trong đó có bộ
lạc Chu) là những cư dân du mục. Khi di cư vào khu vực Hoàng Hà, họ đã chịu ảnh
hưởng của lối sông nông nghiệp tiên tiến của người dân bản địa, mặc dù đó là
một bước tiến dài từ du mục để chuyển sang lối sống mới. Những thay đổi triệt
để từ du mục sang trồng trọt đã thay đổi cuộc sống xã hội Chu.
Khoảng 2300 TCN, quốc gia của Hoàng
Đế đã chiến thắng và thống trị các khu vực của sông Hoàng Hà. Đây còn là thời
gian sớm nhất mà truyền thuyết, lịch sử Trung Quốc trong các tài liệu cổ xưa
ghi lại. Vì vậy, theo các tài liệu sớm nhất ghi lại những thành quả này, Hoàng
Đế và các quốc gia hậu thế của ông giữ vai trò hàng đầu.
Từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký,
tất cả các sách cổ điển đã chính thống hóa Hoàng Đế cùng con cháu ông, trong
khi loại trừ các dân tộc khác. Vì vậy, trong các tài liệu cổ xưa, chúng ta chỉ
có thể thấy, sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc bắt đầu khoảng 2100 TCN, dưới
thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, những nhà lãnh đạo tuyệt vời của quốc gia của Hoàng
Đế. Lĩnh vực nông nghiệp được nói đến bắt đầu vào thời Chu. Sự khởi đầu của
nông nghiệp bản địa trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử vì vậy bị loại khỏi lịch
sử thành văn.
Không giống như các dân cư Ngưỡng
Thiều và Hà Mục Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng
Đế đến từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh
phục người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn
hóa nông nghiệp phát triển.
Bằng cách kết hợp văn hóa riêng của
họ với các yếu tố văn hoá của người bản địa, dân cư của Hoàng Đế từng bước phát
triển một nền văn minh rực rỡ mới vào thời Hạ, Thương và Chu. Họ thay thế người
dân bản địa nắm giữ vai trò lãnh đạo trên các giai đoạn lịch sử Trung Quốc. Cho
rằng dân cư của Hoàng Đế là một chi nhánh của người Ấn –Âu cổ, là một trong
những sự kiện đáng kể nhất nay được biết tới trong lịch sử nhân loại.
Một số lượng lớn từ Ấn-Âu trong ngôn
ngữ Trung Hoa cổ rõ ràng xác nhận thực tế này. Các di tích còn lại của thời
Hoàng Đế có liên quan đến các văn hóa Long Sơn trong bằng chứng khảo cổ học và
các nền văn minh của Hạ, Thương, Chu, Qin (秦) là các triều đại kế nghiệp của nó.27
Bằng chứng cho tuyên bố này đến từ
hai nguồn: đầu tiên sử dụng các bằng chứng về các tài liệu cổ xưa để chứng minh
rằng người dân Chu, và là dân cư của Hoàng Đế, đã được khởi đầu từ người du
mục, và thứ hai là đã có một số lớn từ Ấn-Âu trong ngôn ngữ thời Chu, dựa
theo các bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử. Thứ ba là sự tương đồng về tôn giáo
giữa dân cư Hoàng Đế và người Tiền Ấn-Âu.
IV. Kết luận.
Văn minh Trung Hoa không nảy sinh
một cách cô lập trong thời cổ. Các nền văn minh lâu đời nhất trên thế giới, bao
gồm Ai Cập, Hy Lạp, Ấn Độ, và Anatolian đã không phát triển một cách tách biệt
khỏi những văn minh khác. Đó là quy luật chung trong lịch sử con người mà những
văn minh khác nhau được phân cực, hỗn hợp, và ảnh hưởng lẫn nhau.
Bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử,
khảo cổ cho thấy, văn minh Biển Aege và văn minh Hy Lạp, văn minh Thung lũng
Indus và văn minh Ấn Độ cổ, văn minh Hattic và văn minh Hittite đã là những cặp
mà cái sau chiến thắng cái trước để tạo dựng văn minh mới của mình. Cũng nên
ghi nhận rằng, những kẻ xâm chiếm này đều là người Ấn-Âu tiền sử (khoảng
2000-1200 BC). Cũng như vậy, văn minh Trung Quốc đã trải qua những xung đột văn
hóa trong thời cổ xưa. Những người Châu Âu từ thảo nguyên phía tây Trung Á đã
mang những thành phần văn hóa mới đến thung lũng Hoàng Hà khoảng 2300 TCN. Họ
đã kết hợp kỹ thuật tiên tiến của mình, như luyện kim đồng đỏ, những công cụ
kim loại, vũ khí, xe ngựa và thuần hóa ngựa, với văn hóa nông nghiệp phát triển
bản địa trong lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử. Sự phối hợp này tạo nên văn minh
lộng lẫy của thời Hạ, Thương, Chu. Trái với quan điểm đại chúng cho rằng, "văn
minh Hoàng Hà có lịch sử độc lập” nó thực sự là sự hòa hợp.
Ý tưởng rằng nền văn minh Trung Hoa
có một lịch sử độc lập đã rất phổ biến, do ảnh hưởng mạnh mẽ, đặc biệt của hệ
thống chữ viết Trung Hoa, đã được sử dụng từ triều Thương (1600 TCN) cho tới hôm
nay. Các ký tự Trung Quốc với tự dạng đặc biệt đã phủ tấm màn gây khó cho việc
tìm ra mối quan hệ giữa tiếng Trung Hoa cổ và những ngôn ngữ cổ khác.
Những ký tự vuông cổ xưa dễ khiến
người ta có ảo tưởng lầm lẫn rằng ngôn ngữ cổ Trung Hoa ổn định và không thay
đổi như là hình vuông. Nếu đúng như vậy, thì chúng ta làm thế nào có thể hiểu
được thứ ngôn ngữ lạ lùng này theo phương pháp ngôn ngữ chung? Làm thế nào
chúng ta có thể tìm thấy những mối quan hệ của ngôn ngữ Trung Hoa cổ và các
ngôn ngữ khác. Thật ra, tiếng Trung hoa cổ là một trong những ngôn ngữ bình
thường của con người giống như những tiếng khác, nếu chúng ta lột bỏ cái áo
choàng khoác cho ký tự khỏi ngôn ngữ.
Trong sự nghiên cứu tiền sử, ngôn
ngữ học lịch sử sở hữu một chức năng đặc biệt, mà có thể được dùng để xác định
bản chất của một nền văn minh và nguồn gốc dân tộc của nó, dựa vào bằng chứng
của ngôn ngữ học. Vì ngôn ngữ là con dấu đặc biệt của mỗi dân tộc, không thể bị
mai một qua thời gian.
Những khám phá về các nền văn minh
Ấn Độ cổ xưa đến từ người châu Âu đã được minh chứng hoàn toàn bởi ngôn ngữ học
lịch sử trong thế kỷ XVIII - XIX. Trong khoảng một trăm năm, các nhà khảo cổ
tìm thấy văn minh bản ngữ trước đó, mà văn minh Thung lũng Indus đã hình thành
trên nền tảng của nó. Và cùng lúc, sự khảo sát di truyền học chứng tỏ người Ấn
Độ chia sẻ nguồn gen với người Châu Âu.
Sự khám phá của ngôn ngôn ngữ học
lịch sử trước đó đã được xác nhận. Vì vậy, ngôn ngữ học lịch sử được tiếng là
"khoa học đi trước thời gian."
Chúng tôi không thể đánh giá thấp
chức năng đặc biệt của ngôn ngữ học lịch sử trong nghiên cứu tiền sử con người,
chúng tôi không thể đui mù chống lại những bằng chứng của ngôn ngữ, và chúng
tôi không thể phủ nhận ngôn ngữ học lịch sử, như là một khoa học tích cực cho
thấy giá trị bao quát của nó trong việc nghiên cứu ngôn ngữ con người, lịch sử,
và tiền sử. Ngôn ngữ học lịch sử là một phương pháp khoa học được sử dụng trong
nghiên cứu tiền sử toàn thể loài người. Những trường phái lớn của ngôn ngữ học
trên thế giới, trong đó có Trung Quốc chia sẻ điều này.
Có quan niệm thịnh hành xem lịch sử
của Trung Quốc đã bắt đầu với Hoàng Đế (khoảng 2300 TCN), người đánh bại tất cả
các kẻ địch của mình và thống trị khu vực Hoàng Hà. Nhưng không nhiều người
biết rằng Hoàng Đế và người của ông di cư từ tây lục địa Âu-Á tới và rằng họ và
con cháu của họ thực sự có vai trò dẫn đầu trong các giai đoạn lịch sử của
thung lũng Hoàng Hà từ khoảng 2300 TCN.
Lịch sử được ghi trong tài liệu
truyền thống mà chỉ duy nhất tính đến việc người của Hoàng Đế đi vào trong
thung lũng Hoàng Hà và phát triển văn minh ở đó.
Những người đã sống trước đó và tạo
dựng nền văn minh tiền sử huy hoàng của hai con sông (Hàng Hà và Dương Tử) đã
bị chìm sâu sau màn sương lịch sử (tham khảo phần I của nghiên cứu này). Họ đã
bị loại trừ khỏi sử biên niên truyền thống, trong đó bao gồm hầu như tất cả các
sách lịch sử Trung Quốc, từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký vv.
Đây là một lịch sử mang xu hướng đảo
lộn vị trí giữa chủ và khách. Một trong những lý do cho tình trạng này là sự
đàn áp và loại trừ do phe đảng mạnh của Hoàng Đế. Các lý do khác là, trong khi
các dân khác đã không sáng chế ra hệ thống chữ viết của mình thì các quốc gia của
Hoàng Đế đã làm được; một trong số đó đã được người dân Trung Quốc sử dụng cho
đến nay. Những ký tự Trung Hoa cổ được ghi nhận chỉ hình thành và suy thoái
trong dân tộc của Hoàng Đế thời cổ.
Đó là lý do tại sao có sự chênh lệch
lớn giữa các di chỉ khảo cổ khu vực Hoàng Hà, Dương Tử và các hồ sơ lịch sử
truyền thống chỉ liên quan đến những ngày đầu của ngành nông nghiệp trong khu
vực. Liên quan đến nền văn minh của "Hai sông Đông Á," được tạo ra
bởi những người đến trước (xem phần I của nghiên cứu này), chúng tôi cũng có
thể tìm thấy một số đáng kể thông tin từ những văn bản lịch sử mà có thể cùng
xác nhận bởi những khám phá của khảo cổ và bằng chứng ngôn ngữ học lịch sử.
Sự khác biệt trong lối sống, phong
tục, và ngôn ngữ giữa các cư dân bản địa và người dân của Hoàng Đế cung cấp cho
chúng tôi thêm bằng chứng rằng người dân của Hoàng Đế đã chiếm đoạt một nền văn
hóa đang tồn tại. Chúng ta sẽ thảo luận về những vấn đề này sau.
NHẬN XÉT CỦA NGƯỜI DỊCH
A. Về cội nguồn văn minh nông nghiệp
Trung Hoa
Nửa thế kỷ qua, nhiều phát hiện khảo
cổ trên đất Trung Hoa gây chấn động giới nghiên cứu nhưng chúng chỉ được công
bố riêng rẽ. Đây là công trình tập hợp khá đầy đủ những phát hiện đó. Nhờ vậy,
tác giã đã thành công trong việc tái hiện lịch sử hình thành văn minh nông
nghiệp trên đất Trung Hoa cổ:
1. Khởi nguồn (khoảng 10.000 TCN).
Vết tích trồng trọt sớm nhất vào
khoảng 10.000 năm TCN tại Hang Xianren trong hạt Vạn Niên (Wannian), tỉnh Giang
Tây (Jiangxi), và Dốc đứng (Yuchan) trong hạt Dao tỉnh Hồ Nam (Hunan), là một
phần của đồng bằng sông Dương Tử, và khí hậu trong khu vực cận nhiệt đới nam
Trung Hoa. Về mặt địa lý, chúng ở trung tâm của nam Trung Quốc, phía nam
Qinling (秦岭)
và phía nam sông Hoài (淮河).
2. Giai đoạn trưởng thành (7000-5000
BC?). Những vết tích văn hóa chính đến từ văn hóa Pengtoushan (彭头山), văn hóa Giả Hồ (Jiahu) thuộc kiểu
văn hóa Peiligang và địa điểm Shangshan (上山) trong hạt Pujiang thuộc thung lũng sông Qian-tang. Những
địa điểm văn hóa Pengtoushan được định vị trong miền đồng bằng xung quanh Hồ
Động Đình (Dongting) và khu vực dọc theo sông Dương Tử phía tây tỉnh Hồ Bắc
(Hubei).
3.Thời kỳ phát triển (5000-3000
TCN)
Văn hóa lúa nước được mở rộng đến
trung, hạ luu sông Dương Tử, các dồng bằng sông Ganjiang (赣江), sông Minjiang (闽江), sông Chu (Zhujiang 珠江), và một phần của khu vực trung và hạ lưu sông Hoàng Hà
trong khoảng thời gian 5000 -3000 BC.
4. Giai đoạn hoàn tất sự phát triển
(3000-2000 TCN). Phạm vi của văn hóa lúa nước nguyên thủy đã thành thục gần như
trùng với địa bàn của nghề trồng lúa phát triển. Những di tích phong phú nhất
của nghề trồng lúa được khám phá ở văn hóa Liangzhu, Qujialing (屈家岭), Shijiahe (石家河), và Fanchengdui (樊城堆) ở trung và hạ lưu sông Dương Tử.
Từ những phát hiện khảo cổ phong phú
trên, tác giả đã rút ra kết luận thuyết phục:
Niên đại C-14 của di chỉ Hemudu là
7000 năm cách nay; của di chỉ Shangshan ở hạt Pujiang là 9000-11.000 năm. Sự
trồng trọt lúa gạo đẩy mạnh văn minh xã hội Trung Hoa cổ. Nông nghiệp lúa nước
đã thống trị kinh tế xã hội trong thời kỳ văn hóa Songze (嵩泽) ở vùng hạ lưu sông Dương Tử sau
4000 TCN.
B.Việc giải thích sự khác nhau về
thởi điểm khởi đầu trồng lúa giữa tư liệu khảo cổ và thư tịch.
Tác giả đã chính xác và công bằng
khi nhận định:
“Người dân Chu, những hậu duệ của
Hoàng Đế, không phải là những người bản dịa sống trên khu vực hoàng thổ Hoàng
Hà.” “Lối sống nông nghiệp của người Chu là kết quả của việc học hỏi từ những
người khác. Các bộ lạc của Hoàng Đế (trong đó có bộ lạc Chu) là những cư dân du
mục.”
Và:
“Khoảng 2300 TCN, quốc gia của Hoàng
Đế đã chiến thắng và thống trị các khu vực của sông Hoàng Hà. Đây còn là thời
gian sớm nhất mà truyền thuyết, lịch sử Trung Quốc trong các tài liệu cổ xưa
ghi lại. Vì vậy, theo các tài liệu sớm nhất ghi lại những thành quả này, Hoàng
Đế và các quốc gia hậu thế của ông giữ vai trò hàng đầu.
Từ Thượng Thư, kinh Thi đến Sử ký,
tất cả các sách cổ điển đã chính thống hóa Hoàng Đế cùng con cháu ông, trong
khi loại trù các dân tộc khác. Vì vậy, trong các tài liệu cổ xưa, chúng ta chỉ
có thể thấy rằng sản xuất nông nghiệp của Trung Quốc bắt đầu khoảng 2100 TCN,
dưới thời kỳ Nghiêu, Thuấn, Vũ, những nhà lãnh đạo tuyệt vời của quốc gia của
Hoàng Đế. Lĩnh vực nông nghiệp được nói đến bắt đầu vào thời Chu.
Sự khởi đầu của nông nghiệp bản địa
trên lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử vì vậy bị loại khỏi lịch sử thành văn.”
C. Về ngồn gốc của dân cư Hoàng Đế
Về cội nguồn những người vào lưu vực
Hoàng Hà, lập quốc gia Hoàng Đế, tác giả nhận định:
“Không giống như các dân cư Ngưỡng Thiều
và Hà Mục Độ là những người đến từ miền Nam Trung Quốc, dân cư của Hoàng Đế đến
từ phía Tây của Trung Quốc, từ phần phía Tây của lục địa Âu-Á. Họ chinh phục
người dân của lưu vực Hoàng Hà và Dương Tử, những người thủ đắc nền văn hóa
nông nghiệp phát triển.
Bằng cách kết hợp văn hóa riêng của
họ với các yếu tố văn hoá của người bản địa, dân cư của Hoàng Đế từng bước phát
triển một nền văn minh rực rỡ mới vào thời Hạ, Thương và Chu. Họ thay thế
người dân bản địa nắm giữ vai trò lãnh đạo trên các giai đoạn lịch sử Trung
Quốc. Cho rằng dân cư của Hoàng Đế là một chi nhánh của người Ấn –Âu cổ, là một
trong những sự kiện đáng kể nhất nay được biết tới trong lịch sử nhân loại.
D.Đôi điều bàn lại.
Không phủ nhận vai trò của ngôn ngữ
học lịch sử trong việc tìm ra mối liên hệ giữa sắc dân này với sắc dân khác.
Nhưng ngôn ngữ học lịch sử rất ít thẩm quyền khi xác định nguồn gốc của một sắc
dân. Thực tế đã chứng minh điều này. Bình Nguyên Lộc đã “lộn ngược” khi cho
rằng “Nguồn gốc Mã Lai của người Việt Nam.” Các nhà ngôn ngữ học lịch sử Pháp,
Việt cũng sai lầm từ nhận định “Tiếng Việt mượn 70% tiếng Trung Quốc” để
cho rằng người Hán là tổ tiên người Việt… Bản thân ngôn ngữ học lịch sử chỉ cho
thấy mối quan hệ giữa các ngữ mà không đủ thẩm quyền phán quyết đâu là gốc còn
đâu là ngọn! Vì vậy, dù bỏ nhiều công sức đưa ra những bằng chứng ngôn ngữ học
thì luận điểm của tác giả cũng thiếu sức thuyết phục. Sự việc càng rõ hơn khi
đối chiếu về phương diện di truyền học. Nếu bộ tộc Hiên Viên của Hoàng
Đế là người Indo-Europian thì người Hán, hậu duệ của bộ tộc Hoàng Đế, chiếm 93%
số dân Trung Quốc phải là người Indo-Europian giống như người đang sống ở Tây
Ấn hiện nay. Thực tế không như vậy. Di truyền học xác minh, người Hán thuộc
chủng Mongoloid phương Nam. Vì vậy, cố nhiên họ không thể có tổ tiên mang mã di
truyền Indo-Europian.
Thử đưa ra cách lý giải khác:
Khi các bộ lạc của Hoàng Đế vào xâm
chiếm trung lưu Hoàng Hà, họ mạnh về vũ trang nhưng nhân số ít. Bản thân họ
không thể tạo nên dân cư đông đảo như vậy ở thời Chu. Thực tế là họ đã hòa
huyết với người bản địa, sinh ra lớp người mới, thuộc chủng Mongoloid phương
Nam, chiếm 93% số dân Trung Quốc ngày nay. Từ đó có thể suy ra: các bộ lạc của
Hoàng Đế là người Mongoloid phương Bắc đã từng sống lâu đời ở phía Tây Bắc
Trung Quốc. Đó chính là những người mà 2500 năm trước, tổ tiên họ hòa huyết với
người Bách Việt bên Hoàng Hà, sinh ra người Bán Pha. Điều này đã được trình bày
trong bài “Về nguồn gốc người Hán và sự hình thành nước Tàu” (Hà Văn Thùy- Hành
trình tìm lại cội nguồn. NXB Văn học 2008).
Đúng là khoảng 2000 đến 1500 năm
TCN, người Arian từ vùng Ba Tư xâm lăng Ấn Độ, làm nên văn minh sông Indus.
Truyền thuyết và lịch sử cho biết, đó là những người mạnh mẽ và hung bạo, đã
tàn sát và nô lệ hóa dân Dravians bản địa. Trong khi đó, cũng là du mục nhưng
người của Hoàng Đế, do quá trình tiếp xúc tự nhiên lâu đời, đã không tàn sát
người Bách Việt bản địa hoặc nô lệ hóa họ mà sớm tạo được cuộc sống hòa hợp như
trong kinh Thư cho thấy. Do chỉ chăm chú tới nhũng tài liệu chính thức như
Thượng Thư, kinh Thi, Sử ký nên tác giả, giáo sư Zhou Jixu, bỏ qua những tư
liệu quý trong truyền thuyết. Truyền thuyết cho rằng, Hoàng Đế chiến thắng Si
Vưu vào năm 2600 TCN tại trận Trác Lộc trên khủyu sông Hoàng Hà. Một câu ca còn
lưu truyền: Tích nhật Hoàng đế chiến Si Vưu/ Trác lôc kinh kim vị nhược hưu
(ngày trước Hoàng Đế đánh si Vưu, tới nay cuộc chiến vẫn chưa dừng). Một cuộc
chiến tranh dai dẳng, không ít khốc liệt nhưng có lẽ không diễn ra thảm sát và
không có nô lên hóa kẻ bại trận. Như vậy, về thời gian, cuộc xâm lăng của Hoàng
Đế xảy ra trước cuộc xâm lăng của người Arian gần 1000 năm.
Cả về nhân chủng, về thời gian và
phương cách của cuộc xâm lăng của tộc Hoàng Đế đều chứng tỏ họ không phải thuộc
chủng Indo-Europian.
Một ý của tác giả cho rằng, người
của Hoàng Đế đã tạo nên văn hóa Long Sơn. Đó không phải là sự thật. Long Sơn
cũng như Yangshao thuộc về cùng một văn hóa, do giai đoạn sớm của văn hóa Hòa
Bình phát triển lên, như Hội nghị khoa học thế giới về tiền sử Viễn Đông họp ở
Hà Nội năm 1932 xác nhận.(Hà Văn Thùy. Tìm lại cội nguồn văn hóa Việt. NXB Văn
học, 2007).
Dù có những điều cần bàn lại như
trên thì tài liệu của giáo sư Zhou Jixu vẫn là những tri thức khả tín giúp
chúng ta nhìn rõ hơn vào quá trình hình thành văn hóa nông nghiệp ở Trung Quốc:
Những người từ Nam Á đi lên đã xây dựng nền văn hóa nông nghiệp trên đất
Trung Hoa từ 12000 năm trước, đạt đến sự rực rỡ vào khoảng 7000-5000 năm TCN.
Người Hán là hậu duệ của các bộ lạc du mục do Hoàng Đế dẫn đầu vào chiếm đất
phía nam Hoàng Hà, chiếm đoạt văn minh nông nghiệp của người bản địa, dựng lên
vương triều Hoàng Đế. Vấn đề đặt ra là người Nam Á ấy là ai? Đó chính là
người từ Việt Nam đi lên khoảng 40.000 năm trước. Do sống phân tán trên địa bàn
rộng có hoàn cảnh địa lý khác nhau, đã phân ly thành hơn 20 tộc Việt, được lịch
sử gọi là người Bách Việt. Trong công trình của mình, với những cứ liệu khảo cổ
học thuyết phục, có thể tác giả chứng minh được rằng Trung Quốc là trung tâm
phát triển nông nghiệp đầu tiên trên thế giới. Luận cứ của tác giả một lần nữa
giúp khẳng định, Đông Nam Á là trung tâm của văn minh nhân loại./.
HÀ
VĂN THÙY
No comments:
Post a Comment