.thongtin img{width:24px;height:18px;margin:5px 5px -5px 0} .thongtin li{margin:10px 0 20px}

Sunday, June 24, 2012

ĐỖ QUYÊN - THI PHÁP NGUYỄN QUANG THIỀU: DÒNG-THƠ-CẦN-GIẢI-THÍCH-GIÁ-TRỊ (KỲ 4)

VII. Tạm kết

Hiện
tượng Nguyễn Quang Thiều hơn hai mươi năm qua là một nan đề của thơ Việt đương đại, hòa trong nhiều nan đề văn học tiếng Việt của người Việt sau 1975 ở trongngoài hình chữ S. Có những cách tiếp cận không muốn hoặc chưa thể nhìn nhận thay đổi nghệ thuật của loại thơ này như là biến cố nghệ thuật Việt Nam giống các hiện tượng Nguyễn Đình Thi, Thanh Tâm TuyềnTrần Dần., đó không phải do ảnh hưởng từ các yếu tố chính trịthời cuộc như với Thanh Tâm TuyềnTrần Dần (tất nhiên vẫn có yếu tố nghệ thuật); mà nghiêng về lý do thời thếnghệ thuật như trường hợp Nguyễn Đình Thi. Nếuo lý do thứ hai, thì với hiện tượng thơ Nguyễn Quang Thiều, lần đầu tiên trong việc sáng tác thơ, sinh hoạt văn học Việt Nam đang có sự đấu tranh vị nghệ thuật trên con đường hiện đại hóa thi ca. Với bất kì kết quả nào cho riêng thơ của tác giả, điều đó đã là một thành tựu đẹp trong đời sống văn nghệ Việt Nam nửa thế kỷ qua với các biến động bi hùng trongngoài văn nghệ.
Kinh nghiệmhiểu biết có hạn, lại ở xa nôi thơ Việt, khi dùng nhiều thao tác phê bình, nghiên cứumột số phương pháp luận quen thuộc, chúng tôi cố gắng tìm hiểu hiện tượng Nguyễn Quang Thiều như là một tác-giả-khó, nếu không nói là khó nhất của dòng-thơ-cần-giải-thích-giá-trị. Thiết nghĩ, loại thơ này sẽ còn làm khó thi đàn trong một thời gian dài, với thi pháp đã ra ngoài trang thơ. Ở nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, thi pháp chính là cuộc đời trongngoài thơ.
Nếu phân tích như Iu. Lotman, qua lý giải của Lã Nguyên [42] thi pháp Nguyễn Quang Thiều bên cạnh khó khăn tự thân còn có khó khăn ngoài văn bản. Đó là đã tạo ra “truyện kể” tại chính “thiết chế kiến tạo văn bản được xác lập ở khu vực trung tâm” vốn “là thiết chế sản sinh huyền thoại”, trong khi “thiết chế sản sinh truyện kể là thiết chế tồn tại ở khu vực ngoại vi văn hoá.” 
Vẫn dùng cách gợi vấn đề của Lã Nguyên, câu hỏi cần thiết đặt ra: Có phải chúng ta từng “sử dụng hệ thống giá trị của nền văn học huyền thoại đã ‘hoá thạch’ để định giá nền văn học đang mọc lên cực kỳ sôi động ở khu vực ngoại vi sân chơi văn hoácũng để đánh giá thơ Nguyễn Quang Thiều hay không?
Để thơtrường ca Nguyễn Quang Thiều có nhiều cơ hội được nhận chân hay-dở, chúng tôi muốn tận dụng phần cuối tham luận nói thêm đôi điều, ngoài văn bản nhưng trong văn chương. Cũng là nảy từ tương quan “văn học sinh ra giữa trung tâm của sân chơi văn hoá” “văn học mọc lên ở khu vực ngoại vi”.
Có thể xem tác giả Nguyễn Quang Thiều hiện tượng chưa từng có trong sinh hoạt văn học Việt Nam đương đại.
Theo nhịp tăng không thể ngưng của kỷ nguyên toàn cầu hóasức sống kiên tâm để sinh tồnphát triển của dân tộc Việt, dòng văn học chính thống Việt Nam trong các thập niên gần đây ngày càng tăng sức thuyết phục chính đángtự nhiên bởi chính những tác phẩmtác giả của mình, chứ không bị ảnh hưởng từ những gì ngoài tác phẩmtác giả. Tại thời điểm này, nhìn từ “khu vực ngoại vi”, ở ba phạm vi văn học, ba vị thế nghề nghiệp, ba xuất xứ vùng miềnnhân thân, văn học Việt “khu vực trung tâm” đang có ba vị đại biểu về tài năng văn chương, ảnh hưởng nghề nghiệpphong cách văn sĩ: Đó là nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, nhà nghiên cứu - phê bình Phạm Xuân Nguyênnhà thơ Inrasara. Nếu như tác giả Nguyễn Quang Thiều không mang trên mình nhân-thân-văn-học như đang có, thơ của anh sẽ khác. Chúng tôi nghĩ vậy. Có thể hay hơn theo nghĩa chung nhất của từ này; song sẽ khó mà không cách tân hơn, không mớinhất là không lạ hơn như đãđang.
Khác đa số nền văn học đương đại thế giới, văn học Việt Nam trước hết thuộc về dòng chính thống;dòng chính ngày càng hòa chung, ảnh hưởng thực sự tới các dòng khác ở trongngoài nước [43]. Thơ Nguyễn Quang Thiều đã có thể như vậy. Xét cho cùng, phân loại dòng nhánh, hay trung tâm - ngoại vi, không phải là điều độc giả cần khi cảm nhận văn thơ nếu chúng ta muốn phê bình, nghiên cứu để cùng độc giả tiếp nhận tác phẩm. Thơ Việt Nam đang cần chan hòa những cách làm thơnhững cách đọc thơ – Chan Hòa Thi Pháp.
Cho phép chúng tôi, từ diễn đàn học thuật quan trọng này, nhiệt thành chúc mong châu-thổ-thơ Nguyễn Quang Thiều tăng mãi, tăng mãi phần bồi đắp của mình trên đất-nước-văn-học-Việt-Nam!
Vancouver - Mùa xuân 2012 (Hoàn thành 15/4; Tu chỉnh 13/6)
ĐỖ QUYÊN
____________________
PHỤ LỤC

A. Các ý kiến tham khảo
Dưới đây là những trích dẫn ít nhiều liên hệ tới bài viết.
A.1. Một số tuyên ngôn, quan niệm về thơ của Nguyễn Quang Thiều
Là tác giả rất ít “tuyên ngôn” trong thơ, Nguyễn Quang Thiều có khá nhiều tham luận, tiểu luận, tản văn về thơ. Sau đây là một số phát biểu mới nhất:
- “Năm 1990, tôi xuất bản tập thơ đầu tay Ngôi nhà 17 tuổi. Khi tập thơ này in ra, tôi nhận thấy gương mặt tôi chập chờn giữa một số gương mặt của các nhà thơ thế hệ trước. Sự ảnh hưởng ai hoặc những ai đó không dễ tránh đối với những nhà thơ trẻ. Lúc đó tôi tự hỏi: sao tôi không phải là chính mình?tôi bắt đầu viết những gì của chính tôi cho dù TÔI ấy đầy kiếm khuyếtnhiều bóng tối. Đó là nguyên nhân dẫn đến những bài thơ trong tập Sự mất ngủ của lửa xuất bản 1992 ở NXB Lao Động. Năm 1993, tập thơ này được Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, nhưng đồng thời nó cũng bị một số nhà thơ, nhà phê bình ‘đánh’ tơi tả. Tôi không có ý kiến gì. Tôi im lặng từ đó đến giờ. Vì việc của tôi là viết những gì là chính tôi. Đấy là việc của tôi chứ không phải là việc của người khác.” (lethieunhon.com 11/3/2009)
- “Thơ không phải viết về những bất hạnh cá nhân, mà là những bất trắc của cuộc đời”. (TheoĐỗ Doãn Phươnghành trình vượt thoát cõi riêng”, tonvinhvanhoadoc.vn)
- “Trong mỗi tác phẩm văn học có thể thường hiển lộ ba yếu tố mà tôi gọi đó là những sự kiện. Thứ nhất: Những sự kiện mang tính xã hôị. Thứ hai: Nhưng sự kiện mang tính ngôn ngữ.thứ ba: Những sự kiện của tâm hồn. Trong ba yếu tố đó có thể cùng diễn ra trong một tác phẩm văn học. Nhưng sự kiện quan trọng nhất làm nên một tác phẩm văn học thực thụ là sự kiện của tâm hồn. Thi ca xuất hiện trên đoạn cuối của con đường ấy. Nếu chúng ta dừng lại với hiện thực của đời sống cùng với một chút cảm xúc không thôi, chúng ta chỉ bắt gặp một cái gì đó giống thi ca chứ không phải thi ca. (…) Theo tôi, mỗi bài thơ dù ngắn hay dài thì mục đích cuối cùng của nó phải tạo ra những sự kiện tâm hồn. Chỉ như vậy, cuộc cách mạng về Mỹ học trong tác phẩm nghệ thuật mới được thực thi. (“Những sự kiện của tâm hồn - Đọc thơ Lâm Quang Mỹ”, vanhoanghean.com.vn)
- “(…) không phải những nhà thơ Xuân Diệu, Chế Lan Viên hay Xuân Quỳnh thơ của họ đều hay hơn tất cả những bài thơ của các nhà thơ sau này. Các nhà thơ phân ra khu vực, có độc giả ở những khu vực riêng. (…) Có thể bây giờ, trong thời đại này để bạn đọc chỉ đọc một nhà thơ là điều khó. Kể cả các nhà thơ được giải Nobel cũng có phân chia khu vực bạn đọc của mình, các khuynh hướng đọc của mình.” (“Bóng dáng nàng Thơ trong cuộc sống hiện đại”, VietNamNet)
-  “Mai Văn Phấn, Trần Tiến Dũng, Đinh Thị Như Thúy, tôi ấn tượng với ba tác giả này, vì họ thực sự tạo nên một thế giới thi ca mà có những điều cá nhân tôi không làm được.” (“Còn ai giữ lửa cho thơ? (Bài cuối): Đổi mới thơ ca không chứa đựng tính thời thượng”, Báo Thể thao - Văn hóa;thethaovanhoa.vn 31/12/2009)

A.2. Một số nhận định, dư luận
- Nguyễn Việt Chiến: “Từ những năm 1990, thơ Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi phápcó thể nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậctài năng xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt. (…) Với Nguyễn Quang Thiều, nhiều trang thơ mới đã mở ra, nhiều khát vọngđời sống mới đã được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ thơ của riêng anhđấy chính là những đóng góp lớn của anh cho nền thơ đương đại.” (“Nguyễn Quang ThiềuNguyễn Lương Ngọc, hành trình qua sa-mạc-thơ “; Báo Văn Nghệ Trẻtonvinhvanhoadoc.vn)
- Anh Chi: “Thực tế cho thấy, trong đời sống thơ ca cuối thế kỷ XX, có không ít các nhà thơ trẻ cùng những nhà thơ không còn trẻ nữa, đã dấn bướco cuộc săn tìm hình thức mới cho thơ. Sớm nhất có lẽ là tập thơ Lá của Văn Cao, xuất bản năm 1988, là một đóng góp lớn cho việc làm mới ngôn ngữ thơ Việt Nam hiện đại. Kế đó, năm 19901991 nhà thơ trẻ Nguyễn Lương Ngọc xuất bản hai tập thơ, Từ nướcNgày sinh lại, cũng là một đóng góp đáng kể về cách tân ngôn ngữ thơ… Ở đây, chúng tôi tạm thời ghi nhận rằng, năm 1992 là một dấu mốc đáng kể của Hiện tượng làm mới ngôn ngữ thơ cuối thế kỷ XX. Bởi, đó là năm Nguyễn Quang Thiều xuất bản tập thơ Sự mất ngủ của lửa với một ngôn ngữ thơ rất mới lạ.” (“Những dấu vết của sự nếm trải”; Báo Văn nghệ số 23 - 2011,phongdiep.net)
- Đào Duy Hiệp: “Gối đầu qua 2 thế kỉ, với gần ba mươi năm hành trình lao động sáng tạo, Nguyễn Quang Thiều đã tạo thành một hiện tượng thơ với nhiều ý kiến khác nhau, trái chiều. (…) Trong thế giới thơ Châu thổ, nhà thơ, những người đàn bà, đàn ông, những đứa trẻ, con chó, con bò, cây rơm, mái rạ,… được trần thuật, trên bình diện trần thuật là ở hai ngôi thứ nhấtthứ ba, nhưng ở cấp độ giọng điệu, dù ở ngôi thứ ba, thì vẫn chỉ là một nhân vật trữ tình: cái ‘tôi’ ở ngôi thứ ba hay cái ‘tôi’ phân thân thành cái ‘nó’ để trình bày về thế giới cùng những trăn trở của anh ta. Tất cả những cái nhìn, giọng điệu đó dường như thường trực phát ra từ ‘bóng tối’ khổ đau, buồn thương của nhân vật trữ tình, qua đó ta thấy được tình cảm, tư tưởng, hệ ý thức, trách nhiệmsứ mệnh được phát ngôn nhân danh nhà thơ, người nghệ sĩ trước cuộc đời.” (”Cấu trúc thơ Châu thổ của Nguyễn Quang Thiều”; Phunutoday.vn)
- Đông La: “(…) bài Bầy chó của tôi, bài mà nhà phê bình Trần Mạnh Hảo đã cho Nguyễn Quang Thiều là: ‘nhìn con chó thật ghê tởm’, nhìn ‘một cách kinh hãi’; quả thật, nếu nhìn những con chó chỉ là những con chó, thì thấy việc nhà thơ tả cảnh chúng cắn xé, tranh giành nhau đúng là kinh hãi thật;với một quan điểm thẩm mỹ cho tính thơ cao nhất chỉ là những mây trăng hoa lá, xanh xanh đỏ đỏ, thì không thể nào đồng cảm được thật: ‘Bầy chó gầy bẩn thỉu ốm đau/ Ngày lùng sục kiếm ăn/ Liếm cảo lưỡi dao sắc ngọt/ Lưỡi bị cứa máu trào ra ở đó/ Con đến sau lại liếm máu bầy mình’. Với tôi, đây là những câu thơ hay nhất có thể so với bất cứ câu thơ nào.” (“Về tư duy thơ Nguyễn Quang Thiều”; Tạp chí Sông Hương số 135 - 5/2000;tapchisonghuong.com.vn 13/4/2010)
- Tấn Phong: “ Gấp tập thơ khủng khiếp 144 bài, 393 trang, khổ 14,5 x 21cm này lại, cảm giác ban đầu là một sự hụt hẫng. Hụt hẫng vì áp lực của chồng chồng lớp lớp những dồn nén, bức bối trải rộng sau những câu thơ dài dằng dặc. (…) Đó là nhận xét thứ nhất về tập thơ Châu thổ: lạ, chẳng giống ai. Hai là, thơ này không có tiền lệ, có những con đường vạch sẵn (…)ba, là hệ quả của nhận xét thứ hai, đừng có tìm cách chia sẻ, hoặc lý giải, hoặc tìm cách hiểu, về thanh điệu, ngữ nghĩa, ý tưởng (….) Bốn lần, loanh quanh thế nào, rồi nhà thơ vẫn trở về với cái Làng Chùa, quê anh, với bà nội của anh (…) Năm là, thơ Nguyễn Quang Thiều (…) hầu như không có nhiều lắm những vấn đề về ngữ văn, những phép tu từ, những từ lấp láy của các ngôn ngữ đơn âm khiến ta hiểu lầm nếu in sai. (…)vì thế, sáu là, ngôn ngữ của tập thơ là một thứ ngôn ngữ đa âm, lạ tai, phải chăng nó hợp với tạng thơ của anh (?!). Bảy là, để Hiểu thơ anh, chỉ có một cách là cộng cảm, cùng bước theo, cùng suy nghĩ với nhà thơ (…)vì vậy, thơ Nguyễn Quang Thiều như những bản nhạc không bao giờ kết trọn. Cái kết lửng luôn luôn là một sự bắt đầu. (…) Không ngơi nghỉ, đầy xung lực, cường trángmạnh mẽ vô cùng. Cả tập thơ cũng vậy.”  (“Sự hiển thị của tương lai”, báo Văn Nghệ,vanvn.net)
- Châu Minh Hùng: “Tập thơ Sự mất ngủ của lửa của Nguyễn Quang Thiều báo hiệu những tín hiệu lạ, nó không nằm trong từ trường âm hưởng thơ truyền thống, cũng không nằm trong logic ngữ nghĩa thông thường nên dễ bị quy chụp là bắt chước thơ Tây, thơ dịch: ‘Những con rắn được thủy táng trong rượu/ Linh hồn chúng bò qua miệng bình cuộn khoanh đáy chén/ Bò tiếp đi… bò tiếp đi qua đôi môi bạc trắng/ Có một kẻ say gào lên những khúc bụi bờ…’ (Tự do thơ tự do; Tạp chí Sông Hương, số 240 – 2/2009)
- Diêu Lan Phương: “Họ hướngo những trải nghiệm cá nhân trước bộn bề cuộc sống, hướngo thể hiện các vấn đề của tồn tại mà con người luôn phải đối diện, đó là vấn đề sinh tử, thiện ác, sự cô đơn, hoài nghi, thất vọng, nỗi buồn, niềm vui… Có lẽ, đây là hướng mới cho sự phát triển trường ca (…) Trong những tác giả sáng tác theo xu hướng này, chúng tôi thấy Nguyễn Quang Thiều là người đã gặt hái được nhiều thành công. Ông đã dung hòa được lối viết của thẩm mĩ chuẩn mực cổ điểnlối viết hậu hiện đại. Trong một hình thức mang tính suy tưởng với nhiều mảnh ghép hiện thực, ông thể hiện được những chiêm nghiệm sâu sắc về các vấn đề nhân sinh. Ngoài hai trường ca được viết trước năm 2000, Cây Ánh Sáng (2009)Lò mổ (chưa xuất bản, đã đăng trên Maivanphan.com) của ông tiếp tục khiến chúng ta không khỏi băn khoăn, ám ảnh bởi những cảm thức về đời sống con người vừa hiện thực vừa ảo ảnh, vừa khốc liệt vừa nên thơ, vừa cao cả vừa đê hèn.” (“Những thể loại văn vần có dung lượng lớn như là tiền đề của tư duy về hình thức”; Luận án Thể loại trường ca trong văn học hiện đại Việt Nam, Đại học Quốc gia Hà Nội 15/6/2011;Trường ca từ 2000 đến nay: xoá bỏ khoảng cách sử thi để gần gũi hơn với đời sống; vanhocquenha.vn)
- Thiên Sơn:Nguyễn Quang Thiều bảo, thật oan cho anh nếu nghĩ rằng anh cố tình du nhậpo trong nước một lối thơ nào đó ở nước ngoài. Không. Không phải vậy đâu. Hồi viết Sự mất ngủ của lửa anh viết gần như bằng bản năng. (…) đó là những dòng thơ tuôn chảy từ trong tâm hồn, từ cội nguồn của tâm tư, từ mạch ngầm của ký ức bao đời dồn tụ lại. Dù có năm năm học ở Cu Ba, nhưng Nguyễn Quang Thiều kể, anh chỉ được học tiếng Tây Ban Nha, tiếng Anhnhững tác phẩm kinh điển của thế giới. Lúc ấy anh không hiểu nhiều văn học hiện đại của Mỹ La Tinhcũng chưa có một ý thức đầy đủ về sứ mệnh đổi mới trong thơ hiện đại.” (“’Hộp đen’ Nguyễn Quang Thiều”, báo Văn Nghệ số 17+18 – 4- 2012,vanvn.net 29/4/2012)
- Từ các bàn luận của trang mạng lethieunhon.com trong năm qua, mạn phép lược lọckhông dẫn tên tác giả với thành ý không sai lạc ý nghĩa, có nội dungcách nói hợp với bài viết:
+”Văn thơ Nguyễn Quang Thiều như một bộ sưu tập lưu giữ hồn cốt nông thôn đồng bằng Bắc Bộ một thời đã qua, khiến người đọc cảm động. Phần triết lý, liên tưởng rất phong phú nhưng chưa mấy thành công vì chưa bộc lộ tư tưởng mới.”
+ “Thơ Nguyễn Quang Thiều có một phẩm chất kỳ lạ: Rền rĩ, dai bền. Độc giả hai chục năm nay, nhiều người mệt lử vì thơ anh, nhưng chúng vẫn lùi lũi tiến lên, xua đuổi kiểu gì cũng không được.”
+ “Tôi thành tâm muốn được đọc một bài thơ hay của ông Thiều, với thiện chí thực sự là học tập. Vì tôi đọc tất cả các bài khác của ông Thiều, tôi thấy không hay, thậm chí là không phải thơ.”
+ “Xem ‘Châu Thổ’ tôi thấy như đọc lời những bài Ráp. Nó sẽ rất hay, khi được các ca sỹ vừa hát (thực ra là đọc thật nhanh những câu thơ bất tận này theo kiểu nhạc Ráp) vừa nhảy múa rất sôi động..”
+ “Thơ như báo Văn Nghệ cũng bị ‘chê’, thơ như kiểu Nguyễn Quang Thiều, Mai Văn Phấn (có thể in được cả trongngoài luồng) cũng bị chê.”
+ “Thơ Thiều là thơ không có tương lai, vì không tới được công chúng. Lối thơ ấy chắc chắn sẽ bị thời gian đào thải. Xin lưu comment này lại của tôi để làm minh chứng.”
+ “Cháu rất thích thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều. Thơ ông mới lạ, giàu cảm xúc, biểu hiện đầy đủ những tâm trạng đặc trưnghệ luỵ của con người đương đại.”
+ “Không chỉ riêng Lê Vũ, mà các tác giả khác như Nguyễn Hoàng Đức, Nguyễn Việt Chiến khi viết về Nguyễn Quang Thiều cũng rất khó tìm ra những câu thơ trích dẫn làm vừa lòng người đọc. Đúng như một nhà thơ đã nói, thơ Nguyễn Quang Thiều còn ít câu hay, bài hay.”

B. Tài liệu tham khảo
- Lời giới thiệu tập thơ Nhịp điệu châu thổ mới, NXB Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tây 1997
- Lê Vũ: “Nguyễn Quang Thiều: Châu Thổ, cơn mê sảng những ý nghĩ”; doanvinhphuccr.vnweblogs.com  22/8/2011
- Đỗ Minh Tuần: “Trốn lo âu về lại cánh đồng”; Ngày văn học lên ngôi, Tập tiểu luận, NXB Văn học 1996
- Nguyễn Thị Loan: Nguyễn Quang Thiều: Miền tâm linh ngập tràn Châu thổ”; nhavantphcm.com.vn 25/8/2011
- Mai Văn Phấn: “Thơ Dương Kiều Minh mang hơi xuân từ những cánh đồng”; Tọa đàm Dương Kiều Minh trong diễn trình đổi mới thơ đương đại Đại học Văn hóa, Hà Nội 14/5/2012,vanvn.net 3/3/2012
- Trần Thiện Khanh: “Nguyên lý cấu trúc nhịp thơ; Tạp chí Thơ số 4 – 2008,lyluanvanhoc.com
- Khánh Phương: “Lưu Quang khuynh hướng cách tân xa rời ẩn dụ thơ ca”; Sách phê bình, tiểu luận Suy tưởng, Giấc mơ, Viết..., NXB Hội Nhà văn 2011,evan.vnexpress.net 25/5/2010
- Trần Đình Sử: “Toàn cảnh Thi pháp học”, lythuyetvanhoc.wordpress.com 13/9/2010
- Nguyễn Hưng Quốc: Sách khảo luận Tìm hiểu nghệ thuật thơ Việt Nam; NXB Quê Mẹ, Paris 1988
- Đặng Phùng Quân: “Khái luận phê bình lý trí văn chương”; gio-o.com

C. Toàn bài thơ trích từ tập Châu thổ
Bữa tối
Các con, cháu tôi đến trước
Bố mẹ tôi đến sau
Rồi đến tôi
Theo chân tôi là con chóngcon mèo mướp
Rồi bầy muỗi mùa hạ
Rồi ngọn gió cánh đồng
Rồi vầng trăng trên bầu trời khô hạn
Người cuối cùng là đứa trẻ hàng xóm
Đếnngồi bên tôi
Con chó gầm gừ cổ họng
Tôi đói những gì không có trong mâm
Bữa tối dọn ở chân trời có chớp.

(10/1993)

D. Chú thích (theo thứ tự chung của 3 kỳ đăng trên vanvn.net)
[37] Đỗ Quyên: “400 tác giả trường ca Việt Nam”; vanvn.net 2/3/2012
[38] Đỗ Quyên: “Ghi nhận ngắn về một thi cảm trường ca tươi lạ”; Sách trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập Thành, Nguyễn Anh Nông, NXB Văn học 2012
[39] Nguyễn Quang Thiều: Lò mổ, trường ca; phongdiep.net: s13.invisionfree.com 10/6/2008
[40] Diêu Lan Phương: “Nghĩ về một số ‘phản trường ca’; Tạp chí Văn nghệ Quân đội cuối tháng 12/2010;vannghequandoi.com.vn 4/1/2011; & “Trường ca từ 2000 đến nay: xoá bỏ khoảng cách sử thi để gần gũi hơn với đời sống, vanhocquenha.vn
[41] Nguyễn Đức Tùng: Sách phỏng vấn Thơ đến từ đâu, NXB Lao động 2009 (Đỗ Quyên, trang 307);talawas.org 8/8/2006[37]
[42] Lã Nguyên: “Mấy hạn chế cản trở sự phát triển của phê bình văn học”; Hội thảo Nâng cao chất lượng, hiệu quả phê bình văn học, Hội đồng LLPBVHNT TƯHội Nhà văn Việt Nam – Hà Nội 10/4/2012;vietvan.vn 15/4/2012
[43] Đỗ Việt Hùng: “Về tính cấp thiết của chủ đề Hội thảo: Ở ta, văn học ngoại biên (“Littérature périphérique”, “peripheral literature”) chưa bao giờ được bàn luậnnghiên cứu như một vấn đề lý thuyết. Hệ thống lí luận về tiến trình văn học được sử dụng hơn nửa thế kỷ nay trong các trường đại học, cao đẳng thực chất là hệ thống lí thuyết về các nền văn học trung tâm. Mô hình lịch sử một trung tâm mâu thuẫn trực tiếp với thực tiễn vận động đa dạngphức tạp của đời sống văn học, vì thế, hệ thống lí thuyết này lộ rõ tính kinh viện, ngày càng trở nên xơ cứng. Từ ngày Đổi mới, chúng ta chứng kiến cấu trúc của nền văn học dân tộc có nhiều thay đổi: ngoài dòng văn học truyền thống ở trung tâm, đãđang có sự phát triển rầm rộ của các dòng văn học ngoại biên. Nhưng các dòng văn học này chưa được quan tâm đúng mức, ngang tầm với sự phát triển của nó. Tình hình trên đòi hỏi giới nghiên cứu phải đưa ra được những khái quát lý thuyết về văn học trung tâm/ngoại biên. Nhưng muốn có tư liệu để khái quát lí thuyết, chúng ta phải khảo sát kỹ lưỡng lịch sử phát triển của văn học trung tâm/ngoại biên qua các thời đại, ở nhiều khu vực khác nhau. (Thư mời viết tham luận Hội thảo “Văn học trung tâm/ngoại biên: Những vấn đề lí thuyếtlịch sử”, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 12/2012; nguvan.hnue.edu.vn 11/6/2012)

1 comment:

  1. Tại hội thảo thơ làng Chuồi mới rồi thi sĩ râu trê như râu dê Thiêu Quàng phó chủ xị thi hụi “tao đàn thất kinh” hú hù hụ một hơi dài rồi từ từ rón chưn nhảy lên thi đàn trụt quần khoe chim “à la mode” - tân hình thức như thể ve vãn nàng thơ vào cuộc làm tình ngấu nghiến kiểu cưỡng dâm rồi đưa tay phanh áo chém gió thổ lộ cùng thi hữu bí kíp phọt thơ “cóc cụ ho khụ khụ” và kinh nghiệm khinh công leo cột mỡ giựt giải của thi hụi phát mại các thi tập ra công chúng nhất thiết phải nhất bộ nhất bái đi từ “lều thơ nhái bén” qua “ễnh ương quán” lên đến “nhà thơ con cóc cụ” và trải ít nhất dăm năm ăn cay niệm “khắc cục” khổ luyện mác-lê thần chưởng rồi sau mới tiếp tục tu tập tu hú “tu từ” tu từ từ tu ừng ực cuối cùng mới đạt đến cảnh giới sắc sắc sắc không không không bi bi bi kịch kịch kịch của thi nhân hậu hiện đại:

    một chiều oi nồng
    cởi truồng tồng ngồng
    ra giữa ngã đông
    chổng tĩ ngoáy mông
    vung vợt cầu lông
    chỉ huy giao thông…

    ReplyDelete