Giang Văn Minh (1582 – 1639) tự Quốc
Hoa, hiệu Văn Chung, người làng Mông Phụ (tên nôm là Kẻ Mía), xã Đường Lâm,
tổng Cam Giá, huyện Phúc Lộc, tỉnh Sơn Tây (nay thuộc xã Đường Lâm, thị xã Sơn
Tây, tỉnh Hà Tây). Ông đỗ đầu thi Hội (Hội nguyên) rồi thi Đình đỗ Đình nguyên
Thám hoa (không có Trạng nguyên, Bảng nhãn) khoa Mậu Thìn, niên hiệu Vĩnh Tộ
thứ 10 (1628) đời Lê Thần Tông. Làm quan đã từng trải qua các chức: Binh khoa
đô cấp sự trung (1630), Thái bộc tự khanh (1631).
Năm Đinh Sửu, niên hiệu Dương Hoà
năm thứ 3 (1637), ông và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Duy Hiểu được cử làm chánh sứ
cùng với bốn phó sứ là: Nguyễn Quang Minh, Trần Nghi, Nguyễn Bình và Thân Khuê
dẫn đầu hai đoàn sứ bộ sang cầu phong và tuế cống nhà Minh. Lúc này mặc dù nhà
Mạc đã chạy đi Cao Bằng nhưng nhà Minh vẫn áp dụng chính sách ngoại giao hai
mặt (với cả Lê và Mạc) và vẫn ngầm mong cho cuộc nội chiến Lê - Mạc kéo dài,
nên sau khi sang đến Yên Kinh, sứ bộ ta phải ăn chực nằm chờ ở dịch xá gần một
năm trời.
Đến khi triều kiến, Minh Tự Tông lấy
lý do “Vì lệ cũ không có những quy định
cụ thể cho việc sắc phong, do đó trong khi còn chờ tra cứu chỉ ban sắc thư để
tưởng lệ” và – để thị uy – Minh Tự Tông đã ngạo mạn ra cho sứ bộ một vế
đối:
Đồng
trụ chí kim đài dĩ lục
(Cột đồng đến nay rêu đã xanh)
Nhắc việc Mã Viện đàn áp cuộc khởi
nghĩa Hai Bà Trưng, sau đó cho chôn một chiếc cột đồng với lời nguyền: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” (Cột đồng
gãy thì Giao Chỉ - tức Đại Việt - bị diệt vong).
Không chút do dự, Giang Văn Minh đối
ngay:
Đằng
Giang tự cổ huyết do hồng
(Sông Đằng từ xưa máu còn đỏ)
Vế đối vừa chỉnh, vừa nhắc lại việc
các triều đình phong kiến phương Bắc trong quá khứ đã ba lần bị quân dân Đại
Việt đánh cho đại bại trên sông Bạch Đằng. Đó là: Ngô Quyền đánh tan quân Nam
Hán (938), Lê Hoàn phá Tống (981) và Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên Mông lần
thứ ba – 1288).
Trước đông đảo văn võ bá quan của
Thiên triều và sứ bộ các nước, việc làm của Giang Văn Minh quả là ngang với tát
vào mặt vua Minh Tự Tông. Bất chấp luật lệ bang giao, Minh Tự Tông đã hèn hạ
thét bọn đao phủ trói ông lại, gắn trám đường vào miệng và mắt rồi cho người mổ
bụng xem “sứ thần An Nam to gan lớn mật
đến đâu”! Hôm đó nhằm ngày mùng 2 tháng 6 năm Kỷ Mão (1639). Tính ra, ông
mới 58 tuổi.
Hòng uy hiếp vua, dân Đại Việt, sau
đó Minh Tự Tông còn cho ướp xác ông bằng bột thuỷ ngân và cho sứ bộ ta đem thi
hài ông về nước.
Khởi hành từ tháng Chạp năm Đinh Sửu
(1637) đến cuối mùa thu năm Kỷ Mão (1639), phái bộ ta mới đặt chân về đến cửa
quan. Như vậy, chuyến đi sứ lần này tính ra kéo dài gần hai năm.
Thi hài Giang Văn Minh được quàn tại
Đồng Dưa, thuộc xứ Gò Đông, thôn Mông Phụ, xã Đường Lâm (quê ông). Vua Lê Thần
Tông đã cho cử hành lễ quốc tang và thân viết bài văn tế, trong đó có đoạn:
….
Thực bất hữu sinh
sinh
ư khoa giáp
Thực
bất hữu tử
tử
ư quốc sự
Sinh
như công gia
kỳ
sách gia vinh
Tử
như công gia
kỳ
tử do sinh….
(….Ai chẳng có sống
sống nơi khoa giáp
Ai chẳng có chết
chết vì việc nước
Sống mà như ông
sống là hiển vinh
Chết mà như ông
chết cũng như sống….)
Với khí phách của một sứ thần “Đi sứ không để nhục mệnh vua”, Giang Văn
Minh đã đựơc vua Lê Thần Tông truy tặng chức: Công bộ Tả thị lang, tước Vinh
Quận công. Hiện nhà thờ ông (ở làng Mông Phụ) đã được Bộ Văn hoá - Thông tin
xếp hạng là “Di tích lịch sử văn hoá”.
PHÙNG
THÀNH CHỦNG
Tài
liệu tham khảo:
- Đại Việt sử ký toàn thư (NXB Khoa học xã hội- Hà Nội, 1998)
-
Thần linh đất Việt (NXB Văn hoá dân tộc- Hà Nội, 2002)
No comments:
Post a Comment