Trong
nền thơ ca đương đại Việt Nam, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều được coi như là một
nhà cách tân, làm dấy lên những cuộc tranh luận đa chiều. Nhân dịp Viện Văn học
tổ chức cuộc Tọa đàm: Thơ Nguyễn Quang Thiều trong sự đổi mới thơ Việt Nam
đương đại, Tạp chí Nhà văn xin trân trọng giới thiệu hai bài viết của nhà thơ
Mai Văn Phấn và PGS Hồ Thế Hà về thơ Nguyễn Quang Thiều.
MAI VĂN PHẤN: HIỆN TƯỢNG THƠ NGUYỄN
QUANG THIỀU VÀ LỘ TRÌNH CÁCH TÂN
Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng - NQT
1. Lời mở:
Trước năm 1975, những tìm kiếm để đạt tới lối biểu đạt mới và hiệu quả mới trong tư tưởng thi ca, rất phức tạp, đến nay còn chưa có sự khảo sát, nghiên cứu và đánh giá xác đáng, đầy đủ. Sau năm 1975, giữa lúc đội ngũ đông đảo các nhà thơ trong nước còn mơ hồ, ngờ hoặc về yêu cầu cách tân thơ, thì tập thơ Sự mất ngủ của lửa của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (Nxb. Lao động, 1992) đã cất tiếng nói khẳng định, đặt dấu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau. Tập thơ đoạt Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 1993, và, nhanh chóng làm xáo trộn tư duy đời sống thơ ca đương đại. Ánh sáng của tập thơ đã lan tỏa, tác động tích cực, sâu rộng trong đời sống thơ ca Việt, gây hiệu ứng dây chuyền. Bắt đầu xuất hiện nhiều tác giả trẻ với những cách viết mới lạ, nhiều khuynh hướng mới được hình thành. Hiện tượng tập thơ Sự mất ngủ của lửa, ở chừng mực nào đó gợi chúng ta liên tưởng tới hiện tượng thơ V. V. Mayakovsky của văn học Nga đầu thế kỷ XX; trường ca Đất hoang (The Waste Land) của Thomas Stearns Eliot trong văn học Mỹ những năm 50 thế kỷ vừa qua... Không ai có thể phủ nhận vai trò cột mốc văn học mà những tên tuổi kể trên đã đánh dấu. Thế hệ kế tiếp có thể viết hay hơn V. V. Mayakovsky hoặc T. S. Eliot, nhưng lịch sử văn học mãi ghi công những tác gia mở đường, đặt nền móng cho một khuynh hướng nghệ thuật mới.
2. Sự mất ngủ của lửa và cột
mốc cho dòng chảy cách tân
Buổi đầu, tập thơ Sự mất ngủ của
lửa đã làm dấy lên những ý kiến tranh luận nhiều chiều, đa dạng những thái
độ khen - chê. 20 năm trôi qua cho phép chúng ta gạn đục khơi trong, nhìn nhận
một cách khách quan giá trị Sự mất ngủ của lửa. Với tập thơ, Nguyễn
Quang Thiều thực sự đã làm cuộc vượt thoát ngoạn mục khi bỏ lại sau lưng những
vần điệu, thói quen, cách nhìn đơn tuyến mà ta từng thấy trong tập thơ đầu tay
của anh: Ngôi nhà 17 tuổi (Nxb. Thanh niên, 1990).
Nhìn tổng quan về thi pháp, thơ Nguyễn Quang Thiều trong Sự mất ngủ của lửa đã kiến tạo thành công những kết cấu mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình ảnh lạ lẫm, trương nở, chuyển động nhanh, khác hẳn với những quy luật cũ.
Cái nhìn về Sông Đáy là một thí dụ của khác biệt: Những con thuyền lần ra cửa biển/ Mưa rất dài ướt hết cả dòng sông (Những con thuyền sông Đáy). Nếu những hình ảnh con thuyền, cửa biển, cơn mưa, dòng sông... trong tập Ngôi nhà 17 tuổi vẫn là cách liên tưởng đơn tuyến, quen thuộc, ít gây bất ngờ, thì Sông Đáy trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa đã nhảy một bước dài: Cơn mơ vang lên tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn. Ở đây, cơn mơ, tiếng cá quẫy tuột câu, tiếng nấc, tôi, cuối nguồn là những hình ảnh cách biệt, xa nhau nhưng cùng cuộn trôi theo một từ trường cảm xúc mạnh, nhất quán, tạo được hiệu ứng không gian và bật lên sức liên tưởng mạnh mẽ: đó là cách liên tưởng đa tuyến. Thơ Nguyễn Quang Thiều thường không áp dụng cố định những thủ pháp của các trào lưu hiện đại, như siêu thực, tượng trưng, biểu hiện,... nhưng câu thơ trên có cách liên tưởng gần với tượng trưng, tạo hiệu ứng về hình ảnh và âm thanh rất kỳ lạ.
Nhìn tổng quan về thi pháp, thơ Nguyễn Quang Thiều trong Sự mất ngủ của lửa đã kiến tạo thành công những kết cấu mới, mở ra những liên tưởng phi tuyến tính, và đặc biệt, tạo những hình ảnh lạ lẫm, trương nở, chuyển động nhanh, khác hẳn với những quy luật cũ.
Cái nhìn về Sông Đáy là một thí dụ của khác biệt: Những con thuyền lần ra cửa biển/ Mưa rất dài ướt hết cả dòng sông (Những con thuyền sông Đáy). Nếu những hình ảnh con thuyền, cửa biển, cơn mưa, dòng sông... trong tập Ngôi nhà 17 tuổi vẫn là cách liên tưởng đơn tuyến, quen thuộc, ít gây bất ngờ, thì Sông Đáy trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa đã nhảy một bước dài: Cơn mơ vang lên tiếng cá quẫy tuột câu như một tiếng nấc/ Âm thầm vỡ trong tôi, âm thầm vỡ cuối nguồn. Ở đây, cơn mơ, tiếng cá quẫy tuột câu, tiếng nấc, tôi, cuối nguồn là những hình ảnh cách biệt, xa nhau nhưng cùng cuộn trôi theo một từ trường cảm xúc mạnh, nhất quán, tạo được hiệu ứng không gian và bật lên sức liên tưởng mạnh mẽ: đó là cách liên tưởng đa tuyến. Thơ Nguyễn Quang Thiều thường không áp dụng cố định những thủ pháp của các trào lưu hiện đại, như siêu thực, tượng trưng, biểu hiện,... nhưng câu thơ trên có cách liên tưởng gần với tượng trưng, tạo hiệu ứng về hình ảnh và âm thanh rất kỳ lạ.
Tập thơ Sự mất ngủ của lửa,
trước hết, làm bật lên nỗi khao khát về những cuộc lên đường, được giải phóng
khỏi những định chế cũ, quan niệm cũ. Những liên tưởng bất ngờ khởi đầu cho
cuộc lên đường thoát khỏi cảm hứng và ám ảnh cũ. Cán dậm chúi xuống mặt
đường - Những nòng súng gỗ hết đạn.../ Vảy cá bám trên áo họ lấp lánh
những tấm huân chương (Trên đại lộ); Một cơn sốt ngồi ôm một cơn sốt/
Những tiếng ho bình đẳng vỡ làm đôi (Thời gian); Thính cứ ném xuống đời
ta không ngủ (Mười một khúc cảm);...
Tính truyện và ngôn ngữ kể gần với
ngôn ngữ đời sống cũng là nét đặc sắc trong tập thơ này. Ông viết mà như nói.
Nói một cách nghệ thuật. Kiểu tường thuật này ít xuất hiện trong thơ
Việt trước đó, như: Những người đàn bà vác dậm đi thành một hàng dọc
về phía bên phải sát mép đại lộ/ Người họ bọc kín bởi những lớp vải nâu và đen...
Yếu tố tính dục và cơn khát giải
phóng nó rất mãnh liệt, thánh thiện đã được Việt hóa trong thơ Nguyễn Quang
Thiều: Bầu vú em gió núi đã thổi mát rượi (Một bài hát tình yêu của Làng
Chùa); Ta ôm nhau ngồi thở trước sao trời (Những ngôi sao);...
Trong nỗi khát khao trở về nguồn
cội, với tình yêu quê hương cháy bỏng, nhà thơ tạo nên những thi ảnh vừa ngẫu
nhiên, vừa mang tính ám dụ mới mẻ, mãnh liệt: Con muốn lẩn vào khăn áo đám
ma quê/ Con muốn đắp lên cơn ho của con tàn hương thơm và ấm (Âm nhạc); Chỉ
mùi khói phân trâu khô bên đường bén lửa/ Ngăn ngắt đắng vào giấc ngủ kẻ tha
phương (Tha phương). Trong Bài hát về cố hương tôi, thi sĩ đã hát
bằng khúc ruột mình chôn dưới nắm đất dế giun: Nó thành con giun đất.../ Bò
âm thầm dưới vại nước, bờ ao/ Bò quằn quại qua khu mồ dòng họ/ Bò qua bãi tha
ma người làng chết đói/ Đất đùn lên máu chảy ròng ròng...
Từ sau tập thơ Sự mất ngủ của lửa,
Nguyễn Quang Thiều luôn chú tâm khai triển toàn bộ tinh thần thi pháp mà ông đã
minh định. Nếu gọi Sự mất ngủ của lửa là vạch xuất phát thì đến nay, nhà
thơ đã để lại sau mình những xa lộ thênh thang, thẳng băng mà ít có những khúc
cua đột ngột. Ở lộ trình này, ông đã làm phong phú, phồn tạp hơn những gì được
khai mở trong tập thơ Sự mất ngủ của lửa bằng chính quá trình nhận diện
cuộc sống và hoàn thiện quan điểm thẩm mỹ.
3. Thời đại và nhà thơ
3. Thời đại và nhà thơ
Bóng dáng thời đại và thi pháp là
hai vấn đề lớn, mang tính quyết định để định danh định tính thơ Nguyễn
Quang Thiều trong lộ trình cách tân thi pháp. Thơ ông tỏa sáng và khuynh loát
trong nhiều đề tài với những cách biểu hiện khác nhau, với nhiều cung bậc cảm
xúc vượt khỏi phạm vi cảm hứng hiện thực và cả siêu thực. Thơ ông, dù viết về
đời thường dung dị vẫn ẩn chứa tài năng/ tài hoa và sự tinh tế. Những bài thơ Tiếng
cười, Con gái ơi, Bầy chó của tôi, Thời gian, Thì thào khu vườn, Về những đồ
vật có trên bàn viết, Bữa tối... là những ví dụ tiêu biểu. Bên cạnh
những bài thơ về xã hội, triết lý, nhân sinh, tiên tri,... nhiều bài thơ mang
tầm vóc thời đại với tầm tư tưởng lớn được Nguyễn Quang Thiều khắc hoạ thành
công, với tính khát quát và biểu tượng cao. Các bài như Bầy kiến qua bàn
tiệc, Dưới trăng và một bậc cửa, Con bống đen đẻ trứng, Nhịp điệu châu thổ mới,
Bài ca những con chim đêm, Nhân chứng của một cái chết, Cây ánh sáng,...
là những bức tranh minh họa sắc sảo cho mảng thơ này.
Hiện thực trong thơ Nguyễn Quang
Thiều thường được tái hiện như giấc mơ của người mệt mỏi, kiệt sức vì quá tải
trong những cơn dư chấn; là giấc mơ của người bệnh vừa thoát khỏi cơn tai biến
hiểm nghèo, hoặc như người vừa chợp mắt đã nhìn thấy những trải nghiệm trong
đời thực nhưng được phóng chiếu theo những cách thức khác lạ, có thể cảm nhận
được cả hơi thở nóng bỏng, sự khắc nghiệt đến kinh hoàng của đời sống trên da
thịt.
Thơ Nguyễn Quang Thiều có điểm khác
biệt rõ nét với phần đông các nhà thơ đi trước khi thơ ông không có sự mô
phỏng, sao chụp rồi đặt vào đó những ẩn ý, chủ ý. Nguyễn Quang Thiều thường bầy
tỏ thái độ thẳng thắn, quyết liệt, trực diện nhằm lý giải một cách chính xác
nhất bản chất, chân tướng của đời sống: Tôi là con chim sinh đầu hoàng hôn,
cuối bình minh chưa biết hót. Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm (Bài hát).
Đó đồng thời cũng là nỗi khắc khoải, khao khát tự do, công bằng, là chân lý của
mọi thế hệ, nhất là thế hệ ông: Cặp mỏ tấy sưng mổ những thì thầm. Khi
đọc câu thơ này, tôi chợt nhớ tới hình ảnh đứa trẻ trong đêm tối ngước lên cao
nhìn thấy ánh sáng của tự do, khát vọng hạnh phúc trong bài thơ Mây bay qua
của nhà thơ Nga Joseph Brodsky (Nobel Văn học 1987): Chỉ cần nhìn lên
cao mãi, chỉ cần nức nở không cùng, chỉ cần là một đứa trẻ của đêm tối,/ chỉ
cần nhìn lên cao mãi, chỉ cần hát và khóc,/ chỉ cần không biết tới nước mắt.”
(Mây bay qua, Diễm Châu dịch). Những vẻ đẹp lộng lẫy, rộng lớn nhiều khi
hiện hữu trong những điều hết sức bình dị của đời sống, trong hơi thở, trong cử
chỉ hành động và lối cảm nghĩ của mỗi chúng ta.
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã khắc
họa hình ảnh thế hệ mình đang sống trong những câu thơ: Tôi là con chim thay
lông muộn và đang tập giọng bằng cặp mỏ mềm còn ứ đầy máu loãng.../ Đợi bài ca
sinh ra từ những hạt cơm vương trong chân cỏ dại/ Từ quả trứng buồn vừa bóc vỏ
thời gian (Bài hát). Nhà thơ đang mộng du hay mê sảng? Khó ai có thể phân
định rạch ròi trạng thái của Nguyễn Quang Thiều từ những bài thơ của ông. Song
chính ở trạng thái đặc biệt này, Nguyễn Quang Thiều đã cho người đọc nhìn thấy
mọi góc khuất lấp / khuất tất của đời sống thực tại.
Từ những góc tối ấy có những tiếng nói riêng biệt và đa dạng đang cất lên, tỉnh táo xen lẫn mê dại, thô ráp đan xen với tinh tế: Không còn ai trên cánh đồng mù mắt/ Bà tôi đâu, đòn gánh gãy đâu rồi/ Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng/ Mất hay còn, than thở để làm chi (Văn bản lần thứ nhất). Bài thơ Đoản ca về buổi tối ghi nhận tâm thế hãi hùng của một người khi tận mắt chứng kiến những cảnh tượng đời sống bị biến dạng, đổ vỡ: Một góc phố một hiệu kim hoàn bị phá cửa/ Và trong quán rượu một người say đâm chết một người say. Đó là hiện thực hay phi thực? Thật khó mà xác định!
Từ những góc tối ấy có những tiếng nói riêng biệt và đa dạng đang cất lên, tỉnh táo xen lẫn mê dại, thô ráp đan xen với tinh tế: Không còn ai trên cánh đồng mù mắt/ Bà tôi đâu, đòn gánh gãy đâu rồi/ Sấm mất giọng, đỉnh núi già mất bóng/ Mất hay còn, than thở để làm chi (Văn bản lần thứ nhất). Bài thơ Đoản ca về buổi tối ghi nhận tâm thế hãi hùng của một người khi tận mắt chứng kiến những cảnh tượng đời sống bị biến dạng, đổ vỡ: Một góc phố một hiệu kim hoàn bị phá cửa/ Và trong quán rượu một người say đâm chết một người say. Đó là hiện thực hay phi thực? Thật khó mà xác định!
Bức tranh trong thơ Nguyễn Quang
Thiều lúc đậm lúc nhạt, khi rõ nét khi nhòe mờ được khắc tạc trong bóng tối sau
mỗi ngày chỉ vừa đủ hình dung và kích thích trí tưởng tượng phong phú của chúng
ta: Chúng ta sống quờ quạng trong những tháng năm bóng tối nham nhở. Nhiều
hơn thành phố vùi sâu vào đất. Những thành phố ra đi vĩnh viễn và mang theo
những cây đèn. Chúng ta bới đất và nâng những cây đèn, như nâng những thi thể
ngừng thở đã lâu nhưng da thịt vẫn còn ấm nóng (Nhân chứng của một cái
chết). Lại thấy hình ảnh những đứa trẻ trong trắng, thơ ngây hiện lên lung linh
như những giọt sương treo trên đầu gai nhọn trong khổ thơ sau: Quanh các con
tôi thế giới đang tự sát/ Hai đứa bé không hay vẫn bứt lá vườn/ Còn sót lại sau
mùa cây sưng phổi/ Bày cơn mơ lên mảnh đất cuối cùng (Con bống đen đẻ
trứng).
Nhà thơ nhiều lúc đã phân thân thành kẻ khác, với cái nhìn khách quan, tỉnh táo và lạnh lùng trước nghịch lý đáng sợ của đời sống thực tại: Và vẫn nhìn thấy/ Cuộc làm tình ban ngày/ Của những kẻ thất nghiệp/ Trong chính công sở của họ/ Và vẫn nhìn thấy/ Nơi ngã tư một chiếc xe tải/ Cán nát một cô gái/ Nhưng bó hoa cô cầm trên tay/ Vẫn nở nốt bông cuối cùng/ Và vẫn nhìn thấy/ Linh hồn những người đã chết/ Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố (Nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường). Chính trong cơn đau đớn, khốn cùng vật vã và cả thất vọng ấy, nhà thơ là người "đi cầu tự cho tương lai của xứ sở mình".
Nhà thơ nhiều lúc đã phân thân thành kẻ khác, với cái nhìn khách quan, tỉnh táo và lạnh lùng trước nghịch lý đáng sợ của đời sống thực tại: Và vẫn nhìn thấy/ Cuộc làm tình ban ngày/ Của những kẻ thất nghiệp/ Trong chính công sở của họ/ Và vẫn nhìn thấy/ Nơi ngã tư một chiếc xe tải/ Cán nát một cô gái/ Nhưng bó hoa cô cầm trên tay/ Vẫn nở nốt bông cuối cùng/ Và vẫn nhìn thấy/ Linh hồn những người đã chết/ Xếp hàng trước cổng trụ sở Tòa án thành phố (Nhật ký ghi dưới gốc cây gần quảng trường). Chính trong cơn đau đớn, khốn cùng vật vã và cả thất vọng ấy, nhà thơ là người "đi cầu tự cho tương lai của xứ sở mình".
Có thể nhìn ngắm hiện thực trong thơ
Nguyễn Quang Thiều với nhiều gam màu dị biệt, lạnh lùng u tối nhưng không bi
lụy, tuyệt vọng,... mà ngược lại, luôn thấy ánh sáng hy vọng, niềm tin mãnh
liệt vào một tương lai tốt đẹp. Đó cũng chính là vẻ đẹp vĩnh cửu và quyền năng
tái tạo thế giới của thi ca: Nhìn xa chân trời nơi bình minh hé môi cười là
bóng/ Những gót chân đích thực, những gót chân đang khuất/ Như những vệt nước
lớn bay hơi nhẹ nhõm không rên rỉ điều gì.../ Cho đến khi từ vòm miệng nồng
hôi, nhớp nháp/ Những cái lưỡi của người tìm được lối ra (Bình minh đang
lên). Bằng linh cảm nhạy bén và khả năng tiên tri của thi sĩ, Nguyễn Quang
Thiều đã nhìn thấy khoảng cách từ bóng tối tới ánh sáng trong một
cự ly quá gần ở đoạn thơ sau: Chúng ta ngỡ bóng tối chứa đầy vũ trụ/ Thực ra
chỉ mỏng như màng mắt người mù/ Và chỉ cần bước thêm một bước/ Chúng ta sẽ sáng
lên sau những hãi hùng (Bóng tối). "Chỉ cần bước thêm một bước",
đó là cách nghĩ, cách gợi, một gọi mời của thi sĩ khi ranh giới giữa xấu tốt thị
phi là... vô cùng mỏng manh.
Những cuộc lên đường cũng là điểm
đến trong chuyển động thơ Nguyễn Quang Thiều. Đó là con tằm chui ra từ vỏ kén,
là mầm cây bật lên từ khe đá, là cơn mưa xuống ngọn đồi trơ trọc, đích đến phía
chân mây mù mịt sương mù, là sự dũng cảm nhích lên nửa bước chân, những mất mát
thua thiệt trong đời sống được đền bù: Và giờ đây trong bóng tối của tháng
Chạp đông cứng như một chiếc hàm thiếc/ Tỏa rừng rực hơi nóng những bao hạt
giống/ trong tiếng nghiến kiên trì khủng khiếp của bánh xe/ đi đến cánh đồng
đang chờ quyền phép của tháng Giêng ban tặng (Quyền phép của thời gian).
Sự ra đi trong thơ Nguyễn
Quang Thiều là ánh sáng để Dựng lên tất cả những cái thây của bóng
tối đầm đìa, để tái tạo hàn gắn, sắp đặt lại thế giới... Đọc thơ ông, ta
thấy tương lai tốt đẹp, ngập tràn hy vọng, thấy ấm áp, ân cần: Người đang
đến. Người đang trở về/ Con đường tinh kết. Con đường lan tỏa.
Đọc đến cuối mỗi bài thơ, bạn đọc như vừa tự tìm được một lối rẽ, tự mình vừa
đặt tay lên những nắm cửa để giải thoát mình sang một không gian khác, một hoàn
cảnh khác... Thức dậy và rút những chân hương ra khỏi ngực mình (Nhịp
điệu châu thổ mới).
Đây cũng là trạng thái thường có khi
kết thúc mỗi cơn "mộng du" của thi sĩ Nguyễn Quang Thiều. Ở đó,
thường mở ra không gian bất tận để bạn đọc nhận ra mình đang đứng trong áp lực
của những cơn gió lớn: Tôi ra sông lấy lòng tay múc một miền nước lớn
(Chiếc bình gốm). Và, ông đã thấy Con đường và số phận dân tộc chúng ta từ
một đỉnh đồi (Bài ca những con chim đêm).
4. Thi pháp và những cách tân
4. Thi pháp và những cách tân
Không gian thơ Nguyễn Quang Thiều luôn động chuyển, biến hóa bất ngờ. Mỗi câu thơ, hoặc đoạn thơ chỉ là một phần nhỏ không hoàn thiện của thi ảnh Nguyễn Quang Thiều, giống như người đi thị sát, có thể đặt tay lên một tảng đá trong trùng trùng núi non mà không mường tượng hết được hình thể tổng quan của nó.
Dưới trăng và một bậc cửa dẫn ta vào một không gian hỗn độn những hình ảnh: chiếc
lá non, bóng cây, con dế mèn, bối tóc, ổ trứng, dãy số, con chó, ổ đất, v.v...
Nếu chỉ chăm chú vào những chuyển động của những hình ảnh đơn lẻ ấy, người đọc
sẽ không bao giờ gặp được vẻ đẹp thơ ca trong đó, thậm chí sẽ thấy chúng rời
rạc, khô cứng và có thể không còn ý nghĩa. Cần phải chuẩn bị một tâm thế khác,
cách nhìn khác khi tiếp cận thơ Nguyễn Quang Thiều. Dưới trăng và một bậc
cửa, cuối cùng, phải chăng là cơn khát tìm đến một thế giới hoàn mỹ những
vẻ đẹp bất tuyệt và đó là cảm xúc phát sinh từ một tâm thế tái sinh, tìm lại
những gì đã mất đi, đã chết...
Thơ Nguyễn Quang Thiều ít chú trọng vào những điểm "nhói sáng" của cảm thức mà dần trải ra trong chiều dài và độ sâu của thi ảnh. Những đứt gãy, rời rạc, như không có liên kết liên tiếp, tạo ra độ giãn cách giữa những nhóm hình ảnh được làm sáng lên trong không gian thẫm tối, tạo độ tương phản rõ rệt, gây ấn tượng mạnh cho người đọc, trước hết dẫn dắt chính tác giả, rồi tới vào trạng thái tê dại, như lạc mê cung...
Thơ Nguyễn Quang Thiều ít chú trọng vào những điểm "nhói sáng" của cảm thức mà dần trải ra trong chiều dài và độ sâu của thi ảnh. Những đứt gãy, rời rạc, như không có liên kết liên tiếp, tạo ra độ giãn cách giữa những nhóm hình ảnh được làm sáng lên trong không gian thẫm tối, tạo độ tương phản rõ rệt, gây ấn tượng mạnh cho người đọc, trước hết dẫn dắt chính tác giả, rồi tới vào trạng thái tê dại, như lạc mê cung...
Có vẻ như chỉ riêng thi sĩ nhìn
thấy: Con bống cái chửa hoang ngơ ngác và thường chết ngất; Hai cánh
tay tôi - hai vây cá rách tướp/ Dìu nỗi sợ chửa hoang đi tìm ổ đất buồn...
Nếu không bị cuốn vào tiến trình mộng mị của hình ảnh thơ Nguyễn Quang Thiều,
người đọc khó lòng đi tới thông điệp đích thực nhà thơ muốn gửi gắm. Nhà thơ
Nguyễn Quang Thiều thường ghi lại những hình ảnh trong trạng thái đặc biệt, đầy
ám thị, với đặc tính thông thường của đời sống hiện thực nhưng thôi miên, ám
ảnh một cách kỳ lạ: một linh hồn cây, ổ lá mục đến vũ hội bầy
bọ chó, một nồi bột bánh... Tất cả là những biểu hiện của nỗi buồn,
niềm hạnh phúc mà chính nhà thơ hóa thân vào thi ảnh.
Không gian nguồn cội và quê nhà luôn
da diết khắc khoải trong thơ Nguyễn Quang Thiều ngay từ tập thơ đầu tay Ngôi
nhà 17 tuổi đến tập thơ Cây ánh sáng (Nxb. Hội Nhà văn, 2009): Sông
Đáy chảy vào đời tôi/ Như mẹ tôi gánh nặng rẽ vào ngõ sau mỗi buổi chiều đi làm
về vất vả/ Tôi dụi mặt vào lưng áo người đẫm mồ hôi mát một mảnh sông đêm
(Sông Đáy). Không gian nguồn cội với Nguyễn Quang Thiều cũng chính là sự ngây
thơ, trong sáng đầy nhân bản, là tình yêu đắm đuối, có lúc mê muội với
thiên nhiên, với những đồ vật vô tri vô giác, với những kỷ niệm ấu thơ. Hình
ảnh đôi rùa mai nâu đã để lại dấu ấn rất riêng biệt của một tình yêu
trong sáng, thơ ngây: Sao ta không chạy nữa, sao ta dừng lại?/ Sao ta không
trườn xuống sông như đôi rùa mai nâu (Dòng sông); hay: Ta chạy qua bao
cánh đồng, qua những mùa cỏ dại/ Hạt cỏ tươi dạt vào túi áo ướt của em
(Dòng sông).
Thơ Nguyễn Quang Thiều càng ấn tượng
hơn khi kiệm lời và được sắp đặt trong những tổ hợp từ đậm chất Nguyễn Quang
Thiều. Có những khoảng trống mời gọi người đọc đồng cảm, và cùng sáng tạo với
từng chùm thi ảnh kết dính cùng cuốn nhau đi, cùng tăng tốc... Nếu chú tâm, dễ
dàng nhận ra lối mở vào không gian thơ, và cả thần thái thơ Nguyễn Quang Thiều
thường nằm ngay ở câu thơ đầu tiên trong mỗi bài, như câu: Hãy mang tôi về
xa nữa (Bài hát), và: Các con cháu tôi đến trước (Bữa tối) đã thực
sự phát lộ ý tưởng chủ đạo (của) bài thơ. Từ ý thức đó, thi sĩ thường chuẩn bị
kỹ tâm thế, cấu tứ cho bài thơ của mình, và cảm xúc mạnh ập đến là gõ máy / hạ
bút xuống: Thức dậy từ cơn mơ, cả cúc áo cũng không cài hết (Dòng sông);
Những ngón chân xương xẩu, móng dài và đen toẽ ra như móng chân gà mái (Những
người đàn bà gánh nước sông); Người nắm chặt những hạt giống và thả vào bầu
trời đất nâu (Hòa âm của những đa bào); Không còn gì cho tôi khóc sớm
nay ngoài cánh đồng rau khúc (Tôi khóc những cánh đồng rau khúc); Tiếng
súng bắn tỉa lần thứ nhất vang lên (Trong tiếng súng bắn tỉa); v.v... Và
cũng chính từ những câu thơ bỏng rát đầu tiên ấy đã cất tiếng nói từ bên trong,
là sự kích hoạt cho những đợt sóng cuộn sôi trào dâng xúc cảm thị hiện cho toàn
bộ bài thơ.
Trong dòng thơ cách tân sau 1975,
cách nói tỉnh táo và sắc lạnh là đặc trưng nổi bật được thể hiện rõ nét, mang
đậm phong cách riêng của Nguyễn Quang Thiều. Đó là sản phẩm tinh thần tất yếu
của sự cảm nhận đời sống công nghiệp hiện đại, của văn minh "remote - nút
bấm", của lai giống, nhân bản, vi mạch, tốc độ... Hiện thực khắc nghiệt
của đời sống và hiện thực tiên tri, tưởng tượng... được khúc xạ, thăng hoa, hắt
sáng từ cảm quan, tư biện đặc biệt của thi sĩ. Tất cả được hiện hữu trong thơ
Nguyễn Quang Thiều vừa đau đớn vừa da diết, vừa chằm bặp vừa lạnh lùng. Ông
luôn thổn thức và hân hoan, đau đớn và thất vọng... trong tư thế một công dân
đầy trách nhiệm: Không nhìn thấy nhà tù nào mà mỗi ngày tôi mất đi một cỏ/
Không nghe tiếng súng nào mà ngực cỏ vỡ đêm đêm (Gọi hồn). Nhiều lúc Nguyễn
Quang Thiều đã nhìn thấy cả những vẻ đẹp lộng lẫy, gần gũi tưởng như có thể
chạm được tay vào, nhưng như bao người cùng thế hệ, có lúc ông thấy, cũng như
ai đó đã kiệt sức không thể bước thêm được nữa: Kìa những cái cây lộng lẫy
và kiêu hãnh trong gió gào rít giữa đêm/ Và một kẻ đang gắng sức tìm lối đến
Thiên đường nhưng lại không ngước được mắt lên (Những công việc của tháng
Mười Một).
Bằng ngôn ngữ thơ giàu tính phân tích, xác đáng, tựa như một bác sĩ phẫu thuật lách lưỡi dao mổ tìm đúng khối u cần giải phẫu, thơ Nguyễn Quang Thiều cho chúng ta bình tĩnh thấy được cốt lõi, cả mặt trái của đời sống, thấy được những khiếm khuyết, bệnh tật, và cả ung nhọt thậm sâu trong từng cơ thể: Chúng ta săn tìm xác chết những con tôm/ trong lọ mắm/ Theo cách của chim ưng/ Chúng ta xé những chiếc bánh mì/ Bằng động tác của báo/ Chúng ta cắt dao vào ngón tay trỏ/ Nhìn xuống gầm bàn chúng ta chửi/ Chiếc giày chân phải/ Hay tranh chỗ của chiếc giày chân trái/ [...] Và lúc đó có người đứng dậy/ Đi vào bóng tối/ Và quay nhìn lại/ Thấy mình mẩy chúng ta cắm đầy giáo/ Phóng tới từ một đấu trường khác (Bức thư đề ngày 25 tháng 12). Cách nói và những điều được nói ấy, quả thật chưa từng xuất hiện trong thơ Việt trước đây. Tôi dẫn tiếp một đoạn thơ sắc lạnh, chính xác của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết về khung cảnh và nhân vật trữ tình: Anh ngắm nhìn những ngón tay em/ gục ngã như nạn nhân trên trường bắn/ Anh ngắm nhìn đôi môi em đầy đọa/ Một ý nghĩ nổ tung trong bản nháp/ Chiếc bút dừng mạnh ở một điểm và tì mạnh (Bản thông cáo).
Bằng ngôn ngữ thơ giàu tính phân tích, xác đáng, tựa như một bác sĩ phẫu thuật lách lưỡi dao mổ tìm đúng khối u cần giải phẫu, thơ Nguyễn Quang Thiều cho chúng ta bình tĩnh thấy được cốt lõi, cả mặt trái của đời sống, thấy được những khiếm khuyết, bệnh tật, và cả ung nhọt thậm sâu trong từng cơ thể: Chúng ta săn tìm xác chết những con tôm/ trong lọ mắm/ Theo cách của chim ưng/ Chúng ta xé những chiếc bánh mì/ Bằng động tác của báo/ Chúng ta cắt dao vào ngón tay trỏ/ Nhìn xuống gầm bàn chúng ta chửi/ Chiếc giày chân phải/ Hay tranh chỗ của chiếc giày chân trái/ [...] Và lúc đó có người đứng dậy/ Đi vào bóng tối/ Và quay nhìn lại/ Thấy mình mẩy chúng ta cắm đầy giáo/ Phóng tới từ một đấu trường khác (Bức thư đề ngày 25 tháng 12). Cách nói và những điều được nói ấy, quả thật chưa từng xuất hiện trong thơ Việt trước đây. Tôi dẫn tiếp một đoạn thơ sắc lạnh, chính xác của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều viết về khung cảnh và nhân vật trữ tình: Anh ngắm nhìn những ngón tay em/ gục ngã như nạn nhân trên trường bắn/ Anh ngắm nhìn đôi môi em đầy đọa/ Một ý nghĩ nổ tung trong bản nháp/ Chiếc bút dừng mạnh ở một điểm và tì mạnh (Bản thông cáo).
Hiện thực đời sống trong thơ Nguyễn
Quang Thiều hiện lên phức tạp và đa diện, từ mặt người, mặt ma quỷ, mặt súc
vật, mặt gỗ... Đọc thơ ông thấy cái Ác và cái Thiện luôn xung đột dữ dội, từ đó
thoát ra niềm khát khao muốn đồng hóa nhau với đủ mọi sắc thái: Một con rắn
rúc vào đám tóc anh và nằm phục cái lưỡi anh lộ ra/ nó muốn giết anh khi đơn âm
đầu tiên của anh phát nổ (Hoa tiêu). Biểu tượng Con rắn trong thơ
Nguyễn Quang Thiều biến ảo khôn lường, lúc là gã thợ xẻ giả dối trong
bài thơ Hồi tưởng tháng Bảy, lúc là con mồi trong bài thơ Những
con mồi, hoặc bầy chim ăn thịt trong Bản tuyên ngôn của cơn mơ...
Như đã trình bày, tập thơ Sự mất
ngủ của lửa là bước khởi động nhưng lại chính là cột mốc quan trọng cho lộ
trình cách tân thơ của nhà thơ Nguyên Quang Thiều. Những tập thơ khác tiếp nối
là các chi tiết tiếp theo để hoàn chỉnh từng phần các hạng mục giàn giáo, cột
kèo, trang trí cho lâu đài thơ của riêng Nguyễn Quang Thiều. Nhịp điệu châu thổ
mới (Hội Văn học nghệ thuật Hà Tây xuất bản, 1997), Bài ca những con
chim đêm (Nxb. Hội Nhà văn, 1999), Cây ánh sáng (Nxb. Hội Nhà văn,
2009) thực sự mở tiếp con đường đã khai phá từ thập niên 90 với việc bung nở
những thi ảnh khác biệt. Đó là một cánh đồng vải liệm thơm tho, con chuột
đồng cắn môi bên bông hoa cổ tích, bình minh đang phơi tóc trong bóng tối;
hay những câu thơ cứ găm vào tâm trí người đọc như một cái "dằm gai"
buốt nhức: Tôi khóc những miếng bánh nóng như một cái lưỡi rơi vào bếp tro
bụi bặm (Tôi khóc những cánh đồng rau khúc). Hay nữa: Chàng quỳ xuống và
ngước lên cây ánh sáng vĩ đại nhất đang toả mãi tán lá ban mai khổng lồ...
(Cây ánh sáng). Ánh sáng trong câu thơ chói ngời lan tỏa chan hòa nơi người
đọc, gội rửa tâm hồn người, thanh tẩy uế trọc tục lụy, đưa con người vươn tới
thánh khiết.
Mặt khác, những hình ảnh quen thuộc
như nước, vòm lá, con cá... được bài trí và chuyển động trong một thế
giới kỳ ảo, đã có tác dụng tra vấn và kích thích mạnh mẽ trí tưởng của người
đọc: Tôi thấy nước đang chảy trong những vòm lá. Con cá tiên chi đang ăn
những trái cây chín đen./ Hãy nhìn ra sông và kìm nén cảm xúc/ Một cái cây thì
thào với một cái cây. Rồi tất cả chợt lặng im như vừa biến mất (Nhân chứng
của một cái chết).
Bên những mạch thơ vạm vỡ, sắc lạnh,
thơ Nguyễn Quang Thiều còn thể hiện sự tinh tế, trữ tình khi viết về thiên
nhiên, con người và những đồ vật giản dị. Bài thơ Mười một khúc cảm là
tổng hòa những giai điệu, phức điệu của ông kiểu như: Ta là chiếc lưới câu
bị bỏ quên đau khổ/ Chỉ đợi run lên trước đôi môi em; hay: Em non bấy
đau trong từng sợ hãi (Những ngôi sao)...
Đọc thơ Nguyễn Quang Thiều, có khi
chúng ta ngỡ mình lạc vào một thế giới đồng dao thần thoại, ở đó mọi người sống
để yêu nhau và hiến dâng hạnh phúc. Thế giới thơ của nhà thơ Nguyễn Quang
Thiều, từ ánh sáng, bầu trời, cây cối, súc vật, ngọn đồi đến mọi đồ vật đơn sơ
đều có linh hồn, hiển hiện cùng nhiều thế hệ con người tồn tại phi thời gian.
Tất cả như cùng đồng hiện, thanh minh, cật vấn... trước vị "quan tòa"
Nguyễn Quang Thiều. Trong thế giới thơ ca riêng biệt ấy, nhà thơ là Chúa tể trị
vì, trả lại sự công bằng, tự do, mở một chân trời khác dưới ánh sáng của thi
ca.
Bài thơ Linh hồn những con bò
của Nguyễn Quang Thiều là một ví dụ. Nếu cánh đồng cuối cùng, bóng tối,
tiếng rống, những chiếc ách, dàn kèn đồng thuộc về hôm qua, hiện thể... thì
đám mây trở thành một biểu tượng của phục sinh miên viễn nhuốm màu sắc
tâm linh: Giờ chỉ còn những đám mây/ phiên bản của đàn bò/ bay trên cánh
đồng/ của những con bò khác.
Trong thơ Nguyễn Quang Thiều hay nhắc tới bên kia, dẫn dụ một thế giới khác nữa kế cận, đã qua hay trong vị lai, là những kiếp trước hoặc chỉ riêng ông nhìn thấy: Tôi phải tới những vụ gieo trồng của cánh đồng bên kia/ Bên kia, những lưỡi cày đang được đất dạy dỗ/ Bên kia, những nông dân quỳ sụp nghe đất đặt tên/ Bên kia, những hạt giống được tắm rửa và đặt vào võng cỏ (Điều thiêng).
Trong thơ Nguyễn Quang Thiều hay nhắc tới bên kia, dẫn dụ một thế giới khác nữa kế cận, đã qua hay trong vị lai, là những kiếp trước hoặc chỉ riêng ông nhìn thấy: Tôi phải tới những vụ gieo trồng của cánh đồng bên kia/ Bên kia, những lưỡi cày đang được đất dạy dỗ/ Bên kia, những nông dân quỳ sụp nghe đất đặt tên/ Bên kia, những hạt giống được tắm rửa và đặt vào võng cỏ (Điều thiêng).
Những hình ảnh trong khổ thơ trên
không còn ở trong phim âm bản, mà người đọc được tận mắt nhìn thấy một góc nhỏ
trong ngày phán xử Tận thế. Ở đó, lưỡi cày tồn tại hàng ngàn năm nghe
đất đai dạy dỗ, người nông dân già chờ đất đai đặt lại tên, và, những
hạt giống được lên ngôi chờ đợi vụ mùa khác của kỷ nguyên khác...
Bài thơ Chuyển dịch màu đen
là đỉnh cao trong lộ trình cách tân của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, là câu
chuyện thơ mang kịch tính, xung đột, gây ấn tượng mạnh, tạo đa nghĩa... Ngôn
ngữ thơ trong bài thơ gần với ngôn ngữ đời sống, súc tích, từng chi tiết diễn
tiến nhanh... Những mảng màu sáng tối tương phản rõ rệt ngay trong từng mạch
thơ. Mỗi câu thơ như nhát bay miết mạnh, dứt khoát trên tấm toan rộng tạo ấn
tượng, nhiều đoạn như nhát búa giáng mạnh vào tâm não người đọc: Những con
muỗi trộn màu đen của chúng vào màu đen ngôi nhà để đánh cắp màu đỏ.../ Những
cặp môi xiết vào nhau như thổ dân xiết hai miếng đá. Nhà thơ dồn nén cảm
xúc vào những trạng thái đặc biệt, chú trọng tạo hiệu ứng xung đột cao để bạn
đọc cảm nhận được vẻ đẹp thơ ca trong những không gian lạ thường: Ngôi nhà
gỗ cắn môi, ổ khoá hóc chết chẹt một khoảng tối.
Bên cạnh những mảng "màu
lạnh", nhà thơ Nguyễn Quang Thiều có chủ ý khá tỉnh táo đặt những hình ảnh
tương phản, lúc giàu tính trữ tình như Cầu thang gỗ đã ngủ, những răng sâu
đã ngủ/ Dìu dịu trên đệm ấm, cơn ngứa thay lông. Nhiều lúc ta bắt gặp những
câu thơ như ngọn đèn bất ngờ bật sáng trong góc tối: Trong góc phòng, bầy cá
vàng giấu mình vào vùng nước tối.../ Những vòm cây đã trộn vào nhau/ Rễ trộn
vào thân và lá trộn vào quả.../ Tỉnh giấc trong khuya bởi màu trắng cơn mê/ Cố
hương xõa tóc đen đi trong gió trắng/ Cố hương vật lên như sóng/ Cố hương vùi
mình như muối triệu năm. Bài thơ trộn lẫn giữa giấc mơ với ngổn ngang hiện
thực, giữa khát vọng tự do, hòa đồng và hóa giải những định kiến về
sắc tộc, văn hóa,... với cách biểu hiện chưa từng có trong lộ trình thơ ca của
ông.
Và lúc này chàng nghe thấy tiếng
chân những đàn bà xanh như nước biển bước đi như không bao giờ hết qua ngôi nhà
chàng/ Và lúc này những cái cây trên thế gian, những ngọn nến xanh khổng lồ
thắp lên trên tất cả con đường.../ Trong một ánh sáng ấy, một âm nhạc ấy, một
ngôn ngữ ấy, trong một bầu trời ấy/ Và Người đã biến chàng trở thành một chiếc
lá nhỏ không bao giờ tàn úa/ trên cành của tán lá ban mai kỳ vĩ trong vũ trụ
ngập tràn (Cây ánh sáng). Nếu ánh sáng trong
tập thơ Sự mất ngủ của lửa là ngọn đuốc, đèn pha, thì ánh sáng trong tập
thơ Cây ánh sáng được hắt lên từ đường chân trời rạng đông, cho ta nhìn
thấy hết vẻ đẹp trinh nguyên, bất tận của một sớm mai tuyệt đẹp. Cho ta biết
được một ngày mới đang đến với bao khác biệt, nhiều bí ẩn, bất ngờ... Bằng
những chuyển động tất yếu tuân theo quy luật tự nhiên, tập thơ Cây ánh sáng
cho chúng ta được quyền tin yêu và hy vọng vào những điều tốt đẹp trên thế gian
này.
5. Kết.
5. Kết.
Lộ trình thơ Nguyễn Quang Thiều khởi
đi từ tập thơ Sự mất ngủ của lửa đến những tập thơ về sau đã định hình
một phong cách riêng biệt. Ông đã khẳng định tài năng, bản lĩnh thi sĩ và sự
dũng cảm của mình bằng khả năng thiên bẩm, bằng kiến thức và trải nghiệm phong
phú. Phổ thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều không giới hạn trong không gian
hẹp, hay vùng miền mà nhân rộng, giàu sức khái quát và tính biểu tượng cao, có
thể nhìn từ nhiều góc độ, nhiều hệ quy chiếu thẩm mỹ. Ông là một trong
những thi sĩ tiên phong của dòng chảy thơ ca cách tân đương đại trong nước...
Hải Phòng, 09-4-2012
M.V.P
Nguồn: TCNV 06-2012
“Mạt cưa mướp đắng đôi bên một phường”! Các người tâng bốc nhau một cách lộ liễu, vô duyên mà không biết xấu hổ. Các người đang phá hỏng một nền thi ca của Việt Nam từ xưa đến nay mà lại tự vỗ ngực cho rằng “đặt đầu mốc quan trọng khai mở dòng chảy thi ca cách tân trở về sau”. Các người hãy mở mắt nhìn xem, từ nay về sau những ai đi theo cái gọi là cách tân của các người. Chỉ có những kẻ trình độ thấp kém nhưng lại háu danh, hùa nhau đi theo các người mà thôi! Còn những người có trình độ, những người có lương tâm, những người có tâm hồn yêu thơ chân chính không ai chấp nhận cái dòng thơ mất thẩm mỹ, mất tính nhân văn mà ông cha ngàn xưa để lại!
ReplyDelete(Thanh Trúc)