Người yêu thơ đã
từng biết đến nhà thơ quân đội Nguyễn Anh Nông với 7 tập thơ: Bàn tay lá cỏ
(Tập 1 - 1993), Bàn tay lá cỏ (Tập 2 - 1995), Kỵ sĩ ngựa gỗ (Thơ viết cho
thiếu nhi - 1998), Mây bay (2000), Những tháng năm ở rừng (2005),
Lững thững xanh (2010), Hà Nội và em (2011) và hai tập trường ca:
Trường Sơn (2009), Gửi Bin Ghết (Bill Gates) & Trời xanh (2011)
mới đây nhất là hai trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập
Thành, Nxb Văn học, Hà Nội, 2012. Bằng số lượng tác phẩm
kể trên, đối với nhiều đọc giả đây là một ấn tượng “thật kinh ngạc về sức bút
thơ ông trong những ngày này” (Đỗ Trọng Khơi), “là trải nghiệm một cách nhìn
sáng tạo, mạnh mẽ và đột phá” (Nguyễn Văn Lai), “Như một thành tựu, thơ Nguyễn Anh
Nông đã có nhiều điều hơn người ở thể thơ ngắn. Như một khai phá, thơ
Nguyễn Anh Nông đang có nhiều điều khác người ở trường ca” (Đỗ Quyên).
Là một đọc giả nghiêm túc với lòng trân trọng sự sáng tạo của tác giả, tôi đã cố gắng đọc đi đọc lại thơ Nguyễn Anh Nông nhiều lần nhưng thú thực thơ anh không “quyến rũ” được tôi bởi ngôn ngữ, hình ảnh, nội dung, ý tưởng… Tôi định sẽ yên lặng sau khi đọc hầu hết các tác phẩm đã xuất bản của anh vì chính anh đã từng thú nhận: “Khách văn thường đỏng đảnh/ Ý tình dài lê thê/ Văn mình thì phải… nhất/ Đừng ai người khen chê”. Vì thế: “Đừng ngu mà lỡ miệng/ Kiềng mặt đến hết đời”. Nhưng khi đọc hai trường ca mới xuất bản, tôi chợt nhận ra “khí tiết” của con người ấy: “Mấy lần quăng bút mực/ Mặt mày buồn ủ ê/ Thế là đành xin lỗi/ Ta lại cưới nàng về/ Tháng ngày ta lọ mọ/ Buồn vui cùng nàng thơ” nên tôi quyết định lên tiếng như một điều tự thân của người tiếp nhận.
Trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập
Thành, theo đánh giá của số đông đọc giả, mà nhất là những người bạn thân
thiết của anh thì đây là một thành công nhất định trên hành trình, tìm kiếm và
đổi mới thơ của Nguyễn Anh Nông. Nó tạo ra một ấn tượng mạnh vì lối viết tự động tâm linh
và sự khai thác tối đa thế mạnh của nhạc tính trong thơ. Phải khẳng định rằng
lối viết tự
động tâm linh
đã trở nên quen thuộc trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam
nói riêng. Cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX, khi Chủ nghĩa Siêu thực ra đời với
các tên tuổi: André Breton,
Baudelaire... thì lối viết này chính thức được khai sinh ở phương
Tây, sau đó nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới, trong đó có Việt Nam với các
sáng tác của: Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Quang Thiều, Lê Đạt, Trần Dần,
Đặng Đình Hưng, Thanh Thảo...
Có lẽ, tác giả tự nhận ra rằng: “Thơ Nguyễn Anh Nông những
ngày đầu không không gây ấn tượng gì đáng kể”(Đỗ Trọng Khơi). Là người cầm bút,
bản thân mỗi người luôn tự ý thức phải sáng tạo, sáng tạo không ngừng, muốn
sống thì chỉ có một cách duy nhất là sáng tạo. Không chịu bó tay, nhìn thơ mình
dần bị đẩy về phía cái chết và sự quên lãng vì sự cũ mòn, quen thuộc và nhàm
chán Nguyễn Anh Nông đã quết tâm lao mình vào trận chiến và bước đầu đã tìm
ra giải pháp: “phá khuôn mòn bỏ lối quen” (Xuân Diệu) bằng cách tạo ra cho thơ
mình một diện mạo mới bất ngờ và sáng tạo. Đó là những câu thơ không hạn định
về số câu, số chữ, chúng bị chi phối bởi nhạc điệu và cảm xúc trong tâm hồn
tác giả, khiến cho chúng trở nên chênh vênh, hỗn loạn, không tuân theo bất kỳ
quy luật nào cả về vần điệu, nhịp điệu, số câu, số chữ… Những câu thơ mờ nhòe,
biến ảo và hoàn toàn buông thả của lối viết tự động tâm linh trong sự dẫn lối đưa đường của vô
thức, những cảm giác say, mộng mơ...
“Ta
đi tìm ta bâng khuâng hơi thu
Trời đã đông đâu mờ ảo sương mù?
Ta như vầng trăng tròn rồi lại khuyết
Ta như người say người say mộng mơ”.
Trời đã đông đâu mờ ảo sương mù?
Ta như vầng trăng tròn rồi lại khuyết
Ta như người say người say mộng mơ”.
(Trò
chuyện với cha con cu Lập Sơn)
“Bạn với bóng đêm rơm rạ nhọc nhằn
Giun
dế tấu bày bản tình ca định mệnh
Những
ảo mộng mông lung hưng phấn
Bao
con đường tới khát vọng hóa chông chênh”?
(Trò
chuyện với cha con cu Lập Sơn)
Không bó mình trong “khuôn vàng thức ngọc” với trật tự,
chỉnh tề như thơ cổ. Cũng không yểu điệu làm duyên như thơ mới. Thơ Nguyễn Anh
Nông không thiết vần, vứt bỏ nhịp, cứ tự do chảy, tự do dừng như dòng cảm xúc
bật ra trong tâm hồn. Tự do tuyệt đối cả về mặt tư duy thơ
và thể loại thơ. Tất cả phó mặc cho siêu nghiệm, hoàn toàn không có sự kiểm
soát của lý trí, mà nói đúng hơn là lý trí đã hoàn toàn bất lực bởi những cảm
giác: “bâng khuâng, say, mông lung, chông chênh”…. Tất cả chỉ là “mờ ảo sương
mù, say mộng mơ, ảo mộng mung lung”.
“Khơi
Oanh
Sơn
Thành...
Gió
mát
Hoa
đẹp
Hương
Thơm”...
(Lập
Thành)
Đừng thắc mắc và cũng đừng cất công đi tìm lời lý giải tại
sao đọc đi đọc lại mãi vẫn không hiểu đoạn thơ nói gì. “Thơ mãi mãi là bí mật”
(Thanh Thảo), nhà thơ không viết nó bằng lý trí nên không thể dùng lý trí
để phân tích, thơ không thể hiểu được mà chỉ có thể cảm nhận được bằng siêu
nghiệm. Đây vừa là một thế mạnh, vừa là một điểm yếu trong trường ca Trò
chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập Thành. Mạnh ở chỗ, nó là siêu
nghiệm nên chỉ có thể cảm nhận mà bản chất của sự cảm nhận là vô cùng biến ảo
và luôn phái sinh cảm xúc nên nó càng tạo độ mở cho thơ… Nó sẽ trở thành điểm
yếu nếu đọc thơ để hiểu, để nắm bắt nội dung, ý nghĩa…bằng lý trí, bằng tư duy
lôgic…
“Chiều nay (26 - 3 - 2011) ta lại ngồi vào bàn gõ những câu
thơ mộc - dòng chữ trào dâng niềm cảm xúc không xác định”.
(Trò
chuyện với cha con cu Lập Sơn)
“Mông lung, mơ hồ, rờ rỡ hay cục mịch, xù xì, gân guốc, ám
ảnh: Những nàng thơ, bức tranh, tượng, niềm vui, nỗi buồn khỏa thân cùng
trời đất
Những bời lời bạc lạc, hỗn mang, kết tụ, biến chất, phá
phách, hỗn xược, lấc láo, nhố nhăng, lăng loàn, chính chuyên, hỗn tạp, tinh
khiết, róc rách, tóc tách, ào ạt, man mác - mặc nhiên xanh”.
(Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn)
Trường ca Nguyễn Anh Nông còn là kết quả của quá trình giao thoa giữa văn xuôi và thơ. Đi xa về phía vần điệu là thơ, hướng về phía tư duy logic là văn xuôi. Thơ văn xuôi có nhạc tính nhưng không vần không nhịp, chúng được trình bày như những câu văn xuôi nhưng cách tư duy của chúng vẫn là tư duy thơ - tư duy hình tượng. Những câu thơ được đẩy theo trục ngang hình thành những cấu trúc thơ “phóng túng hình hài” tồn tại trong thế lệch chuẩn với câu thơ cách luật quen thuộc. Cách viết này vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, được cả thế giới xem như một phép lạ trong quá trình tìm tòi, sáng tạo và đổi mới thơ. “Kẻ nào trong chúng ta mà chẳng từng mơ tưởng trong những ngày ôm hoài bão, đến một phép lạ của một thứ thơ bằng văn xuôi, có nhạc tính mà không nhịp không vần, dù mềm dẻo và lay động khá mạnh để hợp với những rung chuyển của tâm tình muốn bộc lộ, với những dòng mơ gợn sóng những rung động đột nhiên của vô thức” (Baudelaire). Nguyễn Anh Nông cũng may mắn gặp được phép lạ ấy và phóng bút viết những câu thơ “phóng túng hình hài” trong trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập Thành.
Thơ văn xuôi Nguyễn Anh Nông hồn nhiên và tự do
như lời ăn tiếng nói mà con người dùng trong giao tiếp hằng ngày. Thế mạnh của
nó là phát huy được chất hiện thực của văn xuôi nên nó có khả năng chuyển tải được
mọi biểu hiện xù xì, thô nhám của cuộc sống. Chính vì thế mà: “Trường ca Trò
chuyện với cha con Cu Lập Sơn được cấu trúc, lập tứ (một cái cớ, sự hình
dung) qua hành trạng thời gian một số phận con người cụ thể” (Đỗ Trọng Khơi).
Còn: “Trường ca Lập Thành được dựng trong một không gian thân gần, trong
trẻo, tươi mát, đó là khoảng không gian làng quê trong một thế giới hoàn toàn
của trẻ thơ. Trong thế giới đó, cu Lập Thành sống với tuổi thơ ngây, hồn nhiên
cùng cây cỏ, đồ vật, cách chơi, cách nghĩ, suy tưởng của mình” (Đỗ trọng Khơi).
Nguyễn Anh Nông chấp nhận mọi “vật liệu” trong quá trình sáng tạo của mình
khiến cho chất hiện thực thấm sâu vào tận cùng từng ngõ ngách. Những câu thơ
được đẩy theo dòng chảy của cảm xúc nên mọi biên giới về vần, nhịp, dòng thơ bị
xóa bỏ, khiến các câu thơ chảy ùa về phía văn xuôi, tồn tại vô hình dạng như những giấc
mơ, ký ức, cơn say và tâm linh. Các câu thơ mặc sức đẩy đi và trượt
dài trên trục dọc vô biên với những “dòng chữ trào dâng niềm cảm xúc không xác
định”. Tất cả những gì ta tìm thấy trong thơ là “mông lung, mơ hồ, rờ rỡ” của
“những bời lời bạc lạc, hỗn mang, kết tụ, biến chất, phá phách, hỗn xược, lấc
láo, nhố nhăng, lăng loàn, chính chuyên, hỗn tạp, tinh khiết, róc rách, tóc
tách, ào ạt, man mác - mặc nhiên xanh”.
“Ý
thức, không ý thức
Bản
năng, khuôn phép hay vật tự nó?
Có
thể là một, hai, ba hoặc chẳng là gì cả?
Cũng
không sao, ta còn thời gian
Chảy
không ngưng nghỉ
Trong
động mạch và tĩnh mạch
Hồng
hào, hoan hỉ”.
(Lập
Thành)
Thơ
không hình hài cụ thể, không một giới hạn, một quy luật nào được tìm thấy, hình
ảnh thơ, nhịp thơ, cách ngắt dòng cứ mặc sức tung phá, nhập nhằng, bất định, mờ
ảo trong trạng thái mông lung giữa tâm thức và tiềm thức, “ý thức, không ý thức”,
giữa thực và hư, “bản năng, khuôn phép hay vật tự nó”… Chỉ có thể cảm nhận được
sự sống đang “chảy không ngơi nghỉ”, “trong động mạch và tĩnh mạch” sau khi đã
lắng lại lòng mình đến mức tận cùng và loại bỏ hoàn toàn tư duy phân tích và tư duy duy lý vì trong
trường hợp này, nó bộc lộ nhiều bất cập. Chúng không thể giải thích, thể hiện
được phần tiềm thức, vô thức, bí ẩn của những giấc mơ và thế giới tâm linh
ẩn sâu trong tâm hồn tác giả, phải quay trở về với đời sống
tự nhiên, bột phát về cảm xúc, hành động…
Được tạo nên bởi lối viết tự động tâm linh
nên thơ dung chứa mọi cách ngắt nhịp, cách ngừng nghỉ và không ngừng phái sinh
cảm xúc. Có lẽ, đây là tập trường ca có khả năng dung nạp hầu hết các thể thơ.
Từ thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, đến thơ tự do rồi thơ tứ tuyệt và
thơ văn xuôi...
Tất cả quện hòa vào nhau tạo nên dòng chảy riêng. Thơ là nhạc, nhạc là thơ.
Nhạc và thơ hòa quện với nhau tạo thành bản trường ca tràn ngập âm thanh.
“Tuyết
bỏng
Lửa
lạnh
Đất
nâu
Trời
xanh
Lộc
non
Chồi
biếc
Mắt
Môi
Má
hồng
Đắm
đuối
Gió
Hờn
ghen
Mây
Lồng
lộn…
(Lập Thành)
Tất
cả chìm sâu, mờ nhòe, tan rã chỉ còn lại một thứ duy nhất là âm nhạc. Hai
trường ca này có những đoạn thơ chỉ đơn thuần là những cung bậc âm thanh biểu
hiện những rung động trong tâm hồn tác giả khi nhận sự tác động của ngoại
giới nói chung và của đời sống con người nói riêng.
“U
U hay o hay ơ
Be
be, se se, khe khe hay tua te
Le
re, khua khi, đu đe, cho che
Me
me, ma ma, pa pa, bon te
U
ơ, a a, cha cha, ua ra, đa đa”…
(Lập
Thành)
Dùng nhạc điệu để diễn tả cảm xúc trong tâm hồn
và hướng người đọc cảm thơ bằng nhạc điệu cũng là một biểu hiện của lối viết tự động tâm linh
vì sâu trong tâm thức của người Việt luôn đầy ắp âm nhạc
được tạo ra từ những lời ru ngay từ thưở mới lọt lòng.
Một điều cần ghi nhận khi đọc hai trường ca này là Nguyễn
Anh Nông đã biết tự điều tiết trạng thái tâm thức và tiềm thức, biết kết hợp hài hòa
giữa thực và hư, giữa say và tỉnh trong cảm xúc thơ, giữa các thể thơ truyền
thống và mới mẻ trong cách viết. Viết trong trạng thái tự động tâm linh
nhưng không quá mê mãi… Mặc dù bài viết chỉ nhằm mục đích khai thác hai trường ca
ở lối viết này
nhưng không thể bỏ qua những giá trị được tạo ra từ tư duy duy lý. Trò
chuyện với cha con cu Lập Sơn có kết cấu gồm 5 chương thì lối viết này
chủ yếu được tìm thấy ở chương 1, chương 2 và chương 4, viết dưới
thể thơ tự do và thơ văn xuôi. Chương 3 và một phần của chương 2 là
thể thơ tứ tuyệt, chương 5 và một phần của chương 2 lại rất ấn tượng với những
đoạn viết bằng
thể thơ lục bát. Lập Thành thì được viết trong sự kết hợp giữa thể tự do và lục
bát. Như vậy, hai trường ca này là sự dung nạp nhiều lối viết khác
nhau, trong đó lối viết mà tác giả bài viết này
khảo sát chỉ là một. Đây là bằng chứng thuyết phục về ý thức kết hợp hài hòa
giữa tâm thức
và tiềm thức, giữa truyền thống và hiện đại ở cả cảm xúc và thể loại của Nguyễn
Anh Nông.
Tìm đến với lối viết tự động tâm linh vừa là một sáng tạo, một giải pháp, đem lại giá trị cho trường ca Trò chuyện với cha con cu Lập Sơn & Lập Thành. Có thể, nó sẽ trở thành một lý do nữa để có thêm những đọc giả mới nhớ đến cái tên Nguyễn Anh Nông và yêu thích thơ, trường ca của anh. Cũng có thể, nó sẽ trở thành “liều thuốc trường sinh” để hai trường ca này nói riêng và các sáng tác của anh nói chung không rơi vào “cái chết” trong sự lãng quên.
NGUYỄN ANH TUẤN
Nguồn: Phong Điệp
No comments:
Post a Comment