NTT:
Anh Trần Mạnh Hảo vừa gửi cho tôi bài tham luận. Có lẽ anh gửi lạc địa chỉ, vì
tôi không tham gia ban tổ chức hội thảo. Nhưng anh nhờ đọc và đăng, thì chiều
vậy. Ai cũng biết giọng tham luận của anh Hảo luôn gây sốc. Giờ có sốc thì
người ta mới đọc. Trong tham luận này, anh Hảo bỏ bom nhiều người chứ không chỉ
anh Thiều. Vậy, tôi đăng lên để mọi người cùng biết mà “bom” lại nhé.
VỀ
TRƯỜNG PHÁI THƠ “TÂN…CON CÓC” CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
TRẦN
MẠNH HẢO
(Tham
luận của TMH gửi cuộc hội thảo: “Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt
Nam đương đại” do Viện Văn học tổ chức sắp tới)
Có
thể nói, trong làng báo, làng văn ở ViệtNamhôm nay, Nguyễn Quang Thiều là một
trong những nhân vật nổi tiếng nhất. Về sự đa tài của ông Thiều (nhà báo, nhà
văn, nhà thơ, nhà viết kịch bản điện ảnh, họa sĩ, nhà dịch thuật văn học…) chỉ
kém trung tướng Hữu Ước (nhà báo, nhà văn, nhà thơ, nhà điện ảnh, họa sĩ, nhạc sĩ,
nhà nhiếp ảnh…)
Riêng
về thơ, Nguyễn Quang Thiều đang được các nhà “Thiều học” ca ngợi còn hơn cả
Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Xuân Hương; rằng Nguyễn Quang Thiều là “Cây ánh
sáng” soi sáng cho nền thơ hiện đại Việt Nam; rằng Nguyễn Quang Thiều là người bẻ
ghi cho con tàu thi ca Việt Nam ra với thế giới…
Công
bằng mà nói, trong biển cả miên man vô tận của thứ thơ phi truyền thống, phi
hình tượng, phi cấu tứ, phi tư tưởng, phi biểu tượng, phi nội hàm, phi truyền
cảm…của Nguyễn Quang Thiều, ta vẫn tìm được đây đó một số câu và đoạn thơ hay :
Tôi hát bài hát về cố hương
tôi
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy ròng ròng
Bằng khúc ruột tôi đã chôn ở đó
Nó không tiêu tan
Nó thành con giun đất
Bò âm thầm dưới vại nước, bờ ao
Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ
Bò qua bãi tha ma người làng chết đói
Đất đùn lên máu chảy ròng ròng
Tôi hát, tôi hát bài ca về
cố hương tôi
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.
Trong những chiếc tiểu sành đang xếp bên lò gốm
Một mai đây tôi sẽ nằm trong đó
Kiếp này tôi là người
Kiếp sau phải là vật
Tôi xin ở kiếp sau làm một con chó nhỏ
Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi.
….
Sông Đáy chảy vào đời tôi
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm về vất vả
Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
Năm tháng sống xa quê tôi như người bước hụt
Cơn mơ vang tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc
Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn
Tỏa mát cơn đau tôi là tóc mẹ bến mòn đứng đợi
Một cây ngô cuối vụ khô gầy
Suốt đời buồn trong tiếng lá reo.
….
Mẹ
tôi đã già như cát bên bờ – Ôi mùi cát khô, mùi tóc mẹ tôi – Tôi quì xuống vốc
cát ấp vào mặt – Tôi khóc – Cát từ mặt tôi chảy xuống dòng dòng”
….
Theo
tiêu chuẩn tối thượng HAY –DỞ định giá trị thi ca, muốn tìm năm bài thơ hay của
Nguyễn Quang Thiều để in vào tuyển tập thơ ViệtNamlà điều không thể.
Theo
tạp chí chuyên về văn học nghệ thuật: http://www.tienve.org,
nơi in tất cả các sáng tác của Nguyễn Quang Thiều, viết về tiểu sử của ông như
sau :
“Sinh
năm 1957 tại Hà Tây. Hiện sống ở Hà Đông. Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ, nhà
văn, kịch tác gia, và dịch giả, đã đoạt nhiều giải thưởng văn học ở Việt Nam.
Ông
đã xuất bản nhiều tập thơ, gồm có: Ngôi nhà tuổi 17 (1990); Sự mất ngủ của lửa
(1992); Những người đàn bà gánh nước sông (1995); Những người lính của làng
(1996); Thơ Nguyễn Quang Thiều (1997); Nhịp điệu châu thổ mới (1997); và Bài ca
những con chim đêm (2000). Tập thơ The Women Carry Water (bản Anh ngữ của cuốn
Những người đàn bà gánh nước sông) được University of Massachusetts Press xuất
bản năm 1997, và được The National Translation Association of America trao giải
thưởng vào năm 1998. Thơ của ông đã được dịch và đăng trên rất nhiều tập san
văn học trên thế giới.
Ông
đã xuất bản 2 tiểu thuyết, 5 tập truyện ngắn, 3 tập truyện cho thiếu nhi, và 1
tập tiểu luận. Hai tập truyện ngắn của ông đã được dịch và xuất bản tại Pháp:
La Fille Du Fleuve (1997), và La Petite Marchande De Vermaicelles (1998). Ông
cũng tham gia vào lĩnh vực điện ảnh và sân khấu, và nhiều kịch bản của ông đã
được dựng thành phim.
NGUYỄN
QUANG THIỀU NỔI LÊN NHỜ HỮU ƯỚC
“Nguyễn
Quang Thiều nổi lên nhờ Hữu Ước” là kết luận của Hai Xe Ôm (Phạm Viết Đào)
trong bài viết : “Con bài Nguyễn Quang Thiều trong ván cờ chính trị của Hữu
Thỉnh” chúng tôi sẽ dẫn dưới đây. Trước hết, chúng tôi xin trích lời nhà thơ,
nhà báo Hữu Việt in trong bài “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ như anh kép
hát rời sân khấu” in trên http://vietbao.vn như sau :
Ông
(tức Nguyễn Quang Thiều) tiếp tục cuộc chơi của mình, lần này trên An ninh Thế
giới cuối tháng. Ông là người chủ chốt lập đề cương và tổ chức thực hiện.
Tờ
báo này nổi đình nổi đám một thời gian dài có lẽ nhờ phần đóng góp không nhỏ
của Nguyễn Quang Thiều. Còn nhớ, khi chiến tranh Mỹ – Afghanistan xảy ra, vào
năm 2001, Thiều đã xung phong sang chiến trường này, và hoạt động như một phóng
viên chiến tranh.
Bởi
vậy, nhà văn, TBT Hữu Ước đã có những cách đối xử rất “anh Hai” với ông. Chính
xác hơn, đây là cách ứng xử của một người anh với thằng em mà mình rất yêu quý.
Cho dù có chuyện gì xảy ra thì Nguyễn Quang Thiều vẫn là “công thần” của ANTG.
Năm
2003, ông không tham gia ANTG cuối tháng nữa, nhưng hàng tháng, ông vẫn nhận
được một khoản tiền thù lao. Khi ông cố từ chối thì nhà văn Hữu Ước đã nói, đại
ý: Đây là tiền “bản quyền tác giả” ANTG cuối tháng của ông. Ông phải nhận nó
khi nào Hữu Ước còn là TBT và tờ ANTG cuối tháng còn xuất bản…
“Trước
khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba
và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh
khá.
Ông
làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ
chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở
thành một người làm báo – và viết báo.”
Đây
là từ điển mạng http://vi.wikipedia.org
viết về Nguyễn Quang Thiều:
“Ông
được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước
sáng lập nên hai tờ báo tương đối phổ biến ở Việt Nam hiện nay là tờ An ninh
thế giới cuối tháng và Cảnh sát toàn cầu[5]”
Nhà
thơ Phạm Khải trên tờ Công an nhân dân viết về Nguyễn Quang Thiều như sau:
Với
nhà văn Hữu Ước, Nguyễn Quang Thiều nhớ lại lần anh để xảy “tai nạn nghề
nghiệp” khi phụ giúp ông làm tờ An ninh thế giới Cuối tháng: Nhà văn Hữu Ước,
mặc dù – nói như Nguyễn Quang Thiều “nổi tiếng là người thẳng tính và nóng
tính”, song lúc ấy “ông chỉ hút thuốc lào vặt hết điếu này đến điếu khác. Những
lúc ấy tôi có cảm giác như ông đã làm xong mọi việc mà cuộc đời ông phải làm
hoặc là trong cuộc đời này ông chẳng có việc gì phải làm cả. Chỉ có hút thuốc
lào và uống rượu trong im lặng”.
Từ
đây, Nguyễn Quang Thiều có những khái quát về bản lĩnh của ông nhà văn đang giữ
cương vị Tổng biên tập: “Bây giờ tôi hiểu ra rằng: Có những lúc ông rơi vào
những hoàn cảnh khó khăn như vực thẳm, như núi cao mà ông vẫn thanh thản đối
mặt và thanh thản đi qua với một thái độ “chẳng có gì quan trọng”.
“Chẳng
có gì quan trọng” không phải là không có gì quan trọng mà bởi trong lòng ông
ngập tràn lòng tin và thanh thản chấp nhận mọi điều có thể xảy ra như ông đã
từng chấp nhận”.
(
Nhân đọc tập sách “Người” của Nguyễn Quang Thiều và Lê Thiết Cương – Phạm Khải)
Trên
trang mạng của Đài phát thanh tiếng nói ViệtNam, nhà báo Mai Hồng viết về
Nguyễn Quang Thiều như sau :
“Nhà
văn, Thiếu tướng Hữu Ước có mặt tại triển lãm cười thật tươi mà nói rằng: “Lê
Thiết Cương và Nguyễn Quang Thiều là những người bạn, người em của tôi.”
(Bài
Chung niềm yêu thương với Người- Mai Hồng)
Trên
trang mạng của báo Công an nhân dân, nhà báo Duy Hiển viết về Nguyễn Quang
Thiều như sau :
“Nói
về những kỷ niệm làm tờ An ninh thế giới cuối tháng (sau thêm số giữa tháng),
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể: Khi tờ An ninh thế giới hằng tuần đã có vị thế
lớn, anh Hữu Ước quyết định làm một tờ báo sang trọng hơn và chúng tôi đã giúp
anh thực hiện quyết định đó. Đến nay, tờ An ninh thế giới cuối tháng (giữa
tháng) vẫn giữ vị trí đáng nể trong số vô vàn các ấn phẩm báo chí…”
(Bài:
Gặp mặt những người làm nên thương hiệu An ninh thế giới và Văn hóa Văn nghệ
công an- Duy Hiển)
Nhà
thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết về Nguyễn Quang Thiều trên tờ Công an
nhân dân như sau :
Tổng
biên tập Hữu Ước giao cho nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (người danh chính ngôn
thuận biên chế thuộc báo Văn nghệ nhưng từ lâu đã gắn bó với ANTG, được Tổng
biên tập biệt đãi vừa như em, vừa như khách) và tôi phác thảo đề cương tờ báo
mới. Khi đã thống nhất được những chuyên mục chính của báo, anh lập tức “bật
đèn xanh” cho ra đời một ban biên tập do anh trực tiếp nắm.
(Bài:
“Anh ninh thế giới cuối tháng- 5 năm là bấy nhiêu tình-Hồng Thanh Quang)
Một
bài trên tờ Lao động viết về chuyến đi thực tế cuộc chiến tranh ởAfghanistancủa
đại tá công an Nguyễn Như Phong và Nguyễn Quang Thiều như sau:
Đây
là sáng kiến của Hữu Ước, Tổng Biên tập báo An Ninh Thế Giới và Văn Nghệ Công
An Nhân Dân. Cái đáng kể nhất là tài chính, cũng do báo này lo hết.
Trích
bài: (Hai nhà báo đến với chiến trườngAfghanistan)
Nhà
thơ đại tá công an Hồng Thanh Quang viết trên tờ Công an nhân dân như sau :
“Tôi
không rõ anh đã phải uống hết bao nhiêu ly rượu nhưng anh đã nghĩ ra được một
độc chiêu: biết là kiểu gì Mỹ cũng sẽ tấn công Afghanistan (lúc ấy đang do
Taliban cai quản), anh cử ngay hai cây bút vào hàng cự phách của toà soạn là
nhà thơ Nguyễn Quang Thiều và Phó Tổng biên tập ANTG Nguyễn Như Phong sang
Pakistan với nhiệm vụ làm sao thổi được không khí nóng bỏng từ đó lên những
trang báo các ấn phẩm của ANTG, cả tờ tuần lẫn tờ cuối tháng.”
(Bài
: ANTG cuối tháng-5 năm là bấy nhiêu tình-Hồng Thanh Quang)
(DVT.vn)
– 9 giờ ngày 5/2, Hội Nhà văn Việt Namđã khai mạc Liên hoan Thơ châu Á – Thái
Bình Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Namlần thứ 10. Đây là hình ảnh Nguyễn
Quang Thiều trong ngày hội liên hoan thơ châu Á Thái Bình Dương lúc 9
giờ sáng ngày 5/2/2012 tức 14 tháng Giêng âm lịch, tại Văn Miếu
- Quốc Tử Giám Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đã long trọng khai mạc Liên
hoan Thơ châu Á – Thái Bình Dương lần thứ nhất và Ngày Thơ Việt Nam lần thứ 10.
Nhà
thơ Nguyễn Quang Thiều (trái), Trung tướng nhà văn Hữu Ước cùng nghệ sĩ Thu Hà
và ông Nguyễn Sơn.
Bài:
“Liên hoan Thơ châu Á – Thái Bình Dương và Ngày Thơ ViệtNam”
Chủ
nhật, 05/02/2012 19:35
Trên
mạng của nhà văn Phạm Viết Đào trong bài “CON BÀI NGUYỄN QUANG THIỀU: TRONG VÁN
CỜ CHÍNH TRỊ CỦA HỮU THỈNH ?” có đoạn viết như sau :
Nguyễn
Quang Thiều một thời đầu quân cho Hữu Ước làm tờ An ninh thế giới cuối tháng
Còn
Nguyễn Quang Thiều nổi lên là nhờ Hữu Ước và Vietnamnet chứ nếu xem xét dưới
góc văn chương thì Thiều cũng chưa chứng minh được gì nhiều trong những năm gần
đây
“Quan
Văn” Thiều vốn là một chiến binh có kinh nghiệm và khả năng chinh phạt thương
trường qua thức thách của những việc làm tại 2 tờ báo Vietnamnet và An nin cuối
tháng; hiện nay Thiều đang làm tờ Cảnh sát Hình sự”
Khi
làm An ninh cuối tháng, Cảnh sát Hình sự, Thiều chỉ lo phần bài vở còn phần hậu
cần quân lương đã có Hữu Ước lo.
Trúng
cử được vào Ban chấp hành và chức vụ Phó Chủ tịch, rất nhiều người thấy ngộ khi
nhìn thấy Thiều ngay lập tức xuất hiện trên báo Công an nhân dân với trang phục
Comple cà vạt
Nhìn
nét mặt Thiều quả rất ngộ: quắc thước, mắt ngước nhìn lên như Stalin, như
Gorbachop nhưng thần thái thì vẫn chưa dấu được cái đuôi sĩ; tức đuôi hề…
Trong
5 năm gần đây, giới văn chương không thấy năng lực văn chương của Thiều phát
tiết gì nhiều”
Trên
trang mạng http://vnexpress.net có bài
viết về những lời ca tụng của Nguyễn Quang Thiều với Hữu Ước như sau :
24
chân dung bằng chữ của Nguyễn Quang Thiều và 10
bức chân dung bằng đường nét và màu sắc của Lê Thiết Cương hội tụ trong
triển lãm mang tên “Người”, khai mạc tại Gallery 39 Lý Quốc Sư, Hà Nội, chiều
27/10.
Cuốn
sách của Nguyễn Quang Thiều tập hợp 24 bài viết về những nhân vật nổi tiếng
trong giới văn nghệ mà anh từng gặp gỡ như: Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Bảo Ninh,
Hữu Ước…
(Bài
: Nhà thơ và họa sĩ vẽ “ Người”)
Trên
website http://vietbao.vn Nhà thơ, nhà báo Hữu Việt đã
hé mở VÙNG TỐI NGUYỄN QUANG THIỀU, từ VÙNG TỐI hết sức bí mật này, ông Thiều
được những cơ quan chức năng siêu bí mật làm giả hồ sơ, biến ông từ một nơi CƠ
QUAN QUAN TRỌNG- hoạt động bí mật sau khi học ở Cu Ba về VỚI MỘT LÝ LỊCH GIẢ để
ông ra công khai, rằng ông Thiều từng làm ở cơ quan y tế, nay được chuyển
sang hoạt động văn học nghệ thuật như sau :
Trước
khi về báo Văn Nghệ, đại khái người ta chỉ biết ông tốt nghiệp đại học ở Cuba
và vào thời điểm ấy ông là một trong số hiếm hoi các nhà văn trẻ biết tiếng Anh
khá.
Ông
làm việc ở một cơ quan quan trọng nào đó, nhưng khi ra ngoài công khai, giấy tờ
chính thức của ông là cán bộ Bộ Y tế. Ít ai ngờ, nhà thơ trẻ ấy sau này lại trở
thành một người làm báo – và viết báo.
Trích
bài : “Nguyễn Quang Thiều rời báo Văn Nghệ: Nỗi buồn của anh kép rời sân khấu”-
nhà thơ, nhà báo Hữu Việt”
QUAN
ĐIỂM THI CA CỦA NGUYỄN QUANG THIỀU
Trong
bài viết: “Trong khu vườn của người đàn bà tên Thúy”, như một định đề nghệ
thuật, một xác tín thi pháp, một ẩn dụ tiêu chí thi ca, một định hướng thi
pháp, một tuyên ngôn thơ thông qua trường hợp sáng tác của nhà thơ nữ trẻ Đinh
Thị Như Thúy, Nguyễn Quang Thiều trang trọng đến rưng rưng thơ hóa lý luận, như
sau :
“Nhưng
quan niệm về nghệ thuật thơ ca của tôi đang tiến đến điểm cuối của một quan
niệm mà tôi đã từng đọc, đã từng chống đối, đã nhìn lại, đã bị thuyết phục và
trở thành đồng nhất. Đó là: ngôn ngữ thơ ca gần với tiếng nói đời thường nhất
….
Sự
quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những
cấu trúc đầy tính hình thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay tìm cách gán ép
cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự
thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.
…
…Với
cách nhìn đó, Ðinh Thị Như
Thuý là một trong không nhiều những nhà thơ tôi đọc đi đọc lại. Đinh
Thị Như Thuý là nhà thơ của ai và thuộc thế hệ nào của thơ ca Việt Nam?
….
Tôi
đọc tất cả những tập thơ Đinh Thị Như Thuý đã xuất bản. Có những bài thơ của
chị tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Có những lần đọc nhưng không chú tâm để hiểu
và cũng không lợi dụng những điểm tương đồng để tự tạo những cảm xúc cho mình.
Đọc như đi qua một cánh đồng, một dòng sông hay một thị trấn mà không có mục
đích. Và chính xác hơn, đọc như đứng trong một ngôi nhà đã mở hết các ô cửa,
không có ai ở đó, không có bất kỳ sự chỉ dẫn nào, mà đứng với một sự mở bốn
phía để bắt đầu cuộc trò chuyện. Sự đọc ấy giống như người ta vẫn đi trên con
đường từ nhà ra cánh đồng và trở về trong suốt cuộc đời mình. Và hành trình
liên tục như sự tự nhiên của đời sống này làm cho ta một ngày không thể rời xa
được.Nhưng trong bài viết này, tôi lấy bài thơ dài Nơi ngày đông
gió thổi để trò chuyện. Mà thực ra, tôi cũng không dùng những câu
thơ trích để nói về thơ chị hay con người chị. Đó thực sự chưa hẳn là mục đích
của bài viết này. Tôi nói về thơ chị như bấy lâu nay những bài thơ của chị vẫn
chập chờn đâu đó. Nó nhiều lúc chẳng rõ ràng trong tôi. Nó luôn luôn tạo ra một
cảm giác “ở đâu đấy” quanh tôi. Vừa gần gũi vừa xa lạ. Vừa đóng lại và vừa mở
ra. Vừa như những bài thơ có khả năng giấu đi mọi phô diễn của kỹ thuật ngôn từ
và vừa như là sự liên tiếp của những hành động vụng về nhưng chính xác đến
không tưởng. Nhưng có một điều bất biến kể từ khi tôi đọc tập thơ đầu tiên cho
đến những bài thơ mới nhất của chị. Điều bất biến đó là tôi chưa bao giờ đi ra
khỏi ý nghĩ của mình khi đọc những câu thơ của chị — ý nghĩ về người đàn bà
mang tên Thuý chỉ sống trong một khu vườn từ lúc sinh ra đến bây giờ và chắc
chắn đến giây phút chị rời bỏ sự hiện hữu của chị trên thế gian. Nhưng quả
thực, ý nghĩ đó không phải là trí tưởng tượng và tồi tệ hơn nữa nếu Ċó lại lại
sự suy đoán. Ý nghĩ ấy là một hiện thực minh bạch đến kỳ lạ.
…
Và
trong khu vườn nhỏ của mình, người đàn bà tên Thuý đã lúc nào cũng mở to đôi
mắt nhìn đời sống này như một đứa trẻ nhiều đau ốm và sợ hãi và hoảng sợ và
khát vọng. Tất cả những ngơ ngác, những đau ốm, những hoảng sợ, những tuyệt
vọng và những khát vọng của người đàn bà tên Thuý là của chúng ta. Những trạng
thái ấy chính là đức hạnh thực sự của con người. Những điều đó đẩy chúng ta trở
lại nguồn gốc đời sống của con người. Khi chị viết: Người đàn bà chăm chú dõi
tìm trái đỏ trong cây là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu
hoạch cà phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đã rời khỏi thân xác của một hiện thực
đen tối như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể tìm một hình ảnh
nào giản dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản
dị đến mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật
hiển nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đã mở đôi mắt đến
không còn khả năng mở hơn nữa và nhìn thẳng vào cái trái đỏ trong vòm lá thẫm
tối kia với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nhìn đó giống như
người ta điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên
sắc nét như một sự tinh kết cao nhất. Hình ảnh ấy ngày từ đầu đã dựng lên trong
tôi hình ảnh một Nữ thần ái tình đang bay trong vòm trời màu lục và vươn những
ngón tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia. Chị không áp đặt
tình yêu những người lao động vào tôi, không lên tiếng với tôi về sự khổ hạnh
của những người đàn bà vất vả và ngèo đói, chị không được phép làm thế vì chị
là một nhà thơ.”
Và
tiếp tục vào hai mươi đợt, sẽ đọc được bài thơ dài miên man “ Nơi ngày động gió
thổi” của Đinh Thị Như Thúy, hay đánh vào http://google.com
tiêu đề “ Nơi ngày đông gió thổi Tiền vệ” sẽ đọc được bài thơ dài này)
Với
Nguyễn Quang Thiều, sau bao nhiêu năm tím kiếm, vật vã, phản biện, day dứt,
cuối cùng ông mới chợt ngộ ra chân lý nghệ thuật nói chung, chân lý thi ca nói
riêng là làm sao cho : “NGÔN NGỮ THƠ CA GẦN VỚI TIẾNG NÓI ĐỜI THƯỜNG
NHẤT”. Tưởng chuyện gì ghê gớm, hóa ra là tiêu chí của các trào lưu hiện thực
trong nghệ thuật đã ra đời từ rất sớm, quyết đưa thi ca trở về gần với ngôn ngữ
thường nhật, ngôn ngữ bình dân, mà một đứa trẻ học cấp hai ở Việt Nam đã học:
tính hiện thực của văn học, của thi ca.
Về
chuyện “ngôn ngữ thi ca gần với ngôn ngữ đời thường” thì từ thời cổ đại, khi
chưa có chữ viết, nhân loại đã sáng tạo ra dòng VĂN CHƯƠNG TRUYỀN MIỆNG là ca
dao tục ngữ, như ca dao Việt Nam hay Kinh Thi của Trung Quốc, kinh Vệ đà Ấn
độ…dân gian đã thực thi nhiệm vụ mà Nguyễn Quang thiều vừa đặt ra: “đưa thi ca
về gần với tiếng nói thường nhật”.
Khi
nhân loại có chữ viết, dòng văn chương bác học xuất hiện, những nhà lập thuyết
nghệ thuật đầu tiên như Aristote thề kỷ thứ bốn trước công nguyên, với cuốn
“Thi pháp” (Poetics) đã đưa ra một khẩu hiện tuyệt vời cho Thi Ca: “Văn học hay
thi ca là sự mô phỏng (phản ánh) cuộc sống” cổ xúy cho việc đưa ngôn ngữ đời
thường vào thơ ( nhưng phải chọn lọc) đó sao ?
Nhà
lập thuyết văn học cổ đại Ấn độ là Bharata trong cuốn “Natyasastra” (sách dạy
lý thuyết sân khấu) cũng lấy tiêu chuẩn chân thực, đưa ngôn ngữ bình dân lên
kịch, lên thơ nhưng phải mài giũa, mở ra ba thế giới là thế giới thực
tại, thế giới tâm linh và thế giới thần linh, gọi là cảm thức linh hồn của kịch
thơ( bi hài kịch) đó sao ?
Thế
kỷ thứ sáu sau công nguyên thời Ngụy-Tấn, nhà lý luận văn nghệ đầu tiên của
Trung Quốc là Lưu Hiệp, trong chương “Nguyên đạo” mở đầu cho tác phẩm “Văn tâm
điêu long” phê phán thứ nghệ thuật hoang đường, đưa nghệ thuật thi ca từ mộng
xuống hòa với thực, tuy văn phải đẹp như vảy rồng( điêu long) nhưng xuất phát
từ Tâm (Văn tâm), mà Tâm thì bắt nguồn từ thực đó sao ?
Nói
chung, yêu cầu của nhà thơ, nhà thi pháp Nguyễn Quang Thiều vừa phát hiện ra
được ông coi như sẽ chấn động thi đàn, tựu trung đã có từ thời cổ đại. Về việc
này, cũng giống như ông Thiều vừa phát hiện ra một chân lý và vội công bố với
toàn thế giới rằng: mặt trời cư ngụ nơi ban ngày, mặt trăng cư ngụ nơi ban đêm
vậy.
Nhưng
Nguyễn Quang Thiều đã vượt qua tiêu chuẩn “đưa thi ca xuống GẦN với ngôn ngữ
thường nhật” bằng bước “đại nhảy vọt” như sau : “
“Sự
quyến rũ của ngôn ngữ không phải là sự tầng tầng lớp lớp những nghĩa và những
cấu trúc đầy tính hình thức mà chúng ta cố tạo ra cho nó hay tìm cách gán ép
cho nó. Mà sự quyến rũ của ngôn ngữ là khi nó bị ném thẳng vào bức tường của sự
thật và ngay lập tức bật trở lại như chúng ta ném một quả bóng.”
…
Từ
đây, Nguyễn Quang Thiều đã làm cuộc đại cách mạng văn hóa thi ca: đơn nghĩa hóa
sự đa nghĩa của thi ca từ trước đến giờ. Tức là làm thơ là nói như người ta nói
hàng ngày, không cần chọn lọc, không cần trau chuốt, không cần nghệ thuật,
không cần ẩn nghĩa, hàm nghĩa, tức xóa sổ nghĩa bóng của thi ca, đả đảo đa ngữ
nghĩa thi ca, đả đảo khẩu hiệu “thi tại ngôn ngoại” của cổ nhân, đả đảo các
biểu tượng, ẩn tượng, hàm tượng thi ca. Thơ với Nguyễn Quang Thiều là có gì nói
toẹt ra ngay, hoan hô nghĩa đen, nghĩa đen tuyệt đối, xử tử bọn phản động HÀM
NGÔN, bọn lên đồng có tên là NGHĨA BÓNG.
Làm
thơ, với Nguyễn Quang Thiều là hành vi ném thẳng NGÔN NGỮ vào BỨC TƯỜNG SỰ THẬT
NHƯ NÉM MỘT QUẢ BÓNG, nó sẽ bật trở lại ngay lập tức một quả bóng : “như chúng
ta ném một quả bóng”. Nghĩa là, sự vật được phóng chiếu qua đôi mắt, qua tư
tưởng, tâm hồn nhà thơ, bật ra y nguyên như hình ảnh ban đầu nhà thơ ngó thấy.
Thơ đối với Nguyễn Quang Thiều là nhìn thấy sự vật tồn tại, hoạt động như thế
nào thì viết ra như thế, thật hơn cả máy chụp hình. Chẳng hạn, khi nhìn thấy
con mèo đen leo lên lưng một con mèo trắng, ông Thiều sẽ viết y như lý luận thơ
phi thơ ông vừa công bố với thế giới mà rằng :
Một
con mèo đen bò lên mái nhà sau khi ôm bầu trời gào thét
Nó
thấy một con mèo trắng cũng gào như cha chết
Ôi
tình yêu khởi thủy từ những tiếng gào
Chú
linh miêu của thần linh bước qua mái nhà lợp bằng ngói nâu quê hương ta
Dễ
sợ chưa cả loài người ơi
Hai
con miu miu ngừng gào im lặng như chú kiến đang ngủ
Chúng
leo lên lưng nhau như leo lên chiếc thang hạnh phúc
….
Viết
thơ như thế này, trước Nguyễn Quang Thiều hàng mấy trăm năm, tác giả (hay tập
thể tác giả) đã làm nên bài “thơhay” là “Bài thơ con cóc”, sáng tác ra phương
pháp “tuyệt đối chân” trong thi ca mà Nguyễn Quang Thiều vừa khám phá :
Con
cóc trong hang
Con
cóc nhảy ra
Con
cóc nhảy ra
Con
cóc ngồi đấy
Con
cóc ngồi đấy
Con
cóc nhảy đi
Xin
quý bạn đọc tham khảo bài viết ca ngợi bài thơ này của nhà phê bình văn học,
giáo sư Nguyễn Hưng Quốc: “Nguyễn Hưng Quốc – thơ con cóc, một bài thơ hay” (http://luutrutailieuhoctap.wordpress.com/2011/08/21/nguy%E1%BB%85n-h%C6%B0ng-qu%E1%BB%91c-th%C6%A1-con-coc-m%E1%BB%99t-bai-th%C6%A1-hay/)
Thi
pháp Nguyễn Quang Thiều là thi pháp phản truyền thống: truyền thống cho thơ
phài đa nghĩa thì ông Thiều quyết làm thơ đơn nghĩa; truyền thống cho thơ phải
kiệm lời thì thơ ông Thiều rất lắm lời; truyền thống cho thơ phải hàm súc thì
ông Thiều làm loài thơ lạnh tanh, xóa mọi hàm ngôn (tâm hồn lạnh tanh máu cá/
nhiệt tình xuống quá độ âm – Chế Lan Viên); truyền thống cho thơ phải êm tai,
phải có nhạc tính thì thơ ông Thiều chủ trương phải gắt như mắm tôm; truyền
thống cho thơ phải có âm dương điều hòa trong ngữ nghĩa thì ông Thiều chủ
trương thơ phải độc âm hay độc dương, không có thể đưa chủ nghĩa hài hòa của
đồng chí Hồ Cẩm Đào vào đây được à ghen (!)
Tuy
cùng thi pháp NÓI TOẸT RA như trường thơ Con cóc, nhưng Nguyễn Quang Thiều (có
lẽ) còn phải cách tân TRƯỜNG THƠ CON CÓC thêm một lần nữa là tuyệt đối cấm kiệm
lời trong thơ; rằng thơ thì phải rậm lời, lắm lời, lắm điều, cần phải kéo dài
câu thơ ra như kéo dài kẹo kéo. Có lẽ, rồi đây, chủ soái trường phài thơ TÂN
CON CÓC , sẽ sửa lại bài thơ “tuyệt bút” Con cóc theo “thi pháp kẹo kéo”
của ông cho hợp với môn phái TÂN HÌNH THỨC – TÂN CON CÓC mà ông vừa sáng tạo
ra.
Kẻ
viết bài này xin phép học theo lối thơ ông Thiều mà thử múa rìu qua mắt thợ,
chuyển bài thơ Con cóc từ cổ điển sang trường phái HẬU HIỆN ĐẠI-TÂN CON CÓC của
ông Thiều, xem ông có hài lòng hay không về món “TÂN …CON CÓC”, tức thơ con cóc
hiện đại, như sau :
“Con
cóc ngồi trong hang tư duy về thế giới sao mày có mặt nơi đây
Con
cóc bò ra ngó lên vũ trụ thắc mắc : tồn tại hay không tồn tại
Con
cóc nhảy đi tìm hư vô, tìm sự cô đơn vô nghĩa có tên là vũ trụ
Con
cóc nhảy đi cũng như không nhảy vì sự giới hạn không cho phép nó vô hạn
Con
cóc bèn tọa thiền ngồi im thít thít như cục thịt đông của cái thế giới mà lửa
cũng đóng thành băng tuyết
Con
cóc nhảy vào hư vô mà cái hang chính là bầu trời, thi ca ơi, thượng đế ơi trả
ta con cóc siêu hình con cóc nhân văn
…
Chúng
tôi xin thông báo một điều mà chắc ông Nguyễn Quang Thiều sẽ giật thót: trước
ông mấy chục năm, thi hào Xuân Diệu (Thơ thơ, Gửi hương cho gió”) sau khi được
giác ngộ cách mạng từ bỏ chủ nghĩa lãng mạn trong thơ, đi theo tiêu chí văn
nghệ phục vụ chính trị, đã cách tân bài thơ con cóc trước cả Nguyễn Quang
Thiều. Thực ra, chủ nghĩa hậu hiện đại tân thời con cóc trong thơ phải
lấy Xuân Diệu làm tiên sư chứ không phải ông Thiều như ông đang nhầm lẫn.
Chúng
tôi nhớ cách đây hơn 50 năm, vào đầu những năm sáu mươi của thế kỷ trước,
lúc còn ngồi trên ghế nhà trường, chúng tôi đã tập tành làm thơ theo khẩu hiệu
“duy thật” của Xuan Diệu: Chân chân chân – thật thật thật, với “thi pháp con
đỉa” lấy câu thơ mà đi đâu Xuận Diệu cũng bình là một câu thơ hay nhất của đời
ông làm chuẩn mực thi ca: “ CON ĐỈA BÒ QUA MÔ ĐẤT CHẾT”…Cũng như Nguyễn Quang
Thiều lấy câu thơ của Đinh Thị Như Thúy : “
Khi
chị (Đinh Thị Như Thúy) viết câu thơ : “NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DÕI TÌM TRÁI ĐỎ
TRONG CÂY” là tôi hiểu chị viết về những người đàn bà trong mùa thu hoạch cà
phê. Nhưng ánh sáng của câu thơ đã rời khỏi thân xác của một hiện thực đen tối
như ánh lửa rời thân xác của một khúc gỗ. Khó có thể tìm một hình ảnh nào giản
dị hơn và đẹp hơn câu thơ này khi viết từ hiện thực thô lược ấy. Nó giản dị đến
mức làm cho rất nhiều các nhà thơ có thể cười khẩy với tôi. Điều đó thật hiển
nhiên và thật dễ hiểu. Nhưng để viết câu thơ đó, chị đã mở đôi mắt đến không
còn khả năng mở hơn nữa và nhìn thẳng vào cái trái đỏ trong vòm lá thẫm tối kia
với một lượng thời gian bằng đúng tuổi đời chị. Cái nhìn đó giống như người ta
điều chỉnh ống kính máy ảnh vào một điểm để cuối cùng để nó hiện lên sắc nét
như một sự tinh kết cao nhất. Hình ảnh ấy ngày từ đầu đã dựng lên trong tôi
hình ảnh một Nữ thần ái tình đang bay trong vòm trời màu lục và vươn những ngón
tay mảnh rẻ và run rấy để chạm vào ngôi sao lấp lánh kia
(đã
dẫn)
Câu
văn trần thuật đơn giản, tầm thường “Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ
trong cây” của Đinh Thị Như Thúy chợt lóe sáng trong đầu nhà lập thuyết thi ca
Nguyễn Quang Thiều một ẩn dụ triết học thi thiên để sinh ra trường phái thơ
“Tân…con cóc”, quả tình là điều bí hiểm mà người trần mắt thịt chúng ta hầu như
chưa lĩnh hội được. Như thế này, chắc sẽ có hàng ngàn nữ thi hữu trẻ bắt chước
câu văn đơn giản: “Người đàn bà chăm chú dõi tìm trái đỏ trong cây” mà ông
Thiều cho vào hàng câu thơ hay kiệt xuất, để xuất hiện hàng nghìn sự kiện văn
học khác làm chấn động thế giới; ví như: “Em gái mê mẩn vọc đất săn tìm một củ
khoai lang tím sót”, “Mẹ ngước mắt lên bầu trời tìm xem có ngôi sao nào con của
mình không?”, “Anh đi đâu mà không đi vô đường làng em xem hội”…
Bắt
chước Xuân Diệu xưa dùng câu văn trần thuật thô thiển rồi hoang tưởng gọi là
thơ: “CON ĐỈA BÒ QUA MÔ ĐẤT CHẾT” để tạo ra trường thơ hiện thực xã hội chủ
nghĩa, nay Nguyễn Quang Thiều cũng dùng một câu văn trần thuật thô thiển của
Đinh Thị Như Thúy: “NGƯỜI ĐÀN BÀ CHĂM CHÚ DÕI TÌM TRÁI ĐỎ TRONG CÂY” làm hứng
khởi cho nguồn sáng tạo ra thi pháp “TÂN…CON CÓC” của mình. Chỉ có điều, Nguyễn
Quang Thiều đã thó thi pháp này của Xuân Diệu.
TRƯỜNG
THƠ “TÂN CON CÓC” ĐANG LÀM CHỦ THI ĐÀN
Là
người chủ soái của trường thơ “Tân con cóc”, tất nhiên Nguyễn Quang Thiều hằng
làm gương sáng cho các thi hữu noi theo. Chúng tôi xin dẫn ra mấy bài thơ theo
trường phái “Tân con cóc” của ông Thiều để bạn đọc kiểm chứng:
Trích
bài thơ “H. đang về nhà” của Nguyễn Quang Thiều :
Phía
trên những vòm lá bất ổn
Treo
một bầu trời
Những
con chim vừa bay
Vừa
xé rách những lông vũ
Và
một con khóc
Và
một con không đập cánh
Trôi
tựa đám mây theo chiều gió
Và
một con khác ngủ
Và
con bay cuối đàn
Không
nói gì
Các
từ ngữ (sáo) hay motif (cải lương) được lặp đi lặp lại trong thơ Nguyễn Quang
Thiều:
“em
ung thư vú”, “thân xác em”, “điên dại”, “da thịt”, (khóc: con mèo khóc, anh
khóc, em khóc, chiếc gối khóc, cái chăn khóc, con voi khóc, con kiến khóc, con
rệp khóc, giời khóc, chim khóc, bướm khóc, một tỉ cái cùng khóc trong thơ NQT)
“chiếc
giường”, “bộ phận sinh dục”,”loạn luân”, “con chó đái”, “thủ dâm”, bán dâm”,
“trần truồng”, “khỏa thân trong giường”, “làm tình ban ngày”, “kỳ vĩ”, “tinh
khiết”, “ngập tràn”, chuyển động”, mộng du”, “miên man”, “người đàn bà tội
lỗi”, “ác mộng”, “vô vọng”, “trống rỗng”…
Bài
thơ: “Những công việc của tháng mười một” của Nguyễn Quang Thiều :
“Cuối
cùng ngươi cũng phải cất giọng, hỡi những lừa, lạc đà, những ngựa của con đường
vô định
Những
sư tử, những báo gấm, những hổ của rừng mang dáng vẻ kỳ vĩ đang mục ruỗng từ
bên trong
Những
dê, những chim ưng, những ong của mùa đông khan hiếm phấn hoa
Những
chim non của tổ chim xác xơ vì gió, những bướm của những cái kén thẫm tối
Những
cá của nước xiết, những côn trùng của lá mục
Và
những chúng ta của ngôn từ chết mai táng trong thân xác chuyển động
Không
thể nào còn nghe thấy lời của tháng Mười vừa mới lướt trên những cái lưỡi ướt
và nóng
Tháng
Mười Một mạnh hơn tất cả bởi sự trần trụi hơn cả những bộ xương bò nấu phở
Chưa
có chút dấu vết gì của tháng Mười Hai. Đừng lục tìm trong cổ thư
Lưỡi
dao sự thật của tháng Mười Một rạch một đường dọc những cái lưỡi phản bội
lại
những ngôn từ nổ ra từ đó với một cái bóng hoang tưởng rướn chạy
Kìa
những cái cây lộng lẫy và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm
Và
một kẻ đang gắng sức tìm lối đến Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên
Bởi
gã bị đôi giày mới mua ở cửa hiệu bán đồ Trung Quốc xoá mất đôi mắt
Và
sự nhầm lẫn tồi tệ khi đưa tay lần tìm tháng Mười Hai theo thứ tự của số đếm
Từ
thế gian tội lỗi và lú lẫn đến Thiên đường không phải là những bậc cầu thang ốp
bằng loại đá Tây Ban Nha gã lựa chọn
Gã
không phải là một kẻ điên. Gã làm âm bản của chúng ta. Một lần nữa
Chúng
ta lại không nhận ra một sự thật là không có cái gì gọi là tháng Mười Hai lúc
này
Và
những công việc của tháng Mười Một vẫn tiếp tục cho đến khi bắt đầu một lối rẽ
11/2007
Bài
thơ: “Hoa tiêu” của Nguyễn Quang Thiều:
Thư
gửi một người đã chết
hãy
nhắm mắt và đặt từng bước chân như đặt từng quân cờ
nếu
mở mắt anh sẽ chẳng thể nào đi qua cái quảng trường ấy được
chúng
sẽ lao vào anh — những kẻ rồ dại của thế kỷ trên xứ sở chúng ta
hãy
đi thật nhẹ và tự đọc bản thảo cuốn sách anh viết trong sợ hãi mê dại
một
con rắn rúc vào đám tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra
nó
muốn giết anh khi đơn âm đầu tiên của anh phát nổ
hãy
rẽ sang bên trái. Có nghe thấy tôi nói không. Nhưng đừng mở mắt
chỉ
hé mở một lần anh sẽ suốt đời không dám bước thêm một bước
anh
có nhớ cái cây ở ngã tư đường nơi có một kẻ đi theo anh
và
gã viết một con số vào chiếc sổ nhỏ hơn lòng tay của gã
hãy
rẽ trái một lần nữa. Anh không nhìn thấy tôi đâu. Vì thế đừng ngoái lại
và
đừng mở mắt. Phía trước có rất nhiều kẻ đang lao tới nhưng chúng sẽ không đâm
vào anh
chúng
vẫn nghĩ anh là một gã mù và chúng sẽ không tức tối vì nghĩ anh cản đường chúng
hãy
rẽ trái một lần nữa. Chúng nhổ nước bọt trước mặt anh. Nhưng đừng cho chúng
biết anh đã nhìn thấy
chúng
phóng một cú đấm gió về phía mặt anh. Đừng giật mình. Anh phải làm như là một
gã mù thực sự
nghĩa
là anh không nhìn thấy gì kể cả khi một người yêu dấu của anh đang đứng khóc
trước anh
nếu
anh mở mắt ra, dù mở giống một cái chớp mắt, chúng sẽ rú lên
trong
sự khoái trá chúng đánh mất từ lâu giờ tìm lại được
với
bằng chứng là anh đã mở đôi mắt của mình
và
sự khoái trá ấy chỉ ăn một thứ thức ăn là máu
tôi
vẫn đứng ở nơi anh xuất phát. Tôi không hề thay đổi dù một cái nhích chân
tôi
đang dõi theo anh với đôi mắt mở không được phép nhắm lại
dù
cái khoảnh khắc nhắm mắt ấy chỉ bằng 1/10 thời gian của một cái chớp mắt
khoảng
thời gian ấy đủ cho anh bị nghiền nát
anh
lại phải rẽ trái một lần nữa. Đừng dừng lại ngờ vực, và chuẩn bị rẽ trái một
lần nữa
tôi
đã thấy anh cố giấu bước chân lưỡng lự. Anh cố giấu sự nghi ngờ
nhưng
tôi vẫn nhận ra bởi cái nuốt nước bọt của nặng nhọc và khó khăn anh.
nào,
chuẩn bị rẽ thêm lần nữa. Nhưng vẫn là rẽ trái. Chỉ có rẽ trái. Đấy là lần rẽ
trái cuối cùng
và
bây giờ anh hãy mở mắt ra
thị
xã Hà Đông, đêm 4/10
Bài
thơ: “Những con mồi” của Nguyễn Quang Thiều:
Đêm
qua những con cá bơi quanh chiếc giường
Ngửi
chúng ta rồi bỏ đi
Và
bực dọc nói:
Chúng
ta không bao giờ ăn những con mồi chết
Chúng
ta có chết không?
Một
người thức giấc hỏi.
Nhưng
chẳng có câu trả lời nào.
Ngoài
bóng một bác sỹ tâm thần ghi bệnh án
In
trên bức tường phía đông
Trên
đầu chúng ta những con cá
Bơi
lùi về quá khứ
Chúng
muốn xem lại hồ sơ những chiếc lưỡi câu
Nhưng
chỉ còn lại một nhà kho mục nát
Trong
đó một chiếc đồng hồ
Chạy
từ lúc chúng ta chưa biết đến thời gian
Giữa
bất tận những con mồi
Bầy
cá nhắm mắt
Chỉ
mở ra khi nghe lệnh
Nhưng
một con không chịu nhắm mắt
Trong
suốt cuộc săn tìm
Rời
bỏ bầy quay lại
Và
nói với một con mồi
Ngươi
đã hết thời gian chết
Bài
thơ “ Lịch sử tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ” của Nguyễn Quang Thiều :
Người hướng dẫn: Được dệt
thủ công bởi một người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ
|
Người mua: Mua lại từ một
ông già da đen Cuba ở Havana năm 1986
Chủ nhân: Quà tặng của con
trai tôi. Được treo trên bức tường này 21 năm.
Lúc gần sáng tiếng những
cành khô gãy
Những con nai cái mùa động
đực
Chủ nhân bức thảm 87 tuổi
tỉnh giấc uống trà nguội
Những con nai đực ngùn ngụt
Ngôi nhà như không bao giờ
mở cửa
Một bà già đi tiểu lần thứ
5, nói:
“Mẹ đau lắm”
21 năm tấm thảm không thay
đổi chỗ treo
Người đàn ông 50 tuổi
thường trở về và đứng
Trong ngôi nhà nửa bóng tối
Tràn ngập tấm thảm tiếng hô
hoán
Và phía sau tấm thảm
Một lưỡi dao lạnh lùng đợi
Và một cái chảo sùng sục
sôi
Người hướng dẫn: Những ngón
tay người đàn bà mù Thổ Nhĩ Kỳ giờ bị liệt
Người mua: Ông già da đen
Cuba đã tự vẫn
Chủ nhân: Tôi chỉ nhớ gương
mặt con trai tôi khi nó mở bức thảm ra
Có một người lúc nào cũng
rét
Đứng nhìn tấm thảm
Hai bàn chân bị đông cứng
trong vũng máu
Ở chân tường
Người hướng dẫn: (đã bỏ
nghề)
Người mua: Hình như không
phải tấm thảm tôi đã mua
Chủ nhân: Tôi nhìn thấy
những người thân đã chết chạy nấp sau những gốc cây trong tấm thảm
Bây giờ là năm thứ 22.
Một
nhà “Thiều học” là ông Nguyễn Chí Hoan, hiện phụ trách ban lý luận phê bình báo
Văn Nghệ, đã viết một bài giải mã thơ Nguyễn Quang Thiều có tên: “Lịch sử tấm
thảm Thổ nhĩ kỳ”- “THƠ KHÔNG ĐỂ HIỂU” in trên báo Văn Nghệ tết Canh Dần, như
một chìa khóa siêu đẳng giúp mọi người biết cách thưởng ngoạn thơ của vị chủ
soái trường thơ “Tân…con cóc” này. Rằng Nguyễn Quang Thiều làm thơ bằng vô thức
nên không dùng sự hiểu để tiếp cận được. Hãy nhắm tít tìn tịt mắt lại, ngồi co
người vào mà tưởng tượng, may ra mới thưởng thức được siêu thơ “Lịch sử tấm
thảm Thổ Nhĩ kỳ” trên.
Chúng
tôi đã viết bài phê phán quan điểm tầm phào này của Nguyễn Chí Hoan, một nhà lý
luận phê bình giỏi nhất của Hội nhà văn, còn giỏi hơn ông đại tá Lê Thành
Nghị hiện là Chủ tịch hội đồng lí luận phê bình Hội nhà văn VN. Xin các bạn vào
trang mạng này: http://dohoang.vnweblogs.com/post/3360/365172,
http://dohoang.vnweblogspot.com
Hoặc
đánh vào công cụ tìm kiếm http://google.com tiêu đề:
“Tấm thảm Thổ nhĩ kỳ”- Thơ không thể hiểu” sẽ đọc được bài của chúng tôi phê
bình quan điểm tào lao của Nguyễn Chí Hoan.
Nhân
việc công bố trường thơ “tân con cóc” của Nguyễn Quang Thiều, chúng tôi cũng
muốn ăn theo mà làm ngay lập tức một bài thơ theo trường thơ “Tân… con cóc”,
ngõ hầu tranh đua tài cán với chủ soái thi đàn Nguyễn Quang Thiều :
Bài
thơ ứng tác : NGƯỜI ĐÀN BÀ ÔM NỖI BUỒN CỐ HƯƠNG MÀ NGỦ
Người
đàn bà Làng Chiền mang một âm hộ cũ từ dưới sông lên
Những
con cá khỏa thân quẫy trắng sông đành đạch vỗ tay đưa tiễn nàng tiên cá lên bờ
u uẩn
Bà
đi vào Làng Chiền thu không cả buổi chiều quên mặc yếm
Hai
bầu vú của bà thõng xuống làm bọn mướp sắp hái trên giàn xấu hổ trốn sạch
Làng
Chiền của tôi khóc bằng con mắt chó con ngồi tứa nước bọt xem bà mẹ rán mỡ
Bà
nghe Làng Chiền thơm khen khét mùi lông cháy từ những căn bếp bồ hóng đang âm
mưu đen
Rồi
người đàn bà trút hết quần áo vào hoàng hôn
Bà
trút cả guốc dép vào con đường giun dế đang mưng mủ vì cơn sốt tư tưởng
Người
đàn bà ôm chiếc gối làm chồng, ôm cái chăn làm tình nhân bà rưng rức đau thương
Người đàn bà nghe chiếc bình vôi khóc miếng trầu vừa tự sát
Người đàn bà nghe chiếc bình vôi khóc miếng trầu vừa tự sát
Bà
hổn hển mơ thấy mình hổn hển
Than
ôi quê hương tôi- tôi ôm vào lòng cả nỗi buồn của con nhái bén
Những
con dế tỉ tê với bà vì chuyện ông trời góa vợ
Và
mặt trăng Làng Chiền là cái muôi lâu ngày không được múc canh
Cái
thìa của quê hương tôi nằm ngửa lên mà khoe bụng rỗng
Người
đàn bà ôm khói bếp Làng Chiền ngủ vùi cho sao đêm tiết canh
Nhưng
khói bếp đã bay rồi chỉ còn con mèo mướp trong lòng bà gào đòi làm tình
Người
đàn bà ôm cả nỗi buồn cố hương mà ngủ
Ngủ
như khi nằm mơ bà vẫn thấy mình ngủ
Ngủ
như giun dế trong đất thi thoảng thức bằng giấc mơ
Ôi
cát đổ một ban mai Làng Chiền tương tư quá khứ
Bà
ôm những hồn ma ngủ vùi cho đến khi ngày xưa xuất hiện
Ngày
xưa đến đập cửa gọi người đàn bà có bầu vú dài như sông Đáy:
Dậy
nào, bà ơi, cố hương không còn chỉ còn nỗi buồn tím chiều hoa xoan tang lễ
(hết
mô phỏng trường thơ “Tân …con cóc”)
Cứ
đà ngoáy bút nhanh hơn sóc chạy này, trong hai ngày hai đêm, có lẽ tín đồ
mới (TMH) của trường thơ “Tân…con cóc” này sẽ đuổi kịp ba mươi năm làm thơ “Tân
…con cóc” của Nguyễn Quang Thiều chăng ?
Trong
bài : ViệtNamlà một cường quốc thơ in trên báo văn hóa thể thao ngày
01/02/2012, Nguyễn Quang Thiều tuyên bố với thế giới :
“Tôi
có thể nói không ngần ngại rằng VN là một cường quốc về thơ, ít nhất là trong
khuôn khổ châu Á”.
http://thethaovanhoa.vn/173N20120201084338836T133/nguyen-quang-thieu-vn-la-mot-cuong-quoc-ve-tho.htm
Ôi
cường quốc thơ “tân… con cóc”: cường quốc thơ dễ dãi miên man, cường quốc thơ
ngô ngọng, cường quốc thơ giả cầy, cường quốc thơ tào lao xích bột… muôn năm…
Sài
Gòn ngày 18-6-2012
TMH
Nguồn: Blog Nhà thơ
Nguyễn Trọng Tạo
No comments:
Post a Comment